03/06/2019
Thứ Hai tuần 7 Phục Sinh
Thánh Carôlô Loan-ga và các bạn, tử đạo.
Lễ nhớ
* Cùng với hai mươi hai vị tử
đạo U-găng-đa này, trang sử về các Chứng Nhân Tử Đạo những thế kỷ đầu lại tái
diễn.
Rất nhiều vị trong số đó chỉ
mới là Kitô hữu được ít lâu. Bốn vị trong số đó được cha Carôlô Loan-ga thanh tẩy
ngay trước lúc hành hình. Phần lớn các vị bị thiêu sống ở Nu-mun-gun-gô (1886)
thuộc lớp tuổi từ mười sáu đến hai mươi bốn. Vị trẻ nhất tên là Ki-di-tô mới có
mười ba tuổi.
BÀI ĐỌC I: Cv 19, 1-8
“Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần
chưa?”
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Xảy ra là khi Apollô ở Côrintô,
thì Phaolô đi miền thượng du, rồi đến Êphêxô gặp một số môn đồ, và ngài hỏi họ:
“Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần chưa?” Họ trả lời: “Nguyên việc có Thánh Thần
hay không, chúng tôi cũng chưa nghe nói”. Ngài lại hỏi: “Vậy các ngươi đã chịu
phép rửa của ai?” Họ thưa: “Phép rửa của Gioan”. Phaolô liền bảo: “Gioan thanh
tẩy dân chúng bằng phép rửa sám hối mà rằng: Hãy tin vào Đấng sẽ đến sau ông, tức
là Đức Giêsu”. Nghe vậy, họ đã chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Và khi Phaolô
đặt tay trên họ, thì Thánh Thần đến ngự xuống trên họ, họ liền nói được nhiều
thứ tiếng và nói tiên tri. Tất cả đàn ông chừng mười hai người.
Ngài vào hội đường, và trong suốt
ba tháng, Ngài mạnh dạn rao giảng, tranh luận và thuyết phục về nước Thiên
Chúa. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 67, 2-3. 4-5ac. 6-7ab
Đáp: Chư quốc trần ai, hãy ca
khen Thiên Chúa (c. 33a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Thiên Chúa đứng lên, quân thù
của Người tan rã, và những kẻ ghét Người chạy trốn khỏi long nhan. Như làn khói
toả, chúng rã tan, như mẩu sáp ong gần lửa chảy ra, những đứa ác nhân tiêu vong
trước nhan Thiên Chúa. – Đáp.
2) Những người hiền đức mừng rỡ
hỉ hoan, trước nhan Thiên Chúa họ mừng vui sung sướng. Hãy hát mừng Thiên Chúa,
hãy đàn ca danh Người, danh hiệu Người là Chúa, hãy mừng rỡ hân hoan trước nhan
Người. – Đáp.
3) Là Cha kẻ mồ côi, là Đấng
bênh vực người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong thánh điện của Người. Thiên Chúa tạo
nhà cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa những người tù tội ra nơi thịnh đạt.
– Đáp
ALLELUIA: Mt 28, 19 và 20
Alleluia, alleluia! – Chúa
phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến
tận thế”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 16, 29-33
“Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng
thế gian”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa
Giêsu rằng: “Đúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây
giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó
chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra”. Chúa Giêsu đáp lại các ông: “Bây giờ
các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một
ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với
Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa
thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế
gian”. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Cùng hiệp thông với
Chúa
Chúa Giêsu làm thế nào để thuyết
phục các môn đệ tin Ngài là Con Thiên Chúa? Xin thưa, vì Ngài có thể đọc được
những ý nghĩ thầm kín nhất trong tận đáy lòng của họ như một quyển sách mở rộng
ra trước mắt. Ngài trả lời những câu hỏi của các ông trước khi họ mở miệng thưa
với Ngài, và qua đó mạc khải cho họ thấy sự vinh hiển của Thiên Chúa.
Ðối với người Kitô, tin vào
Thiên Chúa có nghĩa là tin vào Ðấng do Ngài sai đến, đó là Người Con yêu quí của
Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta tin nhận Chúa Giêsu vì chính Ngài là
Thiên Chúa, là Ngôi Lời nhập thể làm người, vì Chúa Giêsu thấy Chúa Cha và Ngài
là Ðấng duy nhất biết và làm chứng về Chúa Cha. Do đó, lòng tin của chúng ta có
một nền tảng vững chắc vì dựa trên lời mạc khải của Thiên Chúa, và đó chính là
sự khởi đầu cho đời sống trường cửu. Chúa Giêsu cũng cảnh giác các môn đệ rằng
lòng tin của họ sẽ gặp những thử thách và các ngài có thể sẽ bị vấp ngã. Ngài
cũng đã báo trước về sự phản bội của một dân tộc cũng như sự chiến thắng vẻ
vang của Ngài trên thập giá. Mặc dù biết trước rằng các môn đệ sẽ bỏ rơi mình
trong giờ phút khổ nạn nhưng Chúa đã đối diện với những cay đắng đó bằng với một
tình yêu cao thượng và một thái độ kính cẩn nơi các môn đệ của mình. Chúa yêu
thương các ông cho đến tận cùng ngay cả khi họ bỏ rơi Ngài chết cô độc trên thập
giá. Vì Ngài biết rằng thập giá sẽ không đem đến sự thất bại nhưng là sự chiến
thắng vẻ vang trên tội lỗi và sự chết.
Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã yêu
thương các môn đệ một cách vô điều kiện thì ngày nay Ngài cũng sẽ nói với chúng
ta rằng Ngài cũng yêu thương tất cả nhân loại một cách vô điều kiện và không bỏ
rơi bất cứ ai. Khi chúng ta không tránh khỏi những đau khổ của cuộc sống trần
thế, thì Chúa Giêsu luôn hiện diện ở giữa chúng ta một cách vô hình và Ngài bảo
đảm với chúng ta rằng Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta vượt qua khỏi những thử thách
cam go của cuộc sống. Ngài cũng kêu gọi chúng ta hãy can đảm và tin tưởng vì
Ngài đã chiến thắng thế gian. Chúa Thánh Linh được sai đến để ban cho chúng ta
nguồn hy vọng và lòng xác tín vào sự chiến thắng của Chúa Phục Sinh. Và không
gì có thể đè bẹp được lòng tin và sự hy vọng này. Chúa Thánh Linh ban cho chúng
ta sức mạnh và lòng can đảm để chúng ta vượt qua các trở ngại để giữ vững đức
tin của mình.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta
thấy các môn đệ rất cần đến sự soi sáng của Chúa Thánh Linh để các ngài hiểu lời
Thầy dạy, vì lời Thầy vượt lên trên sự hiểu biết của họ. Các môn đệ tin rằng đã
hiểu được những điều Chúa nói nhưng thực ra tâm trí các ông vẫn còn hạn hẹp và
lòng tin vẫn còn yếu đuối đến nỗi có thể bỏ rơi Thầy mình sau đó. Chúa cho các
ông hiểu rằng việc Ngài trở về với Chúa Cha phải trải qua sự khổ nạn và sự trở
lại đó mang một mầu nhiệm sâu xa làm biến đổi tính chất nhân bản của chúng ta,
khiến chúng ta thành thụ vật mới dưới tác động của Chúa Thánh Linh, là Ðấng mà
Chúa Giêsu sai đến để soi sáng và ban sức mạnh đức tin cho các môn đệ. Chỉ khi
Chúa Giêsu chiến thắng sự chết, các môn đệ mới thực sự tin vào Ngài. Cũng như
các môn đệ của Chúa ngày xưa, có nhiều lúc chúng ta không hiểu được thánh ý của
Ngài. Do thế, chúng ta cầu xin Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta bằng với hồng
ân của Ngài để chúng ta được trở nên là những thụ vật mới trong Thần Khí của
Ngài, và để chúng ta luôn thực hiện thánh ý của Ngài với một lòng tin sâu xa,
đó là cùng hiệp thông với Chúa trong mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Ngài.
Lạy Chúa, xin giúp cho chúng con
luôn biết tín thác vào quyền năng cứu rỗi của Chúa, nhất là trong giờ phút thử
thách và thất vọng. Xin ban cho chúng con sự bình an và lòng tin mỗi khi lòng
chúng con tràn ngập những nghi ngờ, để chúng con tìm thấy sự hy vọng qua sự chiến
thắng của Ngài trên tội lỗi và sự chết.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin
Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần VII PS
Bài đọc: Acts
19:1-8: Jn 16:29-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ngôn ngữ xử dụng
trong việc rao giảng Tin Mừng.
Người rao giảng phải xử dụng
ngôn ngữ nào để việc rao giảng Tin Mừng có hiệu quả? Trước tiên, xét về phía
người rao giảng, vì họ là người đem lời chân lý của Chúa đến cho con người; nên
lời của họ phải chứa đựng sự thật. Thứ đến, xét về phía người nghe, đại đa số
là thường dân và không có vốn liếng văn chương nhiều để hiểu biết những lời nói
bóng bảy, chải chuốt. Vì thế, ngôn ngữ các nhà giảng thuyết dùng phải làm sao
cho đơn giản, trong sáng, và dễ hiểu. Hơn nữa, mục đích của việc rao giảng Tin
Mừng là đưa khán giả tới niềm tin vào Thiên Chúa và thúc đẩy việc ăn năn xám hối;
chứ không phải là để thưởng thức những áng văn hay phân tích văn chương. Vì thế,
nhà giảng thuyết phải dùng những lời chân tình, do Thánh Thần hướng dẫn, để
đánh động tâm hồn khán giả, giúp họ nhận ra tình thương Thiên Chúa, và nhận ra
những yếu đuối và tội lỗi của họ, sẵn sàng cho sự hoán cải tâm hồn.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta
những ví dụ cụ thể trong việc loan truyền Tin Mừng. Trong Bài Đọc I, khi Phaolô
đến Ephesô và hỏi các tín hữu ở đây họ đã lãnh nhận Thánh Thần chưa, họ trả lời:
“Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói.” Phaolô giải
thích cho họ về sự khác nhau giữa hai Phép Rửa, và khi họ đã hiểu, ông làm Phép
Rửa nhân danh Đức Kitô cho họ, và họ được lãnh nhận Thánh Thần. Trong Phúc Âm,
khi Chúa Giêsu biết Cuộc Thương Khó đã gần kề, Ngài xử dụng ngôn ngữ chân thành
của tình yêu để giúp các Tông-đồ hiểu rõ những gì sắp xảy ra; để các ông biết
cách đối phó khi phải đương đầu với tình thế.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phaolô kiên nhẫn giáo dục các tín hữu tại Ephêsô.
1.1/ Phaolô phân biệt hai Phép Rửa: Trong thời kỳ đầu tiên của Giáo Hội, nhiều tín hữu nghĩ
chỉ có một Phép Rửa duy nhất là Phép Rửa bằng nước của Gioan Tẩy Giả. Họ chưa
bao giờ nghe tới Phép Rửa bằng Thánh Thần nhân danh Đức Kitô, và tại sao phải
chịu Phép Rửa này, như lời các tín hữu tại Ephesô trả lời Phaolô hôm nay: “Ngay
cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói.” Hiểu biết sự thiếu
thốn của dân, Phaolô kiên nhẫn mở trí cho họ:
(1) Phép Rửa bằng nước của Gioan
Tẩy Giả: là Phép Rửa tỏ lòng sám hối. Ông Gioan làm Phép Rửa này để tha thứ và
chuẩn bị tâm hồn cho dân để họ tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giêsu. Phép
Rửa này cần thiết, nhưng không phải là Phép Rửa duy nhất.
(2) Phép Rửa bằng Thánh Thần của
Chúa Giêsu: Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan, nhưng không để được tha tội, vì
Ngài chẳng có tội gì để được tha. Các Giáo Phụ cắt nghĩa, Chúa Giêsu chịu Phép
Rửa bởi Gioan để thánh hiến Nước của sông Jordan và tất cả nước mà Giáo Hội
dùng để rửa tội cho các tín hữu. Nhưng điều khác biệt chính giữa hai Phép Rửa
là sự hiện diện của Thánh Thần đậu xuống trên Ngài.
Khi các tín hữu chịu Phép Rửa, họ
không chỉ được tha tội, nhưng còn được thánh hóa bởi Thánh Thần. Thánh Thần
thánh hóa con người bằng cách làm cho họ hiểu biết Lời Chúa, và ban những ơn
thánh cần thiết để giúp họ sống xứng đáng ơn gọi của những người làm con Chúa.
Chúng ta có thể nhận thấy điều này khi chứng kiến anh chị em tân tòng gia nhập
đạo: họ không chỉ chịu Phép Rửa bằng nước, nhưng còn lãnh nhận Thánh Thần qua
việc xức dầu, và sau cùng được lãnh nhận Bí-tích Thánh Thể trong cùng một nghi
lễ. Đối với các em bé, Giáo Hội chia ra làm ba Bí-tích riêng biệt trong quá
trình thành người trưởng thành của em: Rửa Tội khi ra đời, lãnh nhận Mình Chúa
khi đến tuổi biết phân biệt, và Thêm Sức khi đến tuổi biết làm chứng.
1.2/ Phaolô làm Phép Rửa ban Thánh
Thần cho các tín hữu: “Khi ông Phaolô đặt
tay trên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri.
Cả nhóm có chừng mười hai người.” Nói tiếng lạ không chỉ giới hạn vào việc nói
các ngôn ngữ khác nhau như các Tông-đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần; nhưng trải rộng
trong việc nói ngôn ngữ làm cho người khác hiểu những gì mình nói: ngôn ngữ của
sự thật và của tình yêu. Nói tiên tri cũng không giới hạn vào việc tiên báo những
sự kiện sẽ xảy đến trong tương lai; nhưng là nói thay Chúa, loan truyền những
Tin Mừng cho những người chưa được nghe Thiên Chúa nói trong cuộc đời của họ.
Khi các tín hữu được nói tiếng lạ và nói tiên tri, họ không nói những lời vô
nghĩa và lộn xộn như những người mất trí; nhưng là những lời sự thật và xây dựng
mà các tín hữu khác có thể hiểu. Sau khi làm Phép Rửa, ông Phao-lô vào hội đường,
và trong vòng ba tháng, ông mạnh dạn rao giảng, thảo luận về Nước Thiên Chúa và
cố gắng thuyết phục họ.
2/ Phúc Âm: Chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến.
2.1/ Đức tin và sự thử luyện:
(1) Chúa Giêsu nói từ tâm lòng với
các môn đệ: Như chúng tôi đã đề cập trong những lần chia sẻ trước, trình thuật
hôm nay nằm trong phần giáo dục dành riêng cho các môn đệ của Chúa Giêsu. Khán
giả khác thì ngôn ngữ và lối suy luận dùng cũng phải khác, nhất là Chúa Giêsu
không cón nhiều thời gian để dạy dỗ các ông, nên Ngài dùng ngôn ngữ của trái
tim để chuẩn bị cho các ông những gì sắp xảy đến. Không lạ gì mà các ông hiểu
và thưa Ngài: “Đấy, bây giờ Thầy nói rõ, chứ không còn dùng dụ ngôn nào nữa. Giờ
đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi
Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến.”
(2) Giờ các môn đệ có đức tin là
giờ mà cả Thầy trò phải chịu thử thách. Đức Giêsu đáp: “Bây giờ anh em tin à?
Này đến giờ – và giờ ấy đã đến rồi – anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và
để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy.”
Chúa Giêsu không có ý mỉa mai các môn đệ khi nói những lời này, nhưng Ngài muốn
các ông hiểu hai sự thực quan trọng: Thứ nhất, đức tin cần phải được thử luyện
để biết đâu là đức tin vững chắc. Thứ hai, người nào có đức tin vững chắc không
bao giờ cô độc; người ấy luôn có Thiên Chúa đồng hành và vượt qua mọi thử thách
của cuộc đời.
2.2/ Chúa Giêsu để lại hai nguồn
bình an của Ngài cho các môn đệ.
(1) Các môn đệ được bình an khi
phản bội Thầy: Làm sao chúng ta hiểu câu tuyên bố của Chúa: “Thầy nói với anh
em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an.” Chúa biết các ông sẽ phản
bội Ngài vì sợ hãi và yếu đuối trong Cuộc Thương Khó; nhưng Chúa vẫn yêu thương
và trung thành với các ông. Chúa muốn nói những lời này trước khi sự phản bội xảy
ra, để các ông đừng thất vọng đến chỗ tìm quyên sinh như Judah, nhưng biết tin
vào sự tha thứ của Ngài.
(2) Lời hứa chiến thắng trước
khi đụng trận: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm
lên! Thầy đã thắng thế gian.” Không có gì kích thích lòng nhiệt thành của các
môn đệ hơn là lời hứa sẽ chiến thắng. Một khi đã nắm chắc phần thắng lợi trong
tay, người môn đệ sẽ lao vào chiến trường mà không gian nguy nào có thể làm
chùn chân ông.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta không cần dùng những
lời lẽ văn chương bóng bảy hay chải chuốt trong việc loan báo Tin Mừng; nhưng cần
những lời sự thật, đơn sơ mà mọi người đều có thể hiểu.
– Quan trọng hơn nữa là chúng ta
nên dùng những lời chân tình phát xuất từ trái tim, và được sưởi ấm bởi Thánh
Thần. Khán giả dễ nhận ra và đồng cảm với những người quan tâm đến cuộc sống của
họ, vì Thánh Thần cũng là Người đang hoạt động trong khán giả.
– Chúng ta đừng sợ bất cứ điều
gì trong hành trình rao giảng Tin Mừng, vì chúng ta tin tưởng Ba Ngôi Thiên Chúa
luôn đồng hành để soi sáng, nâng đỡ và bảo vệ chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
03/06/2019 – THỨ HAI TUẦN 7 PS
Th. Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn tử đạo
Ga 16,29-33
THẮNG-THUA THẾ GIAN
“Trong thế gian, anh
em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.” (Ga
16,33b)
Suy niệm: Ngay từ giây phút đầu tiên
của cuộc nhập thể, Chúa Giê-su đã phải chịu biết bao gian lao thử thách. Trong
suốt ba năm rao giảng, Ngài đã phải đương đầu với những người kinh sư và
Pha-ri-sêu, họ luôn rình rập để hoạnh hoẹ, bắt chẹt thầy trò Giê-su và nhất là
để gài bẫy nhằm triệt hạ Ngài. Giờ đây, vào thời khắc Thầy trò chia ly, – chia
ly trong bối cảnh Thầy đang bị muôn vàn nguy hiểm bủa vây, và lòng hận thù của
đối phương lên tới đỉnh điểm, – Chúa lại nói Ngài đã thắng thế gian! Phải chăng
đó là nỗ lực tuyệt vọng của Ngài để lên giây cót cho các môn đệ khi không còn
gì để mất? Quả thật Chúa Giê-su đã thắng thế gian, chiến thắng của tình yêu,
chiến thắng vì chương trình cứu độ của Chúa Cha sắp được hoàn tất, đúng như lời
Kinh Thánh. Chúa cho các tông đồ thấy trước những “gian nan khốn khó” không phải
để các ông thất đảm, mà để họ can đảm tiếp bước theo Ngài, vì Ngài đã thắng thế
gian.
Mời Bạn: Khi gặp thử thách hay những
vấn đề nan giải, chúng ta thường nghĩ đến bạn bè, người thân, các chuyên gia
giúp gỡ rối. Phần bạn, khi gặp khó khăn bạn làm gì? Bạn có đến với Đức Giê-su
chuyên gia gỡ rối chưa? Nếu Ngài đã thắng thế gian thì bạn, bạn đến với Ngài và
tin vào Ngài, chắc chắn bạn cũng sẽ cùng Ngài chiến thắng thế gian.
Sống Lời Chúa: Khi gặp vấn đề nan giải, bạn
đừng cuống lên, nhưng cứ giữ sự bình tâm, hướng về Chúa, nhẩm lại một câu Lời
Chúa, và lắng nghe lời soi sáng của Chúa nói trong tâm hồn bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chỉ
nơi Chúa chúng con được bình an, xin ban cho chúng con lòng can đảm đi theo
Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
Thầy không một mình (3.6.2019 –
Thứ Hai tuần 7 Phục Sinh)
Suy niệm:
Cô đơn
trên đời là điều ai cũng sợ.
Phải
chăng vì người ta không được dựng nên để sống một mình ?
Chẳng
phải chỉ người trẻ mới sợ cô đơn và tìm cách tránh né.
Người
già cũng sợ không kém .
Người
ta sợ đi về thế giới bên kia một mình.
Trong
thân phận làm người, Đức Giêsu cũng phải đối diện với nỗi cô đơn.
Ngài
không lập gia đình, không có một người bạn đời để chia sẻ.
Bù lại,
Ngài có những người thân yêu ở làng Nadarét.
Nhưng
ngay cả cha mẹ Ngài cũng không hiểu hết được Ngài (Lc 2, 50).
Khi đi
rao giảng Tin Mừng, Ngài có những người bạn mới là các môn đệ.
Tiếc
thay, họ không phải là những người luôn luôn hiểu Ngài.
Ngài
muốn chia sẻ cho họ tất cả cái riêng tư giữa Ngài với Cha.
Nhưng
họ chưa đủ sức kham nổi.
Đức
Giêsu không phải là người thích cô đơn, khép kín.
Ngài dễ
đến với dân chúng, với mọi hạng người.
Ngài gặp
gỡ họ, loan Tin Vui, và cho họ được tâm thân an lạc.
Các bệnh
nhân, tội nhân, trẻ em, phụ nữ,
cũng
không ngại đến với Ngài để trò chuyện hay chia sẻ một bữa ăn.
Dù
vậy tìm được một sự đồng cảm trọn vẹn nơi con người
vẫn là
điều khó đối với Đức Giêsu,
bởi lẽ
Ngài còn thuộc về một thế giới khác trên cao.
Ngài
mãi mãi là một màu nhiệm đối với trí khôn hạn hẹp của con người.
Chỉ
khi trở về với nguồn cội đời mình,
Đức
Giêsu mới ra khỏi được nỗi cô đơn trống trải ấy.
“Tôi
không (xét đoán) một mình, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi” (Ga 8, 16).
Chính
vì Đức Giêsu luôn nói và làm mọi sự theo ý Cha,
nên
Ngài chẳng bao giờ cô đơn .
“Đấng
đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi một mình,
vì tôi
luôn làm những điều đẹp ý Người” (Ga 8, 29).
Vào
giây phút chia ly này, khi Đức Giêsu biết điều sắp xảy đến:
“anh
em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả, và để Thầy một mình.
Nhưng
Thầy không một mình đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (c. 32).
Đức
Giêsu không cô đơn trong cuộc sống,
mà
ngay cả khi Ngài kêu lớn tiếng trên thập giá :
“Lạy
Thiên Chúa tôi, tại sao Chúa bỏ tôi?” (Mc 15, 34),
lúc đó
lại là lúc Đức Giêsu gần Cha hơn cả, kết hợp với Cha hơn cả.
Đức
Giêsu thực sự chẳng bao giờ cô đơn tuyệt đối,
vì Cha
thực sự chẳng bao giờ bỏ Ngài,
và
Ngài cũng chẳng bao giờ bỏ Cha.
Chúng
ta xin được ơn dám chịu cô đơn trước thế gian tội lỗi,
để được
một mình với Chúa.
Cầu nguyện:
Giữa
những ồn ào của đám đông,
Giữa
những sôi nổi của thành công
Và
ê chề của thất bại,
Xin
dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa
những đam mê quay cuồng,
Giữa
những khát khao thèm muốn
Và
những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
Xin
giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa
lúc bị cuộc đời từ khước,
Giữa
lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
Chẳng
có ai để cậy dựa,
Xin
trở về với cõi riêng bên Giêsu,
Để
một mình ở đó,
Trầm
lắng và bình an.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3 THÁNG SÁU
Bản Tính Lưỡng Diện Của Chúng
Ta
Người ta thường nhấn mạnh rằng
truyền thống Thánh Kinh nêu bật tính duy nhất của ngã vị con người khi sử dụng
những từ ngữ như “xác phàm” hay “nhục thể” để chỉ con người xét như một toàn thể
(Tv 145,21; Ge 3,1; Is 66,23; Ga 1,14). Cái nhìn ấy thật chính xác. Song điều
đó không phủ nhận rằng trong truyền thống Thánh Kinh, tính lưỡng diện của con
người cũng được trình bày – đôi khi một cách rõ rệt. Truyền thống này được phản
ảnh nơi lời Đức Kitô: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được
linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn và xác trong hỏa
ngục” (Mt 10,28).
– suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope
John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 03/6
Thánh Charles Lwanga và các bạn
tử đạo
Cv 19, 1-8; Ga 16, 29-33.
LỜI SUY NIỆM: “Thầy nói với
anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian anh em
sẽ phải gian nan khốn khổ. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.”
Chúa Giêsu biết mỗi người chúng ta khi sống trong thế gian sẽ gặp phải những
gian nan khốn khó. Và Ngài mời gọi chúng ta: “can dảm lên” và tin vào Ngài: “Thầy
đã thắng thế gian”. Bởi vì: “Can đảm là nhân đức luân lý giúp chúng ta kiên trì
và quyết tâm theo đuổi điều thiện giữa những khó khăn trong đời. Nó củng cố sự
quyết tâm chống lại các cám dỗ và vượt qua các chướng ngại trong đời sống luân
lý. Đức can đam giúp chúng ta có khả năng chiến thắng sự sợ hãi, thậm chí cả sự
chết, đương dầu với sự thử thách và các cuộc bách hại. Nó giúp chúng ta đi đến
chỗ từ bỏ và hy sinh mạng sống mình để bảo vệ lẽ phải.” (GL số 1808)
Lay Chúa Giêsu, Chúa đã cho chúng con biết: “Thầy đã thắng thế gian”. Xin cho
chúng con được ơn can đảm, để chúng con chấp nhận vác thập gía của chúng con
theo Chúa đến cùng.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 03-06: Thánh CAROLÔ
và PHÊRÔ LWANGA
và các bạn tử đạo (1885 –
1887)
Dân da đen sống ở miền Ouganda,
Trung Phi thuở ấy chưa hề nghe đến tên Chúa. Ma quỉ còn thống trị họ với mọi thứ
phù phép. Họ chém giết lẫn nhau và ăn thịt nhau nữa. Trẻ em bị bỏ rơi. Đàn bà bị
coi như thú vật phải làm việc mệt nhọc và bị sát hại theo sở thích của đàn ông.
Ngày kia hai cha thừa sai
Lourdel và Livinhac đến với họ sau một cuộc hành trình đầy cực khổ. Các Ngài đến
gặp nhà vua trong chòi của ông và buổi đầu mọi sự tốt đẹp. Các Ngài tận tụy phục
vụ.
Dân da đen đã không bao giờ tưởng
tượng được điều các vị thừa sai nói cho lại là điều tốt đẹp như vậy: Họ có một
người cha trên trời đã yêu thương họ đến nỗi đã ban con mình là Chúa Giêsu đến
cứu chuộc họ, và Chúa Giêsu lại chết trên thánh giá đã họ được về trời với Người,
như thế họ lại không yêu mến vâng phục Người để được gặp lại Người trong hạnh
phúc bất tận sao ? Để được như vậy, họ quyết yêu thương nhau theo luật Chúa để
nên tốt hơn. Khi đã cố gắng lãnh phép Rửa tội. Chúa Giêsu đổ tràn ơn thánh vào
trong lòng họ và kết hợp với họ trong Bàn tiệc Thánh Thể.
Nhà Vua cũng rất thích điều các
Cha nói. Những điều các Ngài rao giảng làm cho các phù thủy và bọn người Ả rập
buôn người giận dữ. Một thị động bị vu oan và bị thiêu sống. Anh ta xin được rửa
tội và đã can đảm chịu cực hình, các nhà thừa sai cảm thấy cơn bách hại đã đến
nên vội rửa tội cho những người đã được chuẩn bị rồi rút lui với một số trẻ em
các Ngài đã chuộc lại được. Các Ngài rút lui về bờ hồ phía nam, là nơi bệnh đậu
mùa đang giết hại rất nhiều người. Số đông trẻ em sắp chết đều được rửa tội.
Các Ngài nói với một em bé 9 tuổi:
Hãy cầu nguyện xin Chúa Giêsu cứu chữa con. Nhưng em bé trả lời: – Bây giờ được
làm con Thiên Chúa, con không sợ chết nữa.
Được ba năm, nhà vua qua đời,
các vị thừa sai trở lại, dân chúng mừng rỡ. Dân được rửa tội trước đã rửa tội
cho nhiều người khác nữa. Việc tông đồ khởi sắc nhưng một viên chức của Tân
vương đã gieo nghi ngờ đối với các thành quả của các Kitô hữu, nhất là đối với
Giuse Mukasa, thủ lãnh các thị đồng, người đã chống lại sự vô luân của ông. Ông
ta tâu vua rằng: các Kitô hữu mưu chiếm ngôi vua. Các phủ thủy bảo rằng bọn khởi
xướng phải chết. Vua tin họ và Giuse bị thiêu sống. Lý hình muốn trói Ngài lại
nhưng Ngài nói:- Tôi chết vì đạo mà lại tìm cách thoát thân sao ? Một Kitô hữu
không có sợ chết đâu.
Nhà vua nghĩ rằng bản án nầy sẽ
làm cho các Kitô hữu khiếp sợ. Trái lại, ngày càng có nhiều người theo đạo. Khi
đi săn về, ông gọi tiểu đồng Mwafou 14 tuổi lại, và khi biết rằng em đang học đạo
với một thiếu niên tên là Denis, ông truyền dẫn Denis lại, la lớn: – Tên nô lệ
khốn khiếp, ngươi dạy đạo hả ?
Và ông dùng lưỡi dao tẩm thuốc độc
hạ sát Denis.
Giận dữ đi ra, ông gặp Honôrat
và hỏi: – Mày cũng là Kitô hữu hả ?
– Phải.
Và Hônôrat bị tra khảo, bị xẻ thịt.
Bấy giờ vua khám phá ra một tân tòng là Giacôbê và tra gông vào cổ. Về nhà ông
thúc trống tập họp các đao phủ lại. Bọn đao phủ và các phù thủy nhảy múa như được
thoát khỏi ngục. Ngược lại tại các nhà thị đồng quang cảnh như thần tiên.
Carôlô Lwanga, chiến sĩ anh dũng nhất của triều đình đã rửa tội cho em bé
Kizitô và ba trẻ em khác, dọn mình cho các em chịu chết cách thánh thiện.
Ngày 28 tháng 5, nhà vua truyền
thiêu sống các thị đồng dám cầu nguyện. Mwa-Ga là con một đao phủ. Ba em khẩn
khoản xin em trốn đi, nhưng em từ chối. Một chiến sĩ Kitô giáo nói với vua: –
Con lên trời và cầu nguyện cho Đức Vua.
Các phạm nhân mạnh dạn tiến đi
chịu khổ hình, gặp Pontianô tên đao phủ hỏi anh: – Mày biết cầu nguyện không ?
Vừa trả lời “biết” Pontianô bị
chém đầu ngay. Những người khác nói: – Ở trên trời Pontianô sẽ cầu nguyện cho
chúng ta được can đảm chịu chết.
Các vị tử đạo bị kềm cứng trong
gông cùm trong khi người con của đao phủ bị ép đến với cha mẹ. Họ phải đợi sáu
ngày để chuẩn bị giàn thiêu, đã đến ngày xử, Mwaga nhảy xổ đến nhập bọn tại
pháp trường, các vị tử đạo nói với nhau: – Chính tại nơi đây chúng mình được thấy
Thiên Chúa.
Các Ngài bị đặt trên các tấm
phên như những cây đuốc sống. Người ta đốt chân các vị tử đạo để mong các Ngài
thôi cầu nguyện, nhưng các Ngài đã trả lời: – Còn sống, chúng tôi sẽ không ngừng
cầu nguyện.
Một phù thủy nói với các Ngài:
Thiên Chúa sẽ không giải thoát các Ngài đâu. Brunô trả lời: – Ông không đốt
cháy linh hồn chúng tôi được đâu, nhưng nó sẽ bay lên thiên đàng.
Giàn thiêu được đốt lên. Lời
kinh lạy cha của các thánh còn vượt trên những tiếng la hét man rợ và những tiếng
nổ lốp đốp của lò lửa. Người ta biết được là các Ngài đã chết khi hết nghe tiếng
các Ngài cầu nguyện.
Ông vua da đen tự nhiên chắc rằng
sau tội ác này, chẳng còn bóng dáng Kitô hữu nào trong xứ sở của ông nữa. Nhưng
ngày nay, Ouganda có hơn nửa triệu tín hữu.
(daminhvn.net)
03 Tháng Sáu
Chúa Là Nơi Con Nương Tựa
Dạo tháng 6 năm 1985, những
người theo dõi truyền hình bên Tây phương vẫn còn nhớ mãi hình ảnh chiếc máy
bay đang đậu ở phi trường, với viên phi công trong buồng lái ngó ra ngoài nói
chuyện với một số phóng viên, trong khi có một người đứng bên cạnh, cầm súng dí
sát vào đầu viên phi công. Ðó là hình ảnh của viên phi công John Testrake trên
chiếc máy bay của hãng hàm không TA, bị không tặc uy hiếp trên đường bay từ thủ
đô Hên của Hy Lạp về La Mã. Trong suốt 17 ngày, không tặc đã dùng lựu đạn và
súng uy hiếp viên phi công, buộc ông phải bay từ Bút qua Alger rồi bay về Bút cả
thảy bốn lần. Họ cũng đã bắn chết một hành khách, đánh đập một số hành khách
khác. Cuối cùng họ đã để cho 39 con tin trên máy bay được đem đến một căn nhà ở
Bút rồi được chở về Ðoác trước khi được trả tự do. Mặc dù không phải là con tin
trên chiếc máy bay đó, nhiều người cũng thấy căng thẳng hồi hộp chỉ vì theo dõi
tin tức trên truyền hình hay truyền thanh…
Mới đây, viên phi công John
Testrake có thuật lại kinh nghiệm hi hữu của mình. Anh nói như sau: “Lúc đó,
tôi biết chắc chắn là có Chúa ở với tôi, nên tôi không những không sợ hãi mà
còn tràn ngập bình an tin tưởng là khác”. Anh cũng nói thêm rằng anh đã theo đạo
năm lên 25 tuổi, nhưng lúc bấy giờ anh chưa thật sự thức tỉnh, bắt đầu đọc Kinh
Thánh và cầu nguyện một cách đều đặn. Nhờ có Kinh Thánh mang trong mình, cho
nên trong suốt 17 ngày bị uy hiếp, anh vẫn không tỏ ra nao núng vì tin chắc có
Chúa đang phù trợ anh…
Cách đây hai năm, John
Testrake đã xin thôi không làm việc cho háng hàng không TWA để tập trung vào
các công việc từ thiện và để lái máy bay đưa các nhà truyền giáo đến các vùng
xa xôi hẻo lánh. Ði đến đâu, anh cũng thuật lại việc Chúa đã giải cứu anh, nhất
là việc Ngài đã ban cho anh bình an tin tưởng khi phải chạm trán với tử thần.
Ai trong chúng ta có lẽ cũng hơn
một lần chạm trán với tử thần hay kinh qua những giờ phút đen tối trong cuộc sống…
Những người không có niềm tin thường sợ hãi bối rối vì không biết những gì đang
chờ đợi mình bên kia cuộc sống. Những người có niềm tin hẳn không là những con
người không biết sợ hãi, nhưng họ tin rằng bên cạnh họ luôn có Ðấng che chở phù
trợ họ.
Chúng ta có thái độ nào khi đứng
trước những giờ phút nguy ngập, những thử thách trong cuộc sống? Chúng ta có
tin tưởng rằng có Ðấng luôn ở bên cạnh chúng ta, để giữ gìn, phù hô chúng ta
không? Với niềm tin vững vào Tình Yêu của Ðấng luôn có mặt bên cạnh chúng ta,
chắc chắn chúng ta có thái độ lạc quan hơn trước cuộc sống, chúng ta sẽ đối đầu
với những khó khăn và thử thách với bình thản và vui tươi.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét