17/09/2019
Thứ ba tuần 24 thường
niên.
BÀI ĐỌC I: 1 Tm 3, 1-13
“Vị chủ tịch giáo đoàn phải là người
không ai trách cứ được: các vị phụ tá cũng vậy, phải nắm giữ mầu nhiệm đức tin
trong lương tâm trong sạch”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi
Timôthêu.
Đây là lời chân thật: Nếu ai ao ước chức chủ tịch
giáo đoàn, thì đó là ước ao một nhiệm vụ tốt đẹp. Vậy vị chủ tịch giáo đoàn phải
là người không có ai trách cứ được, người chỉ kết hôn một lần, ăn ở tiết độ,
khôn ngoan, thanh lịch, đoan trang, hiếu khách, biết giảng dạy, không mê rượu
chè, không gây gỗ, nhưng hoà nhã: không cạnh tranh, không tham lam, nhưng biết
cai quản gia đình mình, dạy con cái biết vâng phục và tiết hạnh. Nếu ai không
biết cai quản gia đình mình, thì làm sao coi sóc được cộng đoàn Thiên Chúa? Vị
chủ tịch giáo đoàn không phải là tân tòng, kẻo cậy mình kiêu căng mà sa vào án
phạt của ma quỷ. Người phải có tiếng tốt nơi người ngoại, kẻo bị ô danh và sa
lưới ma quỷ.
Cũng thế, những người phụ tá phải đoan trang, không
ăn nói nước đôi, không nghiện rượu, không tìm lợi cách đê tiện, nhưng phải nắm
giữ mầu nhiệm đức tin trong lương tâm thanh sạch. Những kẻ ấy phải được thử
thách trước, rồi nếu không có gì đáng trách, thì mới được phục vụ. Người phụ nữ
cũng vậy, phải đoan trang, không nói hành, phải tiết độ và trung tín trong mọi
sự. Các vị phụ tá phải là người chỉ kết hôn một lần: biết coi sóc con cái và
nhà cửa mình. Vì những phụ tá khi thi hành đứng đắn chức vụ, sẽ được lên bậc
cao trọng và sẽ đầy hiên ngang trong lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 100, 1-2ab. 2cd-3ab. 5. 6
Đáp: Con sẽ sống theo lòng vô tội (c. 2b).
Xướng:
1) Con sẽ ca ngợi tình thương và đức công minh, lạy
Chúa, con sẽ đàn hát mừng Ngài. Con sẽ tiến thân trên đường liêm khiết, khi nào
Chúa sẽ đến viếng thăm con? – Đáp.
2) Con sẽ sống theo lòng vô tội trong nơi cung thất
của con. Con sẽ không để bày ra trước mắt một chút chuyện chi gian trá. – Đáp.
3) Ai bí mật nói xấu người lân cận, con sẽ tiêu diệt
thứ người này. Hạng người mắt nhìn cao và lòng kiêu hãnh, hạng người đó con
cũng không dung. – Đáp.
4) Mắt con theo dõi những người trung thành trong đất
nước, để họ cùng được cư ngụ với con. Ai sinh sống theo đường liêm khiết, con
người đó sẽ được hầu hạ con. – Đáp.
ALLELUIA: Mt 11, 25
Alleluia, alleluia! – Lạy Cha là Chúa trời đất, con
xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn.
– Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 7, 11-17
“Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi
hãy chỗi dậy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các
môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người. Khi Người đến gần cửa thành,
thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia
và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng
thương và bảo bà rằng: “Đừng khóc nữa”. Đoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan
tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: “Hỡi thanh niên, Ta
truyền cho ngươi hãy chỗi dậy”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi
Người trao lại cho mẹ nó.
Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng:
“Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng
dân Người”. Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa
và khắp vùng lân cận. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Ý Nghĩa Của Cuộc Sống
Trong cuộc sống công khai, chắc chắn Chúa Giêsu đã
chứng kiến nhiều cái chết cũng như tham dự nhiều đám tang. Nhưng việc Ngài làm
cho kẻ chết sống lại được Tin Mừng ghi lại không quá ba lần: một em bé gái con
của vị kỳ mục trong dân; Lazarô em trai của Marta và Maria; người thanh niên
con của bà góa thành Naim. Cả ba trường hợp chỉ là hồi sinh, chứ không phải là
phục sinh theo đúng nghĩa, bởi vì cuộc sống của những người này chỉ kéo dài được
thêm một thời gian nữa, để rồi cuối cùng cũng trở về với bụi đất.
Chúa Giêsu đã không đến để làm cho con người được
trường sinh bất tử ở cõi đời này, đúng hơn, Ngài đưa con người vào cuộc sống
vĩnh cửu. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cửu thì điều kiện tiên quyết là con
người phải kinh qua cái chết. Chết vốn là thành phần của cuộc sống và là một
trong những chân lý nền tảng nhất mà Chúa Giêsu đến nhắc nhở cho con người.
Mang lấy thân phận con người là chấp nhận đi vào cái chết. Chính Chúa Giêsu
cũng không thoát khỏi số phận ấy. Thánh Phaolô đã nói về thái độ của Chúa Giêsu
đối với cái chết: "Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập
giá". Ðón nhận cái chết và đi vào cõi chết như thế nào để cuộc sống có ý
nghĩa, đó là điều Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho con người khi đi vào cái chết.
Một trong những cái chết vô nghĩa và do đó cũng chối
bỏ ý nghĩa cuộc sống, đó là tự tước đoạt sự sống của mình. Những cái chết như
thế là lời tự thú rằng cuộc sống không có, cuộc sống không còn ý nghĩa và như vậy
không còn đáng sống. Jean Paul Sartre, người phát ngôn của cả thế hệ không tìm
thấy ý nghĩa của cuộc sống, đã viết trong tác phẩm "Buồn Nôn":
"Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ngồi đây ăn uống là để bảo tồn sự quí giá của
chúng ta, nhưng kỳ thực, không có gì, tuyệt đối không có lý do gì để sống cả".
Chúa Giêsu đã vâng phục cho đến chết. Ðón nhận cái
chết, Ngài đã thể hiện cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống sung mãn,
Ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là một cuộc sống có ý nghĩa và đáng
sống. Ðón nhận cái chết như ngõ đón vào vinh quang phục sinh, Chúa Giêsu cho
chúng ta thấy điểm đến và vinh quang đích thực, đó là sự sống vĩnh cửu. Ngài đã
vâng phục cho đến chết. Vâng phục của Ngài là vâng phục trong tin tưởng, phó
thác, trong khiêm tốn và yêu thương; đó là điều mang lại ý nghĩa cho cuộc sống
và làm cho cuộc sống trở thành đáng sống.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chúng ta niềm
tin, can đảm và vui tươi để biết đón nhận và sống từng giây phút hiện tại một
cách sung mãn, để tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 24 TN1,
Năm lẻ.
Bài đọc: I Tim
3:1-13; Lk 7:11-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành trong ơn gọi và bổn phận của mình.
Cả Thiên Chúa lẫn con người đều đề cao sự trung thành: Thiên Chúa đòi con người
phải trung thành với nhau trong đời sống hôn nhân, khi thịnh vượng cũng như lúc
gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu, để tôn trọng và yêu thương nhau
suốt đời. Chúa Giêsu cũng hứa với các môn đệ: “Ai trung thành đến cùng sẽ được
cứu rỗi.” Khi chọn người lãnh đạo, con người cũng muốn chọn những người khả dĩ
có thể tin cậy được, như trung thành với quốc gia và những gì họ đã hứa khi
tranh cử.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra những trường hợp khác nhau của những người trung
thành. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô liệt kê những điều kiện cần thiết để chọn
Giám-quản và Trợ-tá để điều khiển các giáo-đoàn. Điều kiện quan trọng nhất là
phải trung thành với Thiên Chúa, với những người trong gia đình, và với những
người mà Thiên Chúa đã trao phó cho họ. Trong Phúc Âm, bà góa phụ thành Nain đã
làm Chúa Giêsu thổn thức vì những tiếng khóc ai oán của Bà cho người con trai độc
nhất. Bà nghĩ anh sẽ là người săn sóc và chôn cất Bà trong lúc tuổi già xế
bóng; nhưng nay Bà phải chôn cất con, một điều Bà không ngờ có thể xảy ra. Chúa
Giêsu đã an ủi Bà, và Ngài làm cho cậu con trai của Bà sống lại và trao lại cho
Bà.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I:
Giám quản phải là người không ai chê trách được.
1.1/ Điều kiện để trở thành Giám-quản (episcopoi): Thánh Phaolô liệt kê nhiều đức tính cần thiết phải có để trở
thành Giám-quản, chúng ta có thể sắp xếp theo ba phạm trù sau:
(1) Trung thành với Thiên Chúa: Người Giám-quản không được là tân tòng, kẻo lên
mặt kiêu căng mà bị kết án như ma quỷ. Đây là lời khuyên rất khôn ngoan, vì đức
tin cần phải được thử thách bằng đau khổ và thời gian. Điều thánh Phaolô lo sợ
nhất là sự kiêu căng, tự mãn, vì ma quỉ có thể dùng tính kiêu căng để phá hủy
không chỉ cá nhân Giám quản, mà còn cả gia đình và cộng đoàn.
(2) Trung thành với gia đình: chỉ có một đời vợ, biết điều khiển tốt gia đình
mình, biết dạy con cái phục tùng cách rất nghiêm chỉnh; vì ai không biết điều
khiển gia đình mình, thì làm sao có thể lo cho Hội Thánh của Thiên Chúa được?
(3) Trung thành với tha nhân: không được hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, không
hay gây sự, không ham tiền, phải nhã nhặn, hiếu khách, và có khả năng giảng dạy.
1.2/ Điều kiện để trở thành Trợ-tá (deacon): Vẫn theo 3 phạm trù trên, người Trợ-tá phải:
(1) Trung thành với Thiên Chúa: họ phải bảo toàn mầu nhiệm đức tin trong một
lương tâm trong sạch và được mạnh dạn nhiều nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô.
(2) Trung thành với gia đình: phải là người chỉ có một đời vợ, biết điều khiển
con cái và gia đình cho tốt.
(3) Trung thành với tha nhân: không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn, không bị ai khiếu
nại, không nói xấu, và đáng tin cậy mọi bề.
2/ Phúc Âm:
Chúa động lòng thương và cho con trai duy nhất của Bà mẹ Nain sống lại.
Đứng trước cái chết con người hòan tòan bất lực và hỏang sợ khi phải đương đầu
với cái chết, nhất là những cái chết trẻ, nhiều người, và đột ngột. Như Bà mẹ
Nain hôm nay, Bà đã góa chồng và chỉ có một con duy nhất là niềm hy vọng để
nâng đỡ Bà trong cuộc sống trên dương gian; thế mà anh cũng vĩnh viễn ra đi. Chắc
Bà không bao giờ nghĩ là Bà sẽ phải chôn con.
Người Hy-Lạp, nhất là những người theo chủ thuyết Khắc Kỷ, họ tin có Đấng Tối
Cao; nhưng không tin Ngài có cảm xúc trước những đau khổ của con người. Họ lý
luận: Nếu con người có thể làm cho Ngài vui hay buồn, tức là con người có ảnh
hưởng trên Ngài; khi con người có ảnh hưởng trên Ngài là con người lớn hơn
Ngài; nhưng không ai có thể lớn hơn Đấng Tối cao. Vì vậy, Đấng Tối Cao phải là
Đấng không có cảm xúc. Niềm tin này hòan tòan ngược lại với niềm tin của người
Công Giáo, Thiên Chúa cảm thương với nỗi đau khổ của con người. Thánh Luca tường
thuật Chúa Giêsu chạnh lòng thương Bà mẹ góa chỉ có đứa con côi mà giờ đây cũng
không còn nữa, Ngài an ủi: “Bà đừng khóc nữa!” Trước khi cho Lazarus sống lại,
Gioan tường thuật “Chúa khóc” (Jn 11:35) và “Chúa thổn thức trong lòng” (Jn
11:38).
Thiên Chúa có thể làm cho kẻ chết sống lại. Trong Cựu Ước, chỉ có tiên tri
Elisha làm cho con trai của Bà góa miền Shunem sống lại bằng cách kề miệng ông
trên miệng nó (2 Kgs 4:34-37). Trong Phúc Âm, có ít nhất 3 lần Chúa làm cho kẻ
chết sống lại: Cho con gái của ông trưởng hội đường Giaia sống lại (Mt 9:18-26,
Mc 5:35-43, Lk 8:40-56); Chúa Giêsu làm cho anh thanh niên sống lại và trao anh
lại cho bà mẹ Nain hôm nay (Lk 7:11-17); và Chúa cho Lazarus chết 3 ngày được sống
lại (Jn 11:38-44). Khi chứng kiến quyền năng của Thiên Chúa cho kẻ chết sống lại,
con người kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện
giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta cần phải trung thành với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời:
khi ấm no hạnh phúc cũng như lúc buồn thảm lệ rơi; vì chỉ có ai trung thành mới
được cứu thoát.
– Thiên Chúa là Đấng thương xót những người bất hạnh, những mẹ góa con côi.
Chúng ta hãy chạy đến với Ngài trong những lúc gian lao khốn khó.
– Đức Kitô muốn chúng ta nhận Đức Mẹ như người Mẹ thiêng liêng của chính mình.
Đây là điều lợi ích cho phần linh hồn. Chúng ta hãy đối xử với Đức Mẹ cho hết
tình con thảo.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
17/09/2019 – THỨ BA TUẦN 24 TN
Th. Rô-be-tô Ben-la-mi-nô, giám mục, tiến sĩ HT
Lc 7,11-17
NGƯỜI MẸ GOÁ MẤT CON
Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì kìa người ta khiêng một người
chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá…
Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa.” (Lc 7,12-13)
Suy niệm: Ai mà không xúc động trước cảnh tượng thương tâm:
người mẹ goá mất đi đứa con một. Chúa Giê-su “chạnh lòng thương” người goá phụ
làng Na-in vì Ngài cũng có một trái tim nhân loại nhạy cảm; mà hơn nữa, đám
tang này còn là một lời tiên báo một ngày kia, người mẹ goá là Đức Ma-ri-a cũng
khóc thương Người Con Một là chính Ngài. Và như thế, cử chỉ Ngài “sờ vào quan
tài” và truyền cho chàng trai “chỗi dậy” cũng mang đậm tính cách ngôn sứ: một dấu
chỉ tiên báo chính Ngài cũng sẽ chỗi dậy như thế. Phải chăng chúng ta cũng có
thể nói về Đức Ma-ri-a rằng: trước nỗi đau của người mẹ goá đứng dưới chân thập
giá, Thiên Chúa cũng “chạnh lòng thương”, nên đã cho Người Con Một được chỗi dậy.
Mời Bạn: Bắt chước Chúa Giê-su biết cảm thông, biết cùng đau
với nỗi đau của biết bao người Mẹ ngày nay đang mất con vì những cái chết quái
ác: cái chết do tội lỗi. Chính sự cảm thông đó sẽ khiến Chúa chạnh thương và
ban ơn cứu độ.
Chia sẻ: Kiểm điểm xem mình có thiếu sự cảm thông với chính
những thân trong gia đình mình không.
Sống Lời Chúa: Cầu nguyện cho những người đang đau khổ vì sự sa sút, tội lỗi của
những người thân của họ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha giàu lòng thương xót, xin ban cho
con tấm lòng biết cảm thông với anh em, và xin cho con biết sẵn sàng làm một
cái gì đó tốt đẹp để làm dịu nỗi đau khổ của anh em.
(5 Phút Lời Chúa)
Thiên Chúa viếng
thăm dân Người
Suy niệm :
Thánh Luca đã viết câu
chuyện này như một người quay phim.
Ngài bắt đầu từ cảnh Đức
Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông.
Thầy trò và mọi người đang
trên đường tiến vào thành Nain.
Khi gần đến cửa thành thì
lại gặp một đám đông khác đi ra.
Đây là một đám tang lớn có
đông người theo ra mộ.
Sau đó là cận cảnh Đức
Giêsu gặp bà mẹ của người chết.
Cuối cùng trở lại với cảnh
của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng,
và câu chuyện kỳ diệu lan
ra khắp Giuđê và các vùng lân cận.
Chuyện Đức Giêsu gặp đám
tang là chuyện tình cờ trên đường.
Nhưng điều đánh động trái
tim Ngài lại không phải là chuyện người chết,
dù anh thanh niên này chết
khi còn cả một tương lai.
Điều thu hút cái nhìn và mối
quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ.
Đó là một bà góa không còn
chỗ nương tựa.
Bà đã dự đám tang của người
chồng.
Và bây giờ bà lại dự đám
tang của đứa con trai duy nhất.
Chỗ dựa còn lại và cuối
cùng cũng bị lấy đi.
Đức Giêsu hiểu rất nhanh về
nỗi đau của người phụ nữ.
Bà biết mình bị trắng tay cả
về tình cảm lẫn vật chất.
Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi:
Thiên Chúa ở đâu?
Đức Giêsu trông thấy bà,
thấy nỗi đau và nước mắt.
Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa
(c. 13).
Dường như Ngài không có khả
năng chịu được nước mắt của người khác.
Khi thấy cô chị Maria khóc
em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33),
Đức Giêsu đã thổn thức và
xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34).
Sau này Ngài hỏi chị Maria
Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy:
Này bà, tại sao bà khóc?
(Ga 20, 15).
Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau
của sự chia ly bởi cái chết.
Ngài cũng hiểu rõ về nước
mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì.
Nhiệm vụ của Ngài là lau
khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại.
Đức Giêsu đã chạm đến quan
tài, hay đúng hơn,
chạm vào cái cáng khiêng
xác được chôn theo kiểu người Do Thái.
Ngài nói với anh như ra lệnh:
Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14).
Anh thanh niên ngồi dậy và
bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh.
Như Êlia ngày xưa, Ngài
trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23).
Ai là người vui nhất? Bà mẹ,
người con, đám đông, hay Đức Giêsu?
Có lẽ là Đức Giêsu, người
đã đem lại hạnh phúc cho người khác.
Khi đứa con lao vào vòng
tay mẹ,
khó lòng Ngài giấu được giọt
nước mắt vì vui.
Đám đông kêu lên: Thiên
Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16).
Thiên Chúa không chỉ thăm
dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44),
Chương trình làm việc mỗi
ngày của Ngài là thăm cả thế giới.
Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến
thăm tôi qua bao người khác,
và Ngài muốn tôi đi thăm để
lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận
trái đất này làm quê hương.
Chúa đã ban nó cho chúng
con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh,
dòng suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng
chim.
thì đó là lỗi của chúng
con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để
tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một
tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi
ngày khi chưa chào đời,
bao kẻ sống không ra người,
nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho
người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng
con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố,
xung đột, có mặt khắp nơi.
Người ta cứ tìm cách giết
nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ và chữa
lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và
dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng,
nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng
con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con,
chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau
hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ
Belem,
xin cho chúng con nghe được
lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá
này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm
cho mọi người.
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu
SJ.)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
17 THÁNG CHÍN
Thánh Thần, Đấng Dẫn Dắt Chúng Ta
Hội Thánh, được sinh ra từ Thập Giá và cuộc Phục
Sinh của Đức Kitô, vẫn không ngừng được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. “Chúa
Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy cho anh em mọi sự
và làm cho anh em nhớ lại tất cả mọi điều [Thầy] đã nói với anh em” (Ga 14,26).
Hội Thánh trên trần gian vẫn không ngừng được dẫn dắt
bởi Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh để đào sâu chính chân lý mà Hội Thánh đã
nhận lãnh trực tiếp từ môi miệng của Thầy. Trải qua bao thế kỷ, Hội Thánh đã thấu
hiểu hơn chân lý ấy nhờ sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Đó là con đừơng giúp Hội
Thánh ngày càng nhận hiểu Đức Kitô nhiều hơn. Sự hiểu biết có sức cứu độ này đã
thật sự được sở đắc bởi Hội Thánh khải hoàn, là “Giêrusalem trên trời” (Gl 4,26).
Chúa Thánh Thần khích lệ Hội Thánh tại thế bằng viễn cảnh huy hoàng của Hội
Thánh vinh quang.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 17/ 9
Thánh Rôbertô Bellarmianô, giám mục
Tiến sĩ Hội Thánh
1Tm 3, 1-13; Lc 7, 11-17.
LỜI SUY NIỆM: “Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và
nói: Bà đừng khóc nữa! Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng
lại. Đức Giêsu nói: Này anh thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy! Người chết
liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ.”
Trong xã hội Do-thái, người đàn bà, hay người con gái đều lệ thuộc vào người
cha, người chồng, hoặc là anh trai hay là em trai. Nếu không có những người này
thì họ hoàn toàn không làm chủ bất cứ cái gì. Nên khi Chúa Giêsu đi vào thành
Naim, Người trông thấy và biết nỗi khổ đau của bà góa mất đứa con trai độc nhất
của bà. Chúa đã chạnh lòng thương, và Người đã dùng quyền năng của Người làm
cho người thanh niên sống lại và trao người thanh niên lại cho bà.
Lạy Chúa Giêsu. Trong câu chuyện Chúa cho người con trai bà góa thành Naim sống
lại, không bởi lời cầu xin của bất cứ ai. Xin Cho chúng con luôn hướng về Chúa
trong mọi lúc; và đặt mình trước mặt Chúa để nhận sự chạnh lòng thương của
Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
NGÀY 17-09 THÁNH RÔBERTÔ BELLARMINÔ (1452 – 1621)
Thánh Rôbertô Bellarminô sinh ngày 4 tháng 10 năm
1452 tại Montepulcianô. Cha Ngài là Vinconzo Bellarminô. Mẹ Ngài là Cynthia
Cervini. Em Đức giáo hoàng Marcellô II. Ngay khi còn là một học sinh tại trường
các cha dòng Tên. Ngài đã tỏ ra thông minh đặc biệt. Cha Ngài đã định cho Ngài
theo học y khoa. Dầu vậy năm 1560, Ngài xin gia nhập dòng Tên và đã được cha mẹ
ưng thuận.
Theo học triết tại Roma, Ngài đã tỏ ra là một học
sinh nổi bật. Từ Roma Ngài đã được gởi đi dạy học trong các trường của dòng Tên
trong 4 năm tại Florence và Modevi. Lúc này Ngài đã thông thạo tiếng Hy lạp và
được chỉ định dạy cho các bạn cùng lớp. Dầu chưa làm linh mục, Ngài thường được
mời đi giảng và được coi như là nhà giảng thuyết từ bẩm sinh. Ngài học thần học
trước hết ở Padua, rồi sau ở Louvain và thụ phong linh mục tại đây năm 1570.
Các bài giảng của Ngài tại Louvain mang lại thành công đăc biệt. Anh em Tin
Lành tại Anh cũng tìm đến nghe Ngài và nhiều người đã trở lại. Với dáng nhỏ bé,
Ngài thường đứng trên ghế đẩu từ bục giảng.
Là giáo sư thần học tại Louvain, Ngài rất mộ mến các
tác phẩn của thánh Tôma. Trong các bài diễn thuyết, Ngài đã chống lại một cách
hữu hiệu nhưng đầy tình thương với các giáo thuyết khơi nguồn cho thuyết
Giansenisme sau này. Thánh Robertô cũng thúc đẩy các sinh viên học tiếng Do
thái và đã soạn cho họ một cuốn văn phạm ngắn gọn. Ngài đọc nhiều về các giáo
phụ và các văn sĩ khác trong Giáo hội, một nỗ lực còn ghi lại trong tác phẩm “về
các văn sĩ trong Giáo hội” (xb năm 1623).
Sau thời kỳ ở Louvain, Ngài được trao phó thi hành một
công việc khó khăn là làm giáo sư phụ trách các cuộc tranh luận tại Roma. Các
cha dòng Tên đã tổ chức việc diễn giảng này nhằm trả lời bằng ngôn ngữ thời đại
đối với các cuộc tấn công của anh em tin lành. Suốt 11 năm, thánh Robertô đã nỗ
lực cho công cuộc này với sự thành công rực rỡ. Nhiều sinh viên của Ngài đã trở
thành thừa sai tại Anh và tại Đức. Một số người đã đổ máu vì đức tin tại Anh.
Các bài diễn thuyết của Ngài được xuất bản lần đầu tại
Ingolstudt, từ năm 1586 – 1593 dưới tựa đề “các cuộc tranh luận về đức tin công
giáo chống lại các người theo lạc giáo thời nay”. Có 20 ấn bản khi Ngài còn sống
và nhiều ấn bản sau này nữa. Đây là một công trình bảo vệ đức tin đầy đủ nhất của
Giáo hội có được và suốt ba thế kỷ liền nó là áo giáp cho các nhà giảng thuyết
và các văn sĩ.
Những trách vụ khác thánh Robertô đảm nhận thời kỳ
này là tu chính tác phẩm chú giải của Salmeron, một bạn dòng, làm việc trong ủy
ban tu chính nghi thức phụng vụ Roma và bản kinh thánh phổ thông. Ngài cũng góp
phần lớn cho Đức Sixtô V trong việc ấn hành các tác phẩm của thánh Ambrosiô.
Với vai trò thần học gia của Đức Hồng y Goetni. Vị đặc
sứ của Đức giáo hoàng tại Pháp năm 1589, thánh Robertô chứng tỏ rằng: Ngài là một
nhà ngoại giao lẫn một học giả có khả năng. Việc đại diện tại Paris thật nặng
nhọc. Nhưng thử thách lớn lao nhất lại đến từ một phía khác. Đức giáo hoàng
Sixtô V quyết định đặt cuốn I trong bộ những cuộc tranh luận vào sổ sách bị cấm.
Đức giáo hoàng không bằng lòng với chủ trương của thánh Robertô, cho rằng uy
quyền của giáo hoàng trực tiếp trong các vấn đề vật chất, và nếu có thì chỉ qua
uy tín tinh thần mà thôi. Chủ trương này đã trở nên thông thường trong Giáo hội
ngày nay. Nhưng Đức Sixtô đã qua đời và Đấng kế vị Ngài đã rút lại quyết định.
Dầu bị thử thách nhưng thánh Robertô đã góp phần vào ấn bản Kinh thánh thời Đức
Sixtô và đã viết tựa cho ấn bản cũ được vạch ra với một tinh thần bác ái.
Thánh Robertô liên tiếp làm cha tinh thần và viện
trưởng của học viện Roma, rồi làm bề trên tỉnh dòng Naples. Tại Roma Ngài hướng
dẫn một thánh trẻ dòng Tên là Luy Gonzaga. Tại Naples, chính Ngài được một cha
dòng Tên khác là thánh Bernadiô Realinô sau này gọi là thánh.
Bị ép buộc nhận chức Hồng y năm 1599, từ đó Ngài lo
các việc cho toàn thể Hội Thánh, chẳng hạn như vụ án Galilêô và cuộc tranh luận
về ơn thánh giữa các cha dòng Daminh và dòng Tên.
Ngài làm Tổng giám mục Capua trong ba năm, rồi chấm
dứt những ngày hạnh phúc ấy vào năm 1605 khi Ngài được triệu về Roma và cầm viết
bênh vực Giáo hội. Liên tiếp Ngài dàn xếp với Fra Sarpi miền Venice, với vua
Giacôbê I nước Anh và với văn sĩ Pháp Guillaume Barchony.
Thánh Robertô qua đời ngày 17 tháng 9 năm 1621, được
tuyên thánh năm 1928 và được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1931.
(daminhvn.net)
17 Tháng Chín
Lời Nói Không Mất Tiền Mua
Mahatma Gandhi, người đề xướng chủ trương tranh đấu
bất bạo động, đến Phi Châu. Ông vào dùng bữa trong một quán ăn bình dân. Sau
khi dùng bữa, ông trả tiền và nói với người giúp bàn: “Xin cám ơn vì sự tử tế của
anh”. Người giúp bàn trả lời: “Thưa ngài, tôi sẽ không bao giờ quên ngài. Từ 25
năm phục vụ ở đây, tôi chưa bao giờ nghe được một tiếng cám ơn”.
“Lời nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa
lòng nhau”. Một tiếng cám ơn, một lời chào hỏi, nếu được thực thi với tất cả
chân tình là một biểu lộ của một lòng tin sâu sắc. Nói một tiếng cám ơn, biểu lộ
một cử chỉ thân thiện với người khác là muốn nói lên rằng tình liên đới giữa
con người là một điều thiết yếu và ta cần có người chung quanh để sống với. Nói
một tiếng cám ơn với người nào đó là khẳng định giá tị và nhân phẩm của người
đó. Nhưng ở đời, có ai mà không cho ta một món quà hay không dạy ta bất cứ bài
học nào đó.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét