Tháng mười một: Chúa Giê-su dạy chúng ta biết đếm tháng ngày
mình sống
Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan (Tv 90/89, 12)
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan (Tv 90/89, 12)
Linh mục Giu-se Nguyễn
công Đoan, S.J.
Trào lưu “Khôn Ngoan” trong Cựu Ước cho chúng ta nhiều suy
tư về ý nghĩa cuộc sống, khởi đi từ cái vắn vỏi phù du của cuộc đời. Sách Giảng
Viên (Cô-he-lét) mở đầu thế này:
2Ông Cô-he-lét nói : “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân,
quả là phù vân đ. Tất cả chỉ là phù vân e. 3Lợi lộc gì đâu khi
con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả g dưới ánh nắng mặt trời h ? 4Thế
hệ này đi, thế hệ kia đến, nhưng trái đất mãi mãi trường tồn. 5Mặt trời mọc
rồi lặn ; mặt trời vội vã ngả xuống nơi nó đã mọc lên. 6Gió thổi xuống
phía nam, rồi xoay về phía bắc : gió xoay lui xoay tới rồi gió đi ; gió trở qua
trở lại lòng vòng. 7Mọi khúc sông đều xuôi ra biển, nhưng biển cũng chẳng
đầy. Sông chảy tới đâu thì từ đó sông lại tiếp tục i. 8Chuyện gì cũng
nhàm chán, chẳng thể nói gì hơn. Mắt có nhìn bao nhiêu cũng chẳng thấy gì lạ,
tai có nghe đến mấy cũng chẳng thấy gì mới k.
Thánh vịnh 90/89 cũng khởi đi từ một suy nghĩ
tương tự:
Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi a,
Ngài phán bảo : “Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi !”
4Ngàn năm Chúa kể là gì b,
tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,
khác nào một trống canh thôi !
5Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,
như cỏ đồng trổi mọc ban mai,
6nở hoa vươn mạnh sớm ngày,
chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.
…
10Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục,
mạnh giỏi chăng là được tám mươi,
mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,
cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.
Rồi dạy chúng ta cầu xin:
12Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan c.
Sự khôn ngoan này ở trong TÂM chứ không phải
ở trí. Trí thông minh thừa biết rằng cuộc sống con người trên trần
gian này có giới hạn, dù Tần Thủy Hoàng có sai người đi khắp nơi tìm mọi phù
phép cho ông trường thọ, ông cũng đã ngủm mấy ngàn năm nay, để lại trong lịch sử
mỗi cái tên và cái tiếng là tàn ác thôi.
Ba cách nhìn quen thuộc về ý nghĩa cuộc sống và cái chết
trong văn hóa Việt Nam:
Tôi không có tham vọng nghiên cứu về toàn bộ khía cạnh này
trong văn hóa của dân ta, chỉ xin đưa ra ba cách nhìn mà tôi đã biết từ khi còn
đi học, dựa trên cách diễn tả của vài nhân vật tiêu biểu
- Nhà
thơ Cao bá Quát trong bài thơ mà người ta cho cái tên là “chán đời”,
đã viết:
“Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũ nực
cười… “
Rồi ông trích một câu của một nhà thơ Tàu: “Quân bất kiến
Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi” (bạn
không biết rằng nước sông Hoàng Hà từ trên trời xuống, chảy xuôi ra biển chẳng
quay lại).
Đó là cái trí của ông nhận ra. Ở điểm này
ông cũng gần với các tác giả thuộc trào lưu khôn ngoan trong Sách Thánh.
Ông kết luận: “Làm chi cho mệt một đời !” Đó là
cái tâm của ông.
Ông đã chán chường với cuộc sống, vì phải sống trong một triều
đình mà vua chẳng ra vua, quan chẳng ra quan. Vua, thì trước nguy cơ mất nước
vào tay ngoại xâm phương tây lại chỉ biết đi săn và ngâm thơ với một « thi
xã » mà Cao bá Quát phê : « Câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ
An » (Thời đó Nghệ An chuyên sản xuất nước mắm, con thuyền Nghệ An là
thuyền chở nước mắm !). Quan, thì Cao bá Quát có dịp ví như bầy chó khi
vua hỏi ông về hai ông quan cãi nhau tới mức đánh nhau : « Bất tri
ý hà, lưỡng tương đấu khẩu, dĩ chí đấu ẩu, thần kiến thế nguy thần tẩu »
(không biết vì lý do gì, hai người cãi nhau, đi tới chỗ đánh nhau, tôi thấy
nguy tôi bỏ chạy) ; cái hóm hỉnh là ông dùng nhiều lần âm « ẩu »,
đọc lên ta như nghe tả hai con « cẩu » cắn nhau !
Ông có tài mà bị vùi dập, chẳng đóng góp được gì cho dân cho
nước, nên thất chí. Cái thất chí đã đẩy ông vào con đường bạo loạn, khiến ông bị
tru di tam tộc. Ông từ giã cuộc đời bằng một một câu đối:
« Ba hồi trống giục, mồ cha kiếp – Một nhát gươm
đưa, đ… mẹ đời »
- Nhà
thơ Nguyễn công Trứ, người đồng thời với Cao bá Quát
Ông đã có dịp đóng góp cho đất nước với công cuộc khai
hoang, lập nên vùng đất phì nhiêu là huyện Tiền Hải, thuộc tỉnh Thái bình hiện
nay, thì khi về hưu lại thanh thản hưởng nhàn theo Lão Tử. Nếu
tôi không nhớ lầm thì ông có một câu thơ thế này :
« Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy – Nếu không
chơi thiệt đấy ai bù » (hành lạc trong văn chương thời Nguyễn công Trứ
không có cái nghĩa quen thuộc của ngày nay, mà chỉ nói đến « hưởng
nhàn »).
Sau khi đã tích cực đóng góp cho đời (xuất) thì « kẻ
sĩ » có quyền lui về ở ẩn (sử) để hưởng « thú điền viên »,
niềm vui được sống thanh thản trên mặt đất, dưới ánh mặt trời, để ngao du
sơn thủy, chiêm ngắm và hưởng cái êm đềm của thiên nhiên trước khi nhắm mắt lìa
đời.
Trong cách nhìn này thì xem ra phần thưởng của đời người ở
ngay trên mặt đất này.
- Cách
nhìn bình dân quen thuộc.
Khi còn bé, tôi đã biết rằng một người sống tới 60 tuổi thì
mừng thọ, được 100 tuổi thì mừng « đại đại thọ » và được Vua ban sắc
khen cùng với món quà là một tấm vải quý, để con cháu may áo mặc cho cụ khi tẩm
liệm. Món quà con cháu trong gia đình khá giả sắm mừng thọ cha mẹ (60 tuổi) ở
vùng Đồng Bằng Sông Hồng là một chiếc áo quan bằng gỗ quý để trong nhà, hoặc
trong phòng dành cho ông, bà… Sống thì dùng làm cái hòm theo nghĩa miền Bắc, để
đựng đồ riêng của các cụ. Chết thì thành cái hòm theo nghĩa của miền Nam, để liệm
xác đem chôn.
Đó là một cách nhìn thanh thản trong truyền thống dân tộc về
cuộc sống và cái chết. Cuộc sống là ơn trời lộc nước, cái chết là kết thúc tất
yếu, chung cho mọi người, chẳng có chi để sợ hãi âu lo.
Cách nhìn của Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô
Các sách Tin Mừng cho chúng ta thấy vào thời Chúa Giê-su,
trong Do Thái giáo đã có hai xu hướng, người Pha-ri-sêu tin có sự sống lại và sự
sống đời sau ; người Xa-đu-xêu thì không tin như thế, mà chỉ trông đợi
phần thưởng ngay trên trần gian, « bây giờ, tại đây ».
Phe này chế diễu niềm tin vào sự phục sinh khi đưa vấn đề cho Chúa Giê-su
trả lời. (x. Mt 22, 23-33 ; Mc 12,
18-27 ; Lc 20, 27-40). Họ bịa ra một câu chuyện dựa trên
luật kế tự trong Cựu Ước : « Nếu ai chết mà không có con, thì anh
hay em của người ấy phải cưới lấy người vợ góa để sinh con nối dòng cho anh hay
em mình. »
Người Xa-đu-xêu bịa ra câu chuyện bảy anh em trai, lần lượt
cưới người vợ góa của anh cả không có con nối dòng (anh hai, theo tiếng miền
Nam). Nhưng số sát chồng của cô này vô địch, khiến cả bảy anh em trai nhà kia
chết mà không có con nối dòng. Vậy nếu có sự sống lại thì quả là rắc rối :
cô ấy đã lần lượt làm vợ cả bảy anh em mà chẳng người nào có con nối dòng thì
cô phải bơ vơ giữa chợ : làm vợ ai bây giờ !
Chúa Giê-su mỉm cười với tài bịa chuyện ấy và phê cho họ hai
chữ « ngu » : ngu vì không biết Sách
Thánh và ngu vì không biết quyền năng của Thiên Chúa. Rồi Chúa
giải thích : « Trong ngày sống lại người ta sẽ chẳng lấy vợ lấy chồng,
nhưng sẽ nên như các thiên thần trên trời ». Sống lại là đi vào cuộc sống
mới, cuộc sống vô cùng vô tận, tham dự sự sống của Thiên Chúa hằng sống, chứ
không phải là trở về cuộc sống dương gian này. Thế là đám Xa-đu-xêu đã hùng hổ
tấn công, bây giờ tiu nghỉu rút lui ; trong khi « dân chúng kinh
ngạc khi nghe lời Người dạy ».
Tin mừng này do Chúa Giê-su loan báo và Chúa Giê-su thực hiện,
bằng chính cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chúa Giê-su đã đem ý nghĩa mới
cho cái chết và cho cuộc sống của chúng ta : cái chết không còn đơn thuần
là sự kết thúc cuộc sống trần gian, nhưng là cửa ngõ đi vào cuộc sống vĩnh cửu,
chung phần hạnh phúc của chính Thiên Chúa hằng sống. Như vậy thì cuộc sống hiện
nay trên trần gian là đường đi tới cửa thiên đàng, chờ ngày được nghe tiếng
Chúa dịu dàng : « Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng
Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thưở tạo thiên lập địa » (Mt 25,
34). Ý nghĩa cái chết đem ý nghĩa cho cuộc sống và mọi sự trên trần gian này.
Đó là điều cuối cùng chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính. Nếu không có niềm
hy vọng này thì mọi lời tuyên xưng trước đề chẳng ích gì cho chúng ta, và
chúng ta sẽ là những kẻ bất hạnh nhất, như thánh Phao-lô nói.
Tin Mừng theo thánh Lu-ca, 12, 13-48
Có người trong đám đông nói với Đức Giê-su rằng : “Thưa
Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi s.” 14Người đáp
: “Này anh t, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho
các anh u ?” 15Và Người nói với họ : “Anh em phải coi chừng, phải
giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được
bảo đảm nhờ của cải đâu v.”
16Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này x : “Có một
nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, 17mới nghĩ bụng rằng y :
‘Mình phải làm gì đây ? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu !’ 18Rồi ông ta
tự bảo : ‘Mình sẽ làm thế này : phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn
hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. 19Lúc ấy ta sẽ
nhủ lòng a : hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm.
Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã !’ 20Nhưng Thiên Chúa bảo
ông ta : ‘Đồ ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại bmạng ngươi, thì những
gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?’ 21c Ấy kẻ nào thu tích của cải
cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa d, thì số phận cũng
như thế đó đ.
Chúa Giê-su đang rao giảng Nước Thiên Chúa thì người này lại
nhờ Chúa can thiệp vào chuyện chia gia tài. Chúa thẳng thắn nói cho anh ta biết
rằng đó không phải là việc của Chúa. Nhưng Chúa dùng ngay dịp này để thi hành sứ
mạng rao giảng của Ngài.
Chúa phơi bày ngay cái gốc rễ của vấn đề là lòng tham và
tính cách “không thể chuộc” của cuộc sống con người trên trần gian: “Không
phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”. Rồi
Chúa kể dụ ngôn người phú hộ tài giỏi mà Thiên Chúa gọi là “đồ ngốc”.
Anh ta ngốc vì anh ta hành động như thể mạng sống cũng là tài sản anh ta sắm được.
Chúa nhắc cho anh ta nhớ rằng mạng sống là của Thiên Chúa cho anh ta mượn, và
Thiên Chúa có thể đòi lại ngay đêm nay, lúc ấy mọi sự anh ta có sẽ về tay ai?
Anh ta là kẻ ngu si mà thánh vịnh 14/13,1 và 53/52,1 nói tới: “Kẻ ngu si tự
nhủ: làm chi có Chúa Trời!”
Chúa kết luận: “Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình mà
không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì số phận cũng như thế đó.”
Câu kết luận khiến ta thắc mắc: “làm giàu trước mặt Thiên
Chúa” nghĩa là gì và “số phận cũng sẽ như thế” nghĩa là như thế nào?
Chúa không trả lời ngay thắc mắc ấy mà giải thích cho chúng
ta rằng Cha chúng ta ở trên trời là Đấng ban cho chúng ta mạng sống, cũng là Đấng
cung cấp của ăn, áo mặc cho chúng ta, vì chúng ta quý giá hơn chim trời và hoa
cỏ đồng nội nhiều. Cha ban cho chúng ta mặt đất này và cũng cho chúng ta đôi
tay để làm làm lụng đất đai, tham dự vào quyền năng tạo dựng của Cha. Cha biết
chúng ta cần gì. Chúa kết luận: “Vậy anh em đừng bận tâm… Hãy lo tìm
Nước của Người, còn các thư kia, Người sẽ thêm cho.” Thánh Tê-re-sa A-vi-la
sẽ nói: “Ai có Thiên Chúa thì không thiếu gì.(Quien a Dios tiene, nada
le falta). « Một mình Thiên Chúa là đủ » (Solo Dios basta).
Vậy thì làm giàu trước mặt Thiên Chúa là tìm kiếm một mình
Thiên Chúa. Đó lả người khôn mà hai thánh vịnh kể trên đưa
ra đối lập với kẻ ngu si : « Từ trời cao Thiên Chúa nhìn xuống con
cái loài người, xem có kẻ nào khôn, biết kiếm tìm Thiên Chúa. » (Tv
14/13, 2).
Chúa kết luận : 32“Hỡi đoàn chiên nhỏ
bé k, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh
em l.
33“Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí m. Hãy sắm
lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời,
nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. 34Vì kho tàng của anh
em ở đâu, thì lòng anh em ở đó.
Chúa bảo hãy tìm cái gì chắc chắn cha đã ban rồi, đó là Nước
của Cha, còn các thứ kia thì Cha vẫn dành quyền ban phát theo ý Cha, và Cha nhận
trách nhiệm về mạng sống mà cha cho mượn, vì nó vẫn là của Cha, vẫn ở trong tay
Cha.
Ý nghĩa cuộc sống là để đi tìm Thiên Chúa, cùng đích của đời
người.
Tìm Thiên Chúa bằng cách nào và sẽ được gì ?
35“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn o. 36Hãy
làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về p, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa,
là mở ngay. 37Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật
là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em : Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và
đến bên từng người mà phục vụ. 38Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về,
mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ. 39Anh em hãy biết
điều này : Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét
vách q nhà mình đâu. 40Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính
giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.”
Đi tìm Thiên Chúa không cần phải lên trời hay xuống biển, lội
suối trèo non. Thiên Chúa đã tự ban chính mình cho chúng ta, chính Người đến với
chúng ta. Chỉ cần để lòng chúng ta hướng về Người là kho tàng của chúng
ta : « Kho tàng ngươi ở đâu thì lòng ngươi ở đó ». Hướng
lòng chúng ta về Thiên Chúa nghĩa là tỉnh thức đợi chờ Người, như người tôi tớ
giữ cổng trong đêm « đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về tới
và gõ cửa là mở ngay ».
Để hiểu hình ảnh này, nên biết rằng ở vùng đất Thánh Địa đầy
mặt trời này, đám cưới và tiệc cưới thường cử hành trong đêm hè, hưởng cái mát
mẻ của ban đêm. Tiệc cưới thì có thể trễ vì chàng rể tới chậm (x. Mt 25,
5), và cũng không có ai lắc chuông kết thúc : khách cứ việc ăn, uống, ca
hát, nhảy múa tới khi nào « đã » thì ra về.
Người tôi tớ tỉnh thức thâu đêm đợi chủ về, thì ông chủ cũng
chẳng phải biết ơn, chẳng phải thưởng công. Chúa Giê-su lại đưa ra một chi tiết
hoàn toàn vượt khỏi thế giới loài người : « Thầy bảo thật anh em :
Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ ». Ở
đời này, chủ đi ăn cưới, uống thả cửa rồi, biết đường về tới cổng nhà mình đã
là khá lắm rồi. Tôi tớ cứ việc chong đèn, chống con mắt lên chờ. Cổng nhà giàu
ngày xưa ở Thánh Địa cũng giống ở Việt Nam, bên trong cài ngang bằng một cây gỗ
nặng, nên phải nai nịt gọn gàng mới mở được. Mở cửa, rước chủ vào rồi, còn phải
cầm đèn đưa chủ về phòng, có khi phải dìu hoặc khiêng chủ lên giường nữa… Điều
Chúa nói đây thì chỉ có Chúa mới làm thôi, như sách Khải Huyền sẽ
kể : « 20Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa,
thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa t với người ấy, và người ấy sẽ
dùng bữa với Ta. » (Kh 3, 20).
Nhưng Chúa có đòi một điều kiện nhỏ thôi, qua dụ ngôn
« kẻ trộm » mà Chúa kể chen vào dụ ngôn tôi tớ chong đèn đợi
chủ đi ăn cưới về. Đang nói về tôi tớ thì Chúa lại chêm vào chủ nhà và kẻ trộm :
« Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách q nhà
mình đâu. 40Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không
ngờ, thì Con Người sẽ đến ». Đào ngạch khoét vách là thủ thuật của
kẻ trộm xưa, ở quê hương của Chúa cũng giống ở quê hương Việt Nam chúng ta. Chủ
nhà đâu có biết liệu kẻ trộm có đến hay không, lại càng không biết giờ nào.
Nhưng chủ nhà cũng không thể đêm nào cũng chong đèn canh kẻ trộm, không để nó
khoét vách nhà mình.
Chúng ta vừa là tôi tớ chong đèn chờ chủ về, vừa là chủ nhà
canh chừng kẻ trộm. Một công đôi việc ! Mỗi người chúng ta là một ngôi nhà
của Thiên Chúa : « Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là
phần thân thể của Đức Ki-tô sao ?… Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác
anh em là Đền Thờ của Thánh Thần hay sao ? » (1Cr 5,
16.19).
Chính tôi, chính mỗi người chúng ta là ngôi nhà của Thiên
Chúa, mở cửa cho Thiên Chúa vào nhà của Ngài chính là trao nộp hoàn toàn chính
mình cho Thiên Chúa ngự, như Chúa Giê-su trên thập giá : « Lạy
Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở »
(Lc 23, 46). Nhưng để giữ ngôi nhà nguyên vẹn không bị kẻ trộm
khoét vách thì ta lại phải canh chừng như thánh Phê-rô căn dặn :
« 6Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền
của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định. 7Mọi
âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em m. 8Anh em hãy
sống tiết độ và tỉnh thức n, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm
thét o, rảo quanh tìm mồi cắn xé. 9Anh em hãy đứng vững trong đức tin
mà chống cự p, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua
cùng một loại thống khổ như thế. 10Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng, cũng
là Đấng đã kêu gọi anh em q vào vinh quang đời đời của Người trong Đức
Ki-tô. Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ
cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường r.
Một đàng phải tỉnh thức, đàng khác lại phải tín thác, cậy
trông vào Thiên Chúa, Người là Đấng kêu gọi chúng ta và « chính Người sẽ
cho chúng ta nên hoàn thiện vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường. » Thánh
vịnh 127/126, câu 1, đã cảnh báo chúng ta :
Ví như CHÚA chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng
là uổng công.
Thành kia mà CHÚA không phòng giữ, uổng công
người trấn thủ canh đêm.
Thánh Phao-lô cầu xin cho chúng ta :23Nguyện chính
Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để
thần trí, tâm hồn và thân xác anh em u, được gìn giữ vẹn toàn, không
gì đáng trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang
lâm v (1Tx 5, 23).
Vậy thì ta cứ an tâm « ký thác đường đời cho Chúa,
tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay » (Tv37/36, 4).
Cái tính cách vừa chắc chắn vừa bất ngờ làm cho cuộc sống trở
nên khẩn trương. Ngày nào cũng có thể là ngày sau hết, giờ nào cũng có thể là
giờ sau hết ; hơi thở nào cũng có thể là hơi thở cuối cùng. Những năm đầu
sống dưới quyền cai trị của Đảng Cộng Sản, tôi có dịp chứng kiến cảnh chia ly
khi có những người được bảo lãnh đi định cư ở nước ngoài. Thời ấy ra đi là
« không hẹn ngày về », không hy vọng có ngày gặp lại nhau, nên
coi như là « bây giờ chỉ còn giây phút cuối bên nhau »
(lời một bài hát mà khi ở trong nhà tù tôi hay nghe các bạn trẻ nghêu ngao),
người ta ân cần bày tỏ lòng thương mến nhau thế nào. Tôi hay mơ ước, phải chi
người ta cứ sống với nhau mỗi ngày như đó là ngày sau hết được ở bên nhau, thì
cuộc sống sẽ êm đềm tốt đẹp biết bao ! Không còn giận hờn gắt gỏng, không còn lớn
tiếng dằn vặt nhau, sẵn sàng nhường nhịn, tha thứ cho nhau… Sẽ là thiên
đàng dưới thế !
Điều tôi mơ ước đó không phải là mung lung hão huyền, nhưng
là điều Chúa muốn tôi sống thật sự, vì Chúa có thể đến ngay đêm nay. Ngày đã
qua thì đã qua, tôi không thể níu lại ; ngày mai thì ở ngoài tầm tay tôi.
Chúa đã bảo tôi rằng « đừng lo lắng về ngày mai, hãy để
ngày mai lo cho ngày mai, ngày nào có sự khốn khó của ngày ấy » (Mt 6,
34). Người miền Bắc có câu nói rất thực tế : « Biết có sống đến
mai mà để dành củ khoai đến tối ». Thánh Phao-lô khuyên cách thiết
thực : « Chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn ! »
(Ep 4, 26). Biết có sống được tới ngày mai để làm hòa với nhau
không ?
Mến Chúa và yêu người, đó là điều duy nhất tồn tại và là điều
duy nhất Thiên Chúa chờ đợi : « Lòng mến không bao giờ mất được »
(1Cr 13, 8). « Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều
tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến » (1Cr 13, 13).
Marana tha ! Lạy Chúa xin hãy đến !
Thế ra đi tìm Thiên Chúa lại đơn giản như vậy đó ! Chỉ
cần tỉnh thức đợi chờ. Và ai tỉnh thức đợi chờ thì sẽ được vào dư tiệc cưới của
Con Chiên Thiên Chúa, như lời sách Khải Huyền công bố :
« Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự Tiệc Cưới của Con Chiên »
(Kh 19, 9). Tạ ơn Chúa vì Chúa chẳng đòi điều kiện nào khó khăn, chẳng
bắt con phải lên trời xuống biển, lội suối trèo non để tìm, hay đem vàng bạc
châu báu mà mua. Chúa thật là « Tình cho không biếu không, chớ nên mua
bán Tình Yêu » (x. Dc 8, 6-7).
Nhưng tôi lại không thể quên nỗi băn khoăn khắc khoải của
Chúa Giê-su. Khi dạy về sự kiên trì trong cầu nguyện, Chúa Giê-su cam kết : « Chẳng
lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng
kêu cứu với Người sao ? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi ? Thầy nói
cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. » Nhưng Chúa nói
thêm : « Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên
mặt đất nữa không ? » (Lc 18, 7-8).
Liệu mỗi người chúng ta có thể nói với Chúa : « Lạy
Chúa, nếu Chúa đến hôm nay thì ít là còn con đang đợi, đang chờ, đang tin Chúa
đây ! »
Chúa bảo con tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm con, vì Chúa
yêu con trước. Chúa kéo con ra khỏi hư vô để có thể đến với con, chỉ cần con hướng
lòng đợi Chúa thôi. Chúa dạy con khao khát Chúa, nhưng chính Chúa lại khao khát
con như Chúa xin người phụ nữ Sa-ma-ri : « Xin cho tôi uống »
(Ga4, 7) ; và trước khi hoàn tất sứ mạng trên thập giá để trao sự sống
cho con trên thập giá, Chúa còn kêu lên : « Tôi khát ! ».
Người ta cho Chúa uống giấm, con cho Chúa uống gì đây ? Chúa muốn con dâng
thức uống nào lên cho Chúa ?
Con nhớ ra rồi ! Ngày xưa người ta dâng thịt bò, máu
chiên trên bàn thờ, nhưng Chúa đã phán trong thánh vịnh :
« Thịt bò há là thức Ta ăn, máu chiên há là đồ Ta uống ? »
Rồi Chúa cho biết Chúa thèm cái gì : « Hãy tiến dâng Thiên Chúa lời
tạ ơn làm hy lễ, giữ trọn lời nguyền cùng Đấng Tối Cao » (Tv 50/49,
13-14). Trong sách Tin Mừng Mat-thêu thì hai lần Chúa đuổi người
Pha-ri-sêu về đi học lại : « Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu
này : « Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. » (Hs 6,
6 ; Mt 9, 13 ; 12,7). Vậy là Chúa muốn được ngự
trong trái tim con thôi chứ không muốn gì khác.
Lạy Chúa, con đây, lòng con đã sẵn sàng rồi ! (x.
Tv 108/107, 2)
“Maran atha”, Lạy Chúa, xin hãy đến !
(Kh 22, 20).
Giê-ru-sa-lem, ngày cuối tháng Mân Côi 2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét