03/02/2018
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 4 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm
II): 1 V 3, 4-13
"Xin ban cho
tôi tớ Chúa tâm hồn ngoan ngoãn để đoán xét dân Chúa".
Trích sách Các Vua quyển
thứ nhất.
Trong những ngày ấy,
Salomon đến Gabaon để dâng hy lễ, vì đây là nơi cao rộng nhất. Salomon dâng
trên bàn thờ này một ngàn lễ vật toàn thiêu. Tại Gabaon ban đêm, Chúa hiện ra
cùng Salomon trong giấc mộng, và phán rằng: "Ngươi muốn gì thì hãy xin, Ta
sẽ ban cho ngươi". Salomon thưa: "Chúa đã tỏ lòng rất nhân hậu đối với
cha con là Ðavít, tôi tớ Chúa, vì người đã sống trước tôn nhan Chúa trong chân
lý và công bình, đã ăn ở ngay thẳng đối với Chúa. Chúa đã dành cho người một
lòng nhân hậu lớn lao, đã ban cho người đứa con trai hiện đang ngồi trên ngôi
báu của người. Và giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa khiến tôi tớ Chúa cai
trị kế vị Ðavít thân phụ con. Nhưng con chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi
nước bước. Tôi tớ Chúa đang sống giữa dân Chúa chọn, một dân đông đảo không thể
đếm và ước lượng được. Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn ngoan ngoãn để
đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân của
Chúa đông đảo thế này".
Ðiều Salomon kêu xin
như trên đã làm đẹp lòng Chúa, nên Chúa phán cùng Salomon rằng: "Vì ngươi
đã xin điều đó, mà không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân
thù, lại xin cho ngươi được khôn ngoan để biết xét đoán, thì đây Ta ban cho
ngươi điều ngươi xin, và ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi
trước ngươi không có ai giống như ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi. Cả
những điều ngươi không xin, như giàu có và vinh quang đến nỗi từ trước đến giờ,
trong các vua, không vua nào được như ngươi, Ta cũng ban cho ngươi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 9. 10.
11. 12. 13. 14.
Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy con các thánh chỉ của Chúa (c.
12b).
Xướng: 1) Tuổi trẻ lấy
chi giữ cho thanh khiết đường đời? Bằng cách noi theo lời vàng của Chúa. - Ðáp.
2) Với tất cả tâm can
con tìm Chúa, xin chớ để con lạc xa chỉ thị Ngài. - Ðáp.
3) Con chôn cất trong
lòng lời răn của Chúa, để con không phạm tội phản nghịch Ngài. - Ðáp.
4) Thân lạy Chúa, Ngài
muôn phước đức, xin dạy con các thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
5) Con kể được ra nơi
đầu môi, tất cả những huấn dụ bởi miệng Ngài. - Ðáp.
6) Con vui vì đường lối
lời Ngài nghiêm huấn, dường như được mọi thứ giàu sang. - Ðáp.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết
Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 30-34
"Họ như đàn
chiên không người chăn".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo thánh Marcô.
Khi ấy, các tông đồ hội
lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy.
Người liền bảo các ông: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một
chút". Vì lúc ấy dân chúng đến tấp nập đến nỗi các tông đồ không có thì giờ
ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các
ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó
và tới nơi trước các ngài. Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật
đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy
dỗ họ nhiều điều.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Dung mạo Chúa
Giêsu
Manio Flajano, văn sĩ, ký giả kiêm đạo diễn người Italia,
qua đời năm 1972, đã để lại những trang nhật ký thật cảm động: năm 1942, đứa
con gái 8 tuổi của ông bị bệnh sưng màng óc và kéo lê cuộc sống tàn tật đó cho
đến năm 1992. Nhìn đứa con mà lòng đau xót, nhưng người cha vẫn đặt tin tưởng,
phó thác vào Thiên Chúa. Trong một trang nhật ký, ông viết: "Một người đàn
ông nọ dẫn đến cho Chúa Giêsu đứa con gái bệnh tật và nói với Ngài: "Con
không muốn chữa lành nó, nhưng chỉ xin Chúa yêu thương nó mà thôi". Chúa
Giêsu cúi xuống hôn đứa bé mà nói: "Ta nói thật, người đàn ông này đã xin
điều mà có thể cho được". Nói xong, Chúa Giêsu biến đi trong ánh sáng chói
ngời bỏ lại một đám đông tiếp tục bàn tán về các phép lạ, còn các nhà báo thì cố
gắng mô tả các phép lạ".
Những dòng trên đây của
Flajano đưa chúng ta vào trọng tâm của Tin Mừng. Thật thế, Tin Mừng không phải
là một mớ lý thuyết hay giáo điều, Tin Mừng cũng không phải là một Thiên Chúa
cao xa trừu tượng. Tin Mừng thiết yếu là một con người bằng xương bằng thịt, với
một trái tim dễ rung động và biết yêu thương. Ðọc lại các sách Tin Mừng, chúng
ta thấy Chúa Giêsu đã không làm phép lạ như một phù thủy múa may cây đũa thần của
mình, Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm lóe mắt thiên hạ. Phép lạ là
dấu chỉ của ơn cứu độ, là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, một
Thiên Chúa yêu thương đến độ hóa thân làm người và sống thiết thân với con người.
Trong Tin Mừng hôm
nay, thánh Marcô như tóm tắt tất cả dung mạo của Chúa Giêsu trong câu nói:
"Chúa Giêsu thấh đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương". Ðây là tất
cả mạc khải về tình yêu Thiên Chúa đối với con người: thay cho một Thiên Chúa ở
trên cao, thưởng phạt chí công, lạnh lùng nghiêm khắc, Chúa Giêsu đã bày tỏ cho
chúng ta một Thiên Chúa đi vào lịch sử con người, một Thiên Chúa sinh ra như một
em bé, một Thiên Chúa có trái tim cảm thông và tha thứ, một Thiên Chúa gần gũi
với con người, có mặt trong từng nhịp thở của con người.
Chiêm ngắm một Thiên
Chúa như thế qua con người Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng nhận ra được một chân
lý về con người, bởi vì như Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến chế "Vui mừng
và Hy vọng" đã nói: Chỉ trong ánh sáng của Ngôi Lời Nhập Thể, chân lý về
con người mới được sáng tỏ. Con người bởi đâu mà đến? sẽ đi về đâu? chúng ta nhận
ra điều đó trong Chúa Giêsu đã đành, mà trong Ngài, chúng ta còn phải biết sống
thế nào cho phải đạo làm người. Qua cung cách của Ngài, chúng ta thấy phải đối
xử thế nào với người đồng loại. Qua cuộc sống yêu thương và yêu thương đến chết
trên Thập giá, chúng ta hiểu được rằng hiến thân cho tha nhân là ơn gọi của con
người, chỉ có con người mới được mời gọi để sống cho tha nhân mà thôi.
Tin mừng của chúng ta
là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không ngừng được mời gọi để sống
kết hiệp với Ngài, để đón nhận sức sống của Ngài và sống theo lý tưởng của
Ngài. Ước gì chúng ta luôn được củng cố trong niềm xác tín rằng Ngài đang hiện
diện và đồng hành với chúng ta trong từng phút từng giây cuộc sống.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 4 TN
Bài đọc:
I Kgs 3:4-13; Mk 6:30-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Liên hệ giữa
mục-tử và đoàn chiên
Trong cuộc đời không
ai là một hòn đảo để tự mình sinh sống. Con người cần sự giúp đỡ của tha nhân,
và chính họ cũng phải giúp đỡ người khác. Một em bé chào đời không thể tự mình
sinh sống. Về phương diện vật chất, em cần sự thương yêu và chăm sóc của cha mẹ
cho đến khi em đủ khả năng để tự sinh sống một mình. Về phương diện tri thức,
em cần sự giáo dục trong gia đình cũng như nhà trường, để giúp em thâu thập những
kiến thức cần thiết để biết đối xử, suy luận, và làm việc với mọi người. Về
phương diện tâm linh, em cần được hướng dẫn để nhận ra Đấng Tạo Thành, và sống
mối tương quan với Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay nhấn
mạnh đến những mối liên hệ này, đặc biệt mối liên hệ giữa mục-tử và đoàn chiên.
Trong Bài đọc I, năm chẵn, vua Solomon chỉ xin Thiên Chúa ban cho có được khôn
ngoan để chăn dắt dân chúng trong chính trực và thương yêu, vì Vua biết có khôn
ngoan là có tất cả. Trong Phúc Âm, tuy Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải biết quí
trọng sự yên tĩnh để nghỉ ngơi và sống mối liên hệ với Thiên Chúa, nhưng chính
Ngài đã không thể cầm được lòng thương xót khi thấy dân Ngài vất vả “như chiên
không người chăn dắt.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để
cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái.
2.1/ Lời cầu xin cho được
khôn ngoan của vua Solomon: Người khôn ngoan
là người biết Thiên Chúa, biết mình, và biết người. Vua Solomon chứng minh ông
là người khôn ngoan ngay cả trước khi ông cầu xin cho được khôn ngoan.
(1) Solomon biết học hỏi
kinh nghiệm của người đi trước: Sống dưới sự giáo dục của vua cha David, Solomon
chắc chắn đã học hỏi rất nhiều tính tốt nơi cha của mình như: lòng tin tưởng
tuyệt đối và kính sợ Thiên Chúa, tâm hồn công chính ngay thẳng, luôn thương yêu
và lo lắng cho những người dưới quyền mình. Tuy nhiên, Solomon cũng đã được biết
tội lỗi của cha và những hậu quả tai hại đã xảy đến cho gia đình và đất nước; hậu
quả của việc không biết xét xử công minh. Thực ra, lời Thiên Chúa hỏi Solomon:
" Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ ban cho!" là một lời thử thách nguy hiểm; vì
nếu không biết điều mình xin, những gì Thiên Chúa ban cho sẽ gây thiệt hại cho
Solomon nhiều hơn là làm lợi. Ví dụ: xin cho được sống trường thọ trong khi cơ
thể già yếu và bệnh tật; hay xin cho được giàu có mà không biết sự giàu có sẽ
làm cho gia đình tan nát hay làm con người xa Thiên Chúa.
(2) Solomon nhận ra khả
năng giới hạn của mình trong việc điều khiển đất nước: Người lãnh đạo phải là
người khôn ngoan sáng suốt, thì mới có thể chỉ đường cho dân chúng đi; ngược lại,
nếu người lãnh đạo mù quáng, làm sao ông có thể chỉ đường cho dân chúng? Đúng
như lời Chúa Giêsu chỉ trích các biệt phái và kinh sư: "Mù dẫn mù, cả hai
cùng lăn xuống hố!" Nhận ra sự quan trọng của khôn ngoan trong việc lãnh đạo
quốc gia và giới hạn của bản thân, Solomon cầu xin với Thiên Chúa: "Con chỉ
là một thanh niên bé nhỏ, không biết cầm quyền trị nước. Con lại ở giữa dân mà
Chúa đã chọn, một dân đông đúc, đông không kể xiết, cũng không đếm nổi. Xin ban
cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt
phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như
thế?"
2.2/ Thiên Chúa hài lòng
và hứa ban điều vua Solomon xin.
(1) Thiên Chúa hài
lòng và ban cho Solomon điều vua ước nguyện: Lời xin của Solomon đẹp lòng Thiên
Chúa, vì vua không chỉ quan tâm đến bản thân, nhưng biết để ý đến việc chăn dắt
Dân Chúa. Ngài phán với vua: "Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không
xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải
chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta làm theo như lời
ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi,
chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp."
(2) Có khôn ngoan là
có tất cả: Solomon có thể nhìn thấy trước những gì khôn ngoan sẽ mang lại. Khi
biết cách lãnh đạo, đời sống dân chúng sẽ phát triển, đất nước sẽ thái bình thịnh
trị; người lãnh đạo khôn ngoan sẽ được vinh quang và hưởng mọi nguồn phú túc
giàu sang từ dân chúng. Ngược lại, với một người không biết lãnh đạo, đời sống
dân chúng sẽ lầm than khổ sở, đất nước sẽ rơi vào tình trạng nghèo đói, nhà
lãnh chắc chắn sẽ phải lãnh nhận hậu quả và bị khai trừ để người khác thay thế.
Vì vậy, biết cách xin đúng đắn như Solomon là biết cách giải quyết mọi vấn đề.
Lịch sử chứng minh triều đại của Solomon là triều đại huy hoàng và thịnh vượng
nhất trong số tất cả các vua của Israel.
3/ Phúc Âm: Hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi
chút.
3.1/ Người tông-đồ cần
quí trọng sự thanh vắng để được nghỉ ngơi bồi dưỡng: Các tông-đồ cũng giống như chúng ta dễ cảm thấy mừng vui
khi nhìn thấy kết quả những gì mình đã hy sinh và được dân chúng hoan ngênh nhiệt
liệt. Những lúc như thế, đa số sẽ sẵn sàng hy sinh, ngay cả việc ăn uống, ngủ
nghỉ, để có thời giờ làm việc hơn nữa để đáp ứng mọi nhu cầu của dân chúng. Tuy
nhiên, Chúa Giêsu đã khôn ngoan nhắc nhở các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng
ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Có nhiều lý do cho lời khuyên
khôn ngoan này:
- Thân xác con người
có giới hạn của nó: Khi con người làm việc mệt mỏi, họ cần được nghỉ ngơi dưỡng
sức; nếu không họ sẽ dễ dàng bị quá tải, và làm việc sẽ không đạt hiệu năng.
- Hoạt động tông đồ cần
được thăng bằng qua đời sống cầu nguyện: Nếu không dành thời giờ cho việc cầu
nguyện, người tông-đồ sẽ không có sức mạnh tinh thần cho những đòi hỏi của việc
tông-đồ. Thánh phụ Đa-minh đã thăng bằng 2 cuộc sống bằng cách rao giảng ban
ngày và cầu nguyện ban đêm.
3.2/ Con người khao khát
được dạy dỗ và lắng nghe Tin Mừng: Tuy đã
cùng với các tông-đồ xuống thuyền để xa cách dân chúng để Thầy trò có thể nghỉ
ngơi dưỡng sức, nhưng khi ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông
đã chờ đợi sẵn, Ngài chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.
Người lại bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
Xưa cũng như nay, nhu
cầu săn sóc phần hồn cho dân chúng luôn khẩn trương cần thiết, vì:
(1) Chiên không người
chăn sẽ không biết đường đi: Người mục-tử tinh thần cần chỉ cho đoàn chiên của
mình đường đi tới Thiên Chúa, đích điểm của cuộc đời. Không có đích điểm này,
con người sẽ dễ lạc hướng, và sẽ bị cuốn hút vào những mời gọi bất chính của quỉ
thần và thế gian.
(2) Chiên không người
chăn sẽ không kiếm được thức ăn bổ dưỡng: Người mục-tử tinh thần cần chính mình
nuôi dân hay chỉ cho dân tới những thức ăn tinh thần như Lời Chúa, các bí-tích,
và đời sống cầu nguyện kết hợp với Thiên Chúa.
(3) Chiên không người
chăn sẽ làm mồi cho thú dữ: Người mục-tử tinh thần cần sớm nhận ra và chỉ cho
đoàn chiên biết những cám dỗ nguy hiểm và cạm bẫy của cuộc đời: lối sống ích kỷ,
hưởng thụ, tôn thờ vật chất, giết hại thai nhi, thay vợ đổi chồng, tự do quá trớn
…
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mối liên hệ giữa mục-tử
và đoàn chiên đòi hai chiều: mục-tử cần yêu thương và lo lắng cho đoàn chiên;
trong khi đoàn chiên cần vâng lời và giúp đỡ mục tử chu toàn nhiệm vụ. Cả hai cần
phải thi hành thánh ý của Thiên Chúa, làm sao cho mọi người đạt được ơn cứu độ
mà Chúa Giêsu đã chuẩn bị.
- Mục tử cần cầu xin
cho có được sự khôn ngoan của Thiên Chúa, để biết cách dẫn dắt đoàn chiên sống
theo lề luật của Thiên Chúa và tránh khỏi mọi nguy hiểm của ba thù.
- Các hoạt động tông đồ
cần được thăng bằng với đời sống cầu nguyện. Một đời hoạt động tông đồ không có
cầu nguyện sẽ lạc hướng và dễ rơi vào chán chường, thất vọng.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
03/02/2018 - THỨ BẢY ĐẦU THÁNG TUẦN 4 TN
Th. Bla-xi-ô, giám mục, tử đạo
Mc 6,30-34
QUAN TÂM, CHĂM SÓC – LIỀU THUỐC BỔ
“Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà
nghỉ ngơi đôi chút.” (Mc 6,31a)
Suy niệm: Chúa Giê-su đã sai các môn
đệ lên đường thi hành sứ vụ. Giờ đây các ông trở về tường trình cho Thầy hay “mọi
việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy.” Hình ảnh Thầy trò quây quần
hàn huyên với nhau thật thân thương và cảm động. Với trái tim người Thầy, Chúa
Giê-su lắng nghe các tông đồ kể lại những niềm vui nỗi buồn, những thành công
thất bại của các ông trên con đường sứ vụ. Với cặp mắt tinh tế, Chúa Giê-su thấy
được sự mệt mỏi vất vả đằng sau những lời lẽ đầy say mê hào hứng của các môn đệ.
“Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”: Lời
nói thân tình săn sóc tế nhị này của Ngài có giá trị vô song hơn hẳn mọi lời
khen, mọi món quà to lớn. Nó chính là liều thuốc tăng lực tinh thần giúp các
ông phục hồi năng lượng thiêng liêng cho những sứ vụ sắp tới.
Mời Bạn: Trong đời sống gia đình
hay cộng đoàn, những cử chỉ, lời nói đầy quan tâm và chăm sóc như thế này luôn
là điều cần thiết và đấy chính là liều thuốc tăng lực thiêng liêng làm đời sống
gia đình, cộng đoàn triển nở. Tự vấn: Tôi có nhìn ra những điều mà anh chị em
tôi đang cần để lên tiếng đề nghị hay ra tay giúp đỡ không?
Sống Lời Chúa: Tôi học gương Chúa Giê-su
hôm nay để trở nên liều thuốc bổ cho mọi người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa
sai con đi vào giữa một thế giới mà con người đang đề cao cái tôi ích kỷ, xin
cho con biết sống quan tâm săn sóc anh chị em chung quanh con, để mọi người trở
nên liều thuốc bổ cho nhau. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Đến một nơi thanh vắng (3.2.2018 – Thứ bảy Tuần 4 Thường niên)
Tĩnh tâm là dành một thời gian để lòng mình lắng xuống, đọc lại những biến cố đã xảy ra trong đời mình, nhìn lại những kinh nghiệm mình đã trải qua bằng cái nhìn của Chúa.
Suy niệm:
Các môn đệ trở về gặp lại
Thầy Giêsu
sau cuộc hành trình tông
đồ đầu tiên nhiều thú vị.
Họ cùng nhau tụ họp chung
quanh Thầy
và thi nhau kể cho Thầy
nghe tất cả những gì họ đã làm và đã dạy.
Thầy Giêsu thấy họ vui vì
đã có thể đuổi được quỷ, chữa được bệnh.
Những ông đánh cá ít học,
nói năng bỗ bã,
trở thành người rao giảng
mạnh bạo Tin Mừng về Nước Trời.
Nhưng Thầy Giêsu cũng thấy
nét mêt mỏi nơi khuôn mặt họ.
Các tông đồ không có giờ
ăn uống vì bị đám đông bao vây.
“Anh em hãy lánh riêng
ra,
đến một nơi thanh vắng mà
nghỉ ngơi đôi chút.” (c.31).
Lời mời trên cho thấy mối
quan tâm của Thầy đối với các môn đệ,
những người thợ cần được
nghỉ ngơi cả thân xác lẫn tinh thần.
Họ cần tách mình ra khỏi
đám đông, khỏi công việc,
để đến nơi hoang mạc mà
tĩnh tâm.
Tĩnh tâm là nghỉ ngơi bên
Thầy trong sự ấm áp của tình thầy trò,
không bị vướng bận bởi
công việc phục vụ.
Tĩnh tâm là dành một thời
gian để lòng mình lắng xuống,
đọc lại những biến cố đã
xảy ra trong đời mình,
nhìn lại những kinh
nghiệm mình đã trải qua bằng cái nhìn của Chúa,
cả những khó khăn và thất
bại, những bất trung và vấp ngã…
Nhưng tĩnh tâm không phải
chỉ để nhìn lui, mà còn để nhìn tới.
Các tông đồ cần vượt qua
những hứng khởi nhất thời do thành công.
Họ cần trầm lắng để chuẩn
bị cho những khó khăn sắp đến.
Lời mời của Thầy Giêsu
vẫn đụng đến chúng ta hôm nay,
những con người tất bật,
vội vã, lo âu và căng thẳng,
những con người kiệt sức
vì đòi hỏi của công việc hay vì nghiện việc.
Lánh riêng, nghỉ ngơi ở
nơi hoang vắng, tĩnh tâm,
đó không phải là những
điều dành riêng cho giới tu sĩ.
Đó là nhịp bình thường
của những người bỗng thấy mình đang bị cuốn đi,
trôi đi, mất hướng, mất
chính mình, trở nên con rối ngờ nghệch.
Tuy nhiên, không dễ tìm
được nơi hoang vắng, để cách ly mình khỏi công việc.
Khi Thầy và các môn đệ
đến được nơi hoang vắng ưng ý,
thì chỗ đó chẳng còn vắng
nữa, vì dân chúng đã đến trước rồi.
Chúng ta vẫn cứ phải tìm
chỗ vắng riêng cho mình với Chúa suốt đời.
Cầu nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn
tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được
những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm
công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được
lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ
của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu
nguyện
thấm nhuần vào cả đời
con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con
người thật của con
và khuôn mặt thật của
Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3 THÁNG HAI
Trong Lãnh Vực Y Tế
…
Trong các chuyến viếng
thăm mục vụ của tôi, nhất là tại những nước đang phát triển, tôi nhận thấy rằng
lãnh vực y tế là một lãnh vực đang khẩn thiết đòi ta phải đấu tranh cho con người.
Chẳng hạn, người ta ngày càng chú ý đến kỹ thuật, nhưng lại không phải bao giờ
cũng quan tâm bảo vệ quyền của con người.
Đau khổ, bệnh tật và
chết chóc là những thực tại rất căn bản của cuộc nhân sinh. Tất cả chúng ta phải
cộng tác với nhau để giải quyết – một cách đầy nhân tính – những vấn đề hệ lụy
của các thực tại ấy. Giúp đỡ các bệnh nhân vượt qua cơn bệnh của họ một cách bảo
đảm phẩm giá – đó chắc chắn là điều mà nhân loại kỳ vọng từ khoa học, từ kỹ thuật
và từ việc sử dụng thuốc men. Nhưng để được như thế, không thể không có một
nhãn quan sáng tỏ về bổn phận phải tuyệt đối tôn trọng con người. Con người là
tạo vật duy nhất siêu vượt trên thực tại vật chất – bởi vì con người không chỉ
là vật chất mà còn là tinh thần. Đó phải là điểm qui chiếu thường xuyên của
chúng ta trong lãnh vực y khoa, nếu chúng ta thực sự muốn tránh những hậu quả
khôn lường gây ra cho xã hội. Tôn trọng phẩm giá của nhân vị – đó là bổn phận của
tất cả chúng ta.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 03/02
1V 3, 4-13; Mc 6,
30-34
LỜI SUY NIỆM: “Các Tông Đồ
tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm,
và mọi điều các đã dạy”
Đây thật sự là một bầu
khí cần phải có cho mọi thành phần trong dân Chúa, đặc biệt cho những người
mang trách nhiệm đem lời Chúa và giáo lý đến cho cộng đoàn. Cần gặp Chúa trước
rồi đến gặp con người, và sau khi gặp con người thì lại tìm gặp Chúa để trình
bày. Điều này sẽ giúp cho mỗi người chúng ta nhận được niềm vui trọn vẹn hay cần
phải sửa lại chính mình.
Lạy Chúa Giêsu. Mỗi
người trong chúng con đang mang trên mình sứ mạng là: “chứng tá của Tin Mừng”.
Xin cho mỗi người trong chúng con khởi đầu trong ngày luôn nhớ tới Chúa, dâng
ngày sống và công việc trong ngày cho Chúa và cuối ngày tìm gặp lại Chúa, để nhận
ra giá trị của ngày sống của mình.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 03-02
Thánh ANSGARIÔ
Giám mục tông đồ
các xứ Bắc Âu
(801-865)
Ansgariô (hay là
Anskar theo Anh ngữ) đã trở thành biệt danh Oscar ngày nay, có nghĩa là
"cây lao của Thiên Chúa". Ansgario gốc người Đức, sinh tại Picardia.
Cha Ngài là một viên chức trong triều đình vua Charlemagne, đã gởi Ngài theo học
tại tu viện thánh Phêrô ở Corbia. Cậu thiếu niên đã gặp được ở đó những bậc thầy
có thế giá. Các môn học trần tục làm Ngài say mê đến độ nơi tâm trí Ngài ý
nghĩa tôn giáo ngày một lạc phai. Nhưng một biến cố đã đánh động Ngài mạnh mẽ,
nhà vua mà Ngài biết được là rất nổi danh nơi triều đình đã chết.
Cái chết đó cho Ngài
thấy được tính cách hư không của mọi cái gọi là nhân bản và trần tục, Ngài cũng
nhớ lại rằng: hồi nhỏ khi mất mẹ, trong một giấc mơ, Ngài thấy Đức Trinh Nữ
Maria hứa sẻ bảo vệ Ngài luôn mãi, nếu biết giữ gìn đức tin và lòng mến. Sau
cùng Ngài cảm thấy rằng: Chúa muốn mình làm tông đồ. Từ đó Ngài không ngừng tiến
tới trong việc học hành cả về đạo lý lẫn việc đời, Ngài nhiệt thành làm tất cả
những gì là tốt đẹp. Những tiến bộ và nhiệt tâm ấy lớn lao đến nỗi chẳng mấy chốc
tới phiên Ngài phải dạy lại cho các tu sĩ trẻ và trẻ em. Vào tuổi hai mươi mốt,
Ngài trở thành một trong những thủ lãnh tu viện Corvey. Ở Saxe hay là
Corbia-Nova, được thiết lập ngay giữa trung tâm trí thức. Là giáo sư thần học,
Ngài cũng đảm nhận việc giảng dậy cho dân chúng nữa.
Vào thời này, Harold
là vua miền Nam Đan mạch, khi bọn phản loạn săn đuổi, đã xin trú ngụ tại triều
đình vua Lu-y đặt tại Mayence. Ong đã trở lại đạo và lãnh nhận phép rửa. Khi trở
về quê hương, ông đã xin các nhà truyền giáo tới rao giảng Phúc âm cho xứ sở
mình. Ebbon, giám mục Reims đã dấn thân trước hết, rồi một khi gần trở lại nước
Pháp, Ngài đã chỉ định Ansgario. Ansgario lên đường với một tu sĩ khác nữa. Họ
làm liều đi vào miền còn hoàn toàn ngoại giáo. Những người trẻ bị bắt làm nô lệ
đã trở thành các Kitô hữu đầu tiên của xứ sở. Công việc tông đồ thật vất vả nhọc
mệt. Các Ngài bị trục xuất. Các tu sĩ trở lại lãnh trách nhiệm.
Một tòa đại sứ Thụy Điển
xin các thừa sai. Lần này Ansgariora đi với một tu sĩ người Corbia. Vì người bạn
đường cũ đã chết. Khi đi nagng qua biển Baltique, họ bị bọn cướp tấn công bóc lột
hết và bị người Nang lấy trọn quà tặng họ mang dâng nhà vua ở Upsala. Các nhà
truyền giáo tới biệt thự của Birca, hoàn toàn trơ trụi. Tại đây các Ngài đã thiết
lập một cộng đoàn Kitô hữu. Sau một năm rưỡi mệt nhọc làm việc tông đồ, các
Ngài trở về Pháp. Nhà vua đã đặt Ansgario làm tổng giám mục Hambourg bao gồm miền
Scandinavia (Bắc Âu) Ansgario đi Roma để được Đức Thánh Cha bổ nhiệm và Đức
Gregôriô IV đã đặt Ngài làm đại diện tại cả Na-uy và Thụy Điển. Ngài xây cất một
nhà thờ chính tòa ở Hambourg, thiết lập một tu viện cho các tu sĩ Corbia.
Người ta thấy Ngài quỳ
lạy dưới chân người nghèo và khiêm tốn phục vụ họ. Ngài cũng rao giảng trong
các miền lân cận bất kể những thủ địch hung ác. Khi ấy như một đám mây người
Normandie đặt Hambourg vào vòng máu lửa, Ansgario chỉ còn là một kẻ lang thang
sống vất vưởng. Vharles de Chauve đã chiếm một tu viện miền Flandre là nơi Ngài
đã thiết lập một trường truyền giáo. Giữa cao điểm của cuộc sống khốn cực âu
lo, Ngài đã không hề đánh mất lòng trông cậy vào Chúa. Cuối cùng những kẻ bách
hại bị xua đuổi. Xứ truyền giáo Thụy Điển lại vùng lên.
Một cộng đồng ở
Constane đã đặt Ansgario làm giám mục Brême. Ngài trở lại truyền giáo ở Đan mạch,
thiết lập một trung tâm tôn gíao mới, cải hóa nhà vua.
Ansgario muốn hiến trọn
đời mình cho Thiên Chúa bằng việc tử đạo nhưng Ngài đã qua đời êm ái tại Brême
năm 865. Cuộc tử đạo của Ngài chính là cuộc chiến kiên trì suốt đời với nhiều
những thất bại, lại ít có những thành công rực rỡ. Nhưng sự nhẫn nại của vị anh
hùng giám mục lang thang này đã chuẩn bị cho cuộc trở lại các xứ vùng Bắc Âu.
******************
Ngày 03-02
Ngày 03-02
Thánh BLASIÔ
Giám mục Tử đạo
(.... - 316)
Có nhiều câu chuyện
vây quanh thánh Blasiô. Ngài là giám mục Sêbasta, miền Armênia; Ngài hiến cả
xác hồn cho dân chúng... nhất là dân nghèo, Ngài đã học nghề thuốc, nhưng không
bao giờ chữa bệnh cho ai mà không xin Chúa giúp trước đã, dường như vị y sĩ vĩ đại
này muốn nói rằng: "Tôi băng bó cho họ nhưng Thiên Chúa chữa lành cho họ".
Ngài rao giảng, day dỗ, nhưng không có bài học nào hay hơn chính gương mẫu đời
Ngài.
Năm 315, một cuộc bách
hại bùng ra dưới triều đại vua Luciniô. Đức giám mục giúp đỡ các vị tử đạo. Rồi
để trốn thoát các kẻ thù địch, Ngài ẩn mình ở hang núi Agêa, là nơi Ngài sống bằng
rễ cây và nước lã. Thú rừng thân tình bao quanh Ngài và Ngài chữa lành cho những
con bệnh tật. Mỗi ngày một đông dân chúng tuốn đến với với Ngài. Nếu thấy Ngài
đang cầu nguyện chúng lặng lẽ không ngăn trở và đợi cho đến khi Ngài cầu nguyện
xong. Khi đó Thánh nhân quay lại với đoàn vật và chúc lành cho chúng và đoàn vật
mãn nguyện trở lại sa mạc.
Agricôla, quan cai trị
Cappadecia tìm thú rừng sống trong các khu rừng gần Sêbasta, để xé các Kitô hữu.
Đoàn người đi săn ngạc nhiên khi thấy cả bầy sói, gấu, sư tử trong một cái hang
vây quanh một người, đang cầu nguyện. Họ vội về báo tin cho Agricôla và ông này
đã truyền bắt vị tu rừng này.
Thấy binh sĩ của nhà
vua. Blasiô bình thản nói:- Tôi đã sẵn sàng. Đêm qua Chúa hiện ra và nói với
tôi, là Ngài ưng nhận lễ hy sinh của tôi.
Trên đường Ngài đi
qua, dân chúng tuốn đến, trong số ấy có cả các lương dân. Họ khóc lóc xin người
chúc lành. Một người mẹ đặt đứa trẻ đang hấp hối dưới chân Blasiô và nhìn trời
bà la: - Lạy Chúa nhân từ, xin đừng bỏ qua lời cầu của tôi tớ Ngài. Xin hãy trả
lại sức khỏe cho tạo vật bé bỏng của Ngài.
Blasiô cúi xuống đứa
trẻ hấp hối, cầu nguyện. Trời cao đã nghe Ngài, và người mẹ hân hoan đón nhận lại
đứa con tràn đầy sức sống.
Khi đức Giám mục xuất
hiện, Agricôla đưa nhiều hứa hẹn lẫn lời đe dọa. Nhưng điều này đã luống công.
Thánh nhân nói: - Tôi không sợ các cực hình Ngài đe dọa vì thân xác tôi nằm
trong tay Ngài, nhưng linh hồn tôi thì không.
Ngài đã bị đánh đập
tàn nhẫn và bị tống ngục. Các Kitô hữu tới thăm, Ngài an ủi khích lệ và chữa
lành cho họ. Ngài đã giải cứu cho một đứa trẻ gần ngộp thở vì mắc xương cá. Vì
kỷ niệm này và cũng vì lời cầu nguyện sau cùng khi đưa cổ cho lý hình, thánh
Blasiô được kêu cầu cách đặc biệt để xin Ngài chữa lành các bệnh nhân đau cổ họng.
Những tường thuật về
các phép lạ đi kèm với cái chết của Ngài thành gia sản truyền tụng rất được các
giáo phụ ưa thích. Sau mỗi cuộc tra xét với một cực hình mới lại có một phép lạ
đánh dấu cuộc trở lại ngay trong phòng giam của Ngài. Phép lạ lừng danh nhất là
phép lạ về ngẫu tượng. Các Kitô hữu đến săn sóc những vết thương cho Ngài, đã
ném xuống hồ các thần tượng của nhà cầm quyền. Họ bị tố giác và chịu tử dạo.
Blasiô cũng bị kết án dìm vào hồ này, nhưng Ngài làm dấu thánh giá và đi trên mặt
nước, rồi Ngài mời các quan tòa đi theo để minh chứng uy quyền các thần linh họ
thờ. Những người nhận lời bị chết chìm ngay.
Vị tử đạo vừa mới cho
thấy vinh quang Thiên Chúa, liền được một thiên thần mời trở lại bờ hồ để chịu
cực hình, Ngài vâng lời ngay. Agricôla bối rối liền truyền chém đầu Ngài.
Blasiô trước khi chết, đã nài xin Chúa tỏ lòng nhân từ với những ai nhờ lời
Ngài bầu cử mà xin cứu giúp.
(daminhvn.net)
03 Tháng Hai
Ngôn Ngữ Của Tình Yêu
Có lẽ cái tên của
Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không
còn xa lạ với chúng ta nữa. Vừa được 19 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái
bất hạnh này trở thành mù lòa và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã
khép hẳn cánh cửa lại với cô.
Làm thế nào để truyền
thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù lòa? Cha mẹ của cô bé dường
như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc.
Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là còn có thể truyền thông và liên lạc với
cô gái mù lòa và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có thể
tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, nhưng Helen Keller đã có thể học xong Ðại Học,
tốt nghiệp Tiến sĩ và trở thành văn sĩ.
Cho người mù lòa và
câm điếc chạm vào một sự vật và viết lên tên gọi của sự vật ấy: đó là phương
pháp của cô giáo Anna Sullivan. Dạy về những sự vật cụ thể như cái bàn, cuốn
sách, cành cây, con chó xem ra không hẳn là điều khó. Nhưng làm thế nào để diễn
tả cho Helen hiểu được những ý niệm trừu tượng như tình yêu chẳng hạn?
Ngày kia, cô giáo
Anna Sullivan đã viết lên tay của Helen Keller hai chữ "Tình Yêu" rồi
ôm trầm lấy cô bé hôn lấy hôn để với tất cả sự thành thật và nhiệt tình của cô.
Lần đầu tiên trong đời, cô gái câm điếc mù lòa bỗng cảm thấy tim mình đập mạnh
và cô hiểu được thế nào là Yêu Thương.
Ngôn ngữ của Tình Yêu
là những hành động cụ thể.
Ánh mắt trìu mến, những
âu yếm vuốt ve của người mẹ đối với đứa con mới lọt lòng có giá trị hơn bất cứ một
quyển sách biên khảo nào về tình yêu. Nhưng mồ hôi và nước mắt, những hy sinh hằng
ngày của người cha giúp con cái hiểu được thế nào là Yêu thương hơn bất cứ lời
dẫn giải nào về Tình Yêu. Và có lẽ cũng thừa thãi để bảo rằng khi hai người yêu
nhau thì sự thinh lặng và những cử chỉ âu yếm có sức mạnh hùng hồn hơn những lời
nói hoa mỹ, những trống rỗng.
Thiên Chúa là Tình
Yêu. Ngài tỏ tình, Ngài bộc lộ tình yêu với con người không chỉ bằng những lời
nói suông, mà bằng cả lịch sử của những can thiệp, những thể hiện cụ thể.
Một tình yêu không được
chứng tỏ bằng những hành động cụ thể là một tình yêu giả dối, lừa bịp.
Ðạo Kitô của chúng ta
là Ðạo của Tình Yêu. Một người kitô không sống Tình Yêu, không viết lên hai chữ
Tình Yêu bằng những hành động cụ thể đối với tha nhân, người đó chỉ là một người
Kitô giả hiệu, một Ðức Tin không việc làm là một Ðức Tin chết. Một lòng Mến
không được thể hiện bằng hoa trái của lòng Mến chỉ là lòng Mến giả tạo.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét