Trang

Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2014

02-06-2014 : THỨ HAI TUẦN VII MÙA PHỤC SINH

02/06/2014
Thứ Hai sau Chúa Nhật VII Phục Sinh


Bài Ðọc I: Cv 19, 1-8
"Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần chưa?"
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Xảy ra là khi Apollô ở Côrintô, thì Phaolô đi miền thượng du, rồi đến Êphêxô gặp một số môn đồ, và ngài hỏi họ: "Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần chưa?" Họ trả lời: "Nguyên việc có Thánh Thần hay không, chúng tôi cũng chưa nghe nói". Ngài lại hỏi: "Vậy các ngươi đã chịu phép rửa của ai?" Họ thưa: "Phép rửa của Gioan". Phaolô liền bảo: "Gioan thanh tẩy dân chúng bằng phép rửa sám hối mà rằng: Hãy tin vào Ðấng sẽ đến sau ông, tức là Ðức Giêsu". Nghe vậy, họ đã chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Và khi Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần đến ngự xuống trên họ, họ liền nói được nhiều thứ tiếng và nói tiên tri. Tất cả đàn ông chừng mười hai người.
Ngài vào hội đường, và trong suốt ba tháng, Ngài mạnh dạn rao giảng, tranh luận và thuyết phục về nước Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 67, 2-3. 4-5ac. 6-7ab
Ðáp: Chư quốc trần ai, hãy ca khen Thiên Chúa (c. 33a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Thiên Chúa đứng lên, quân thù của Người tan rã, và những kẻ ghét Người chạy trốn khỏi long nhan. Như làn khói toả, chúng rã tan, như mẩu sáp ong gần lửa chảy ra, những đứa ác nhân tiêu vong trước nhan Thiên Chúa. - Ðáp.
2) Những người hiền đức mừng rỡ hỉ hoan, trước nhan Thiên Chúa họ mừng vui sung sướng. Hãy hát mừng Thiên Chúa, hãy đàn ca danh Người, danh hiệu Người là Chúa, hãy mừng rỡ hân hoan trước nhan Người. - Ðáp.
3) Là Cha kẻ mồ côi, là Ðấng bênh vực người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong thánh điện của Người. Thiên Chúa tạo nhà cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa những người tù tội ra nơi thịnh đạt. - Ðáp.

Alleluia: Mt 28, 19 và 20
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 16, 29-33
"Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: "Ðúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra". Chúa Giêsu đáp lại các ông: "Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Môn Ðệ Bỏ Thầy

"Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha luôn ở với Thầy".
Những lời này Chúa Giêsu nói trước để an ủi các môn đệ trong biến cố sắp xảy đến với Ðức Giêsu và cho chính họ. Họ đã mường tượng nhiều nguy cơ sẽ đến với họ và đến với Thầy mình. Họ hoang mang, nhưng Chúa Giêsu trấn tĩnh, Người bảo họ "đừng sợ", có Chúa Cha ở với Người, Người ở với họ và Người sẽ vượt thắng hết thế gian, cản trở mọi gian nan, Ngài nói: "Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian rồi" (Ga 16,33).
Ðó cũng là những lời Chúa Giêsu nói với mỗi người chúng ta, nhất là chúng ta đều lo lắng về ngày mai, về những thử thách sẽ đến trong tương lai, ai không lo cho ngày mai thì bị xem như là kẻ khờ khạo và vô ý thức. Nỗi sợ hãi và lo lắng cho ngày mai còn đặc biệt hơn cho những người khi họ nghĩ đến năm 2000, họ nghĩ rằng có thể là tận thế hay gần đến tận thế. Lo lắng cho ngày mai là bản tính con người, vì ngày mai là một phần quyết định cho đời mình mà mình lại không quyết định được. Ngày mai ấy lại đáng lo vì chính mình Chúa Giêsu đã xác nhận rằng: "Trong thế gian anh em sẽ phải gian nan khốn khổ" (Ga 16,33).
Gian nan khốn khó như là thân phận con người và của mọi người. Anh em sẽ khốn khó hơn vì anh em là đồ đệ của Thầy, vì anh em tin và theo Thầy. Người nói: "Nếu thế gian ghét anh em thì nó đã ghét Thầy trước..." (Ga 15,18-22). Song chính vì đức tin mà chúng ta phải gian nan đau khổ, thì cũng chính nhờ đức tin vì Thiên Chúa mà chúng ta sẽ được an ủi. Cùng với Chúa, chúng ta vượt thắng đau khổ do thế gian gây nên, thắng sự chết bằng chính những đau khổ do thế gian gây nên, thắng sự chết bằng chính những đau khổ của Người, "lấy độc trị độc". Chính sự chết của Ngài mà Ngài đã chiến thắng sự chết và đem lại sự sống trưởng cửu cho những kẻ tin Ngài.
Chúng ta cần lưu ý để không thể sai lầm về sự chiến thắng của Thiên Chúa, thái độ và hành động chiến thắng của Người là bằng tình thương bằng hy sinh mà khắc phục được thế gian và đau khổ. Người không chủ trương thắng bằng những lối hống hách, nhưng thói kiêu căng "thừa thắng xông lên" để chà đạp những người yếu hèn hơn mình, không phải chiến thắng bằng tiền của hay khoa học, mà bằng tình thương chân thật, dám chết cho người mình yêu. Hiểu sai lầm về tình thương của Thiên Chúa sẽ khiến chúng ta đi lạc đường lầm lối như Chúa nói: "Giờ sẽ đến và khi đã đến rồi, anh em sẽ phân tán mỗi người một ngả và để Thầy cô độc một mình" (Ga 16,32); "Chúa Cha ở với Thầy và Thầy ở với anh em". Trước khi về trời, Chúa Giêsu nói: "Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng phù trợ khác và Ngài đến ở với anh em luôn mãi" (Ga 14,16).
Thiên Chúa ở gần chúng ta luôn mãi để nâng đỡ và che chở chúng ta, song tiếc thay chúng ta không biết hay không màng chi đến Ngài, như hai môn đệ trên đường Emmau có Chúa cùng đi với họ trong những lúc họ chán nản nhất mà họ không nhận ra. Như câu chuyện người đi trên cát kể rằng: Trong giấc mộng nửa đêm, một người kia mơ thấy mình đi bộ với Thiên Chúa trên bãi biển. Người kia đã hồi tưởng mọi giai đoạn cuộc sống của mình được chiếu lại trên bầu trời xanh, trong đó anh cũng thấy có hai cặp dấu chân in song hành trên cát, một của anh và một của Chúa. Nhưng khi nhớ lại đến một quãng đời đen tối nhất của mình, thì anh lại thấy lúc đó chỉ có một cặp dấu chân mà thôi. Như hoảng sợ, anh liền hỏi Chúa: "Lạy Chúa, Chúa nói rằng một khi con theo Chúa thì nhất định Chúa sẽ mãi mãi đồng hành với con, nên con không hiểu được tại sao lúc con cần Chúa hơn hết thì Chúa lại bỏ con?"
Thiên Chúa trả lời: "Này con yêu quí của Cha, Cha rất yêu thương con và không bao giờ lìa bỏ con, lúc con bị đau khổ thử thách nhất, con thấy có chỉ có một cặp dấu chân trên cát là vì lúc đó Cha bồng con trên tay". Amen.
"Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha luôn ở với Thầy".
Những lời này Chúa Giêsu nói trước để an ủi các môn đệ trong biến cố sắp xảy đến với Ðức Giêsu và cho chính họ. Họ đã mường tượng nhiều nguy cơ sẽ đến với họ và đến với Thầy mình. Họ hoang mang, nhưng Chúa Giêsu trấn tĩnh, Người bảo họ "đừng sợ", có Chúa Cha ở với Người, Người ở với họ và Người sẽ vượt thắng hết thế gian, cản trở mọi gian nan, Ngài nói: "Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian rồi" (Ga 16,33).
Ðó cũng là những lời Chúa Giêsu nói với mỗi người chúng ta, nhất là chúng ta đều lo lắng về ngày mai, về những thử thách sẽ đến trong tương lai, ai không lo cho ngày mai thì bị xem như là kẻ khờ khạo và vô ý thức. Nỗi sợ hãi và lo lắng cho ngày mai còn đặc biệt hơn cho những người khi họ nghĩ đến năm 2000, họ nghĩ rằng có thể là tận thế hay gần đến tận thế. Lo lắng cho ngày mai là bản tính con người, vì ngày mai là một phần quyết định cho đời mình mà mình lại không quyết định được. Ngày mai ấy lại đáng lo vì chính mình Chúa Giêsu đã xác nhận rằng: "Trong thế gian anh em sẽ phải gian nan khốn khổ" (Ga 16,33).
Gian nan khốn khó như là thân phận con người và của mọi người. Anh em sẽ khốn khó hơn vì anh em là đồ đệ của Thầy, vì anh em tin và theo Thầy. Người nói: "Nếu thế gian ghét anh em thì nó đã ghét Thầy trước..." (Ga 15,18-22). Song chính vì đức tin mà chúng ta phải gian nan đau khổ, thì cũng chính nhờ đức tin vì Thiên Chúa mà chúng ta sẽ được an ủi. Cùng với Chúa, chúng ta vượt thắng đau khổ do thế gian gây nên, thắng sự chết bằng chính những đau khổ do thế gian gây nên, thắng sự chết bằng chính những đau khổ của Người, "lấy độc trị độc". Chính sự chết của Ngài mà Ngài đã chiến thắng sự chết và đem lại sự sống trưởng cửu cho những kẻ tin Ngài.
Chúng ta cần lưu ý để không thể sai lầm về sự chiến thắng của Thiên Chúa, thái độ và hành động chiến thắng của Người là bằng tình thương bằng hy sinh mà khắc phục được thế gian và đau khổ. Người không chủ trương thắng bằng những lối hống hách, nhưng thói kiêu căng "thừa thắng xông lên" để chà đạp những người yếu hèn hơn mình, không phải chiến thắng bằng tiền của hay khoa học, mà bằng tình thương chân thật, dám chết cho người mình yêu. Hiểu sai lầm về tình thương của Thiên Chúa sẽ khiến chúng ta đi lạc đường lầm lối như Chúa nói: "Giờ sẽ đến và khi đã đến rồi, anh em sẽ phân tán mỗi người một ngả và để Thầy cô độc một mình" (Ga 16,32); "Chúa Cha ở với Thầy và Thầy ở với anh em". Trước khi về trời, Chúa Giêsu nói: "Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng phù trợ khác và Ngài đến ở với anh em luôn mãi" (Ga 14,16).
Thiên Chúa ở gần chúng ta luôn mãi để nâng đỡ và che chở chúng ta, song tiếc thay chúng ta không biết hay không màng chi đến Ngài, như hai môn đệ trên đường Emmau có Chúa cùng đi với họ trong những lúc họ chán nản nhất mà họ không nhận ra. Như câu chuyện người đi trên cát kể rằng: Trong giấc mộng nửa đêm, một người kia mơ thấy mình đi bộ với Thiên Chúa trên bãi biển. Người kia đã hồi tưởng mọi giai đoạn cuộc sống của mình được chiếu lại trên bầu trời xanh, trong đó anh cũng thấy có hai cặp dấu chân in song hành trên cát, một của anh và một của Chúa. Nhưng khi nhớ lại đến một quãng đời đen tối nhất của mình, thì anh lại thấy lúc đó chỉ có một cặp dấu chân mà thôi. Như hoảng sợ, anh liền hỏi Chúa: "Lạy Chúa, Chúa nói rằng một khi con theo Chúa thì nhất định Chúa sẽ mãi mãi đồng hành với con, nên con không hiểu được tại sao lúc con cần Chúa hơn hết thì Chúa lại bỏ con?"
Thiên Chúa trả lời: "Này con yêu quí của Cha, Cha rất yêu thương con và không bao giờ lìa bỏ con, lúc con bị đau khổ thử thách nhất, con thấy có chỉ có một cặp dấu chân trên cát là vì lúc đó Cha bồng con trên tay". Amen.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần VII PS
Bài đọc: Acts 19:1-8: Jn 16:29-33.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ngôn ngữ xử dụng trong việc rao giảng Tin Mừng.
Người rao giảng phải xử dụng ngôn ngữ nào để việc rao giảng Tin Mừng có hiệu quả? Trước tiên, xét về phía người rao giảng, vì họ là người đem lời chân lý của Chúa đến cho con người; nên lời của họ phải chứa đựng sự thật. Thứ đến, xét về phía người nghe, đại đa số là thường dân và không có vốn liếng văn chương nhiều để hiểu biết những lời nói bóng bảy, chải chuốt. Vì thế, ngôn ngữ các nhà giảng thuyết dùng phải làm sao cho đơn giản, trong sáng, và dễ hiểu. Hơn nữa, mục đích của việc rao giảng Tin Mừng là đưa khán giả tới niềm tin vào Thiên Chúa và thúc đẩy việc ăn năn xám hối; chứ không phải là để thưởng thức những áng văn hay phân tích văn chương. Vì thế, nhà giảng thuyết phải dùng những lời chân tình, do Thánh Thần hướng dẫn, để đánh động tâm hồn khán giả, giúp họ nhận ra tình thương Thiên Chúa, và nhận ra những yếu đuối và tội lỗi của họ, sẵn sàng cho sự hoán cải tâm hồn.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những ví dụ cụ thể trong việc loan truyền Tin Mừng. Trong Bài Đọc I, khi Phaolô đến Ephesô và hỏi các tín hữu ở đây họ đã lãnh nhận Thánh Thần chưa, họ trả lời: "Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói." Phaolô giải thích cho họ về sự khác nhau giữa hai Phép Rửa, và khi họ đã hiểu, ông làm Phép Rửa nhân danh Đức Kitô cho họ, và họ được lãnh nhận Thánh Thần. Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu biết Cuộc Thương Khó đã gần kề, Ngài xử dụng ngôn ngữ chân thành của tình yêu để giúp các Tông-đồ hiểu rõ những gì sắp xảy ra; để các ông biết cách đối phó khi phải đương đầu với tình thế.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phaolô kiên nhẫn giáo dục các tín hữu tại Ephêsô.
1.1/ Phaolô phân biệt hai Phép Rửa: Trong thời kỳ đầu tiên của Giáo Hội, nhiều tín hữu nghĩ chỉ có một Phép Rửa duy nhất là Phép Rửa bằng nước của Gioan Tẩy Giả. Họ chưa bao giờ nghe tới Phép Rửa bằng Thánh Thần nhân danh Đức Kitô, và tại sao phải chịu Phép Rửa này, như lời các tín hữu tại Ephesô trả lời Phaolô hôm nay: "Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói." Hiểu biết sự thiếu thốn của dân, Phaolô kiên nhẫn mở trí cho họ:
(1) Phép Rửa bằng nước của Gioan Tẩy Giả: là Phép Rửa tỏ lòng sám hối. Ông Gioan làm Phép Rửa này để tha thứ và chuẩn bị tâm hồn cho dân để họ tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giêsu. Phép Rửa này cần thiết, nhưng không phải là Phép Rửa duy nhất.
(2) Phép Rửa bằng Thánh Thần của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan, nhưng không để được tha tội, vì Ngài chẳng có tội gì để được tha. Các Giáo Phụ cắt nghĩa, Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan để thánh hiến Nước của sông Jordan và tất cả nước mà Giáo Hội dùng để rửa tội cho các tín hữu. Nhưng điều khác biệt chính giữa hai Phép Rửa là sự hiện diện của Thánh Thần đậu xuống trên Ngài.
Khi các tín hữu chịu Phép Rửa, họ không chỉ được tha tội, nhưng còn được thánh hóa bởi Thánh Thần. Thánh Thần thánh hóa con người bằng cách làm cho họ hiểu biết Lời Chúa, và ban những ơn thánh cần thiết để giúp họ sống xứng đáng ơn gọi của những người làm con Chúa. Chúng ta có thể nhận thấy điều này khi chứng kiến anh chị em tân tòng gia nhập đạo: họ không chỉ chịu Phép Rửa bằng nước, nhưng còn lãnh nhận Thánh Thần qua việc xức dầu, và sau cùng được lãnh nhận Bí-tích Thánh Thể trong cùng một nghi lễ. Đối với các em bé, Giáo Hội chia ra làm ba Bí-tích riêng biệt trong quá trình thành người trưởng thành của em: Rửa Tội khi ra đời, lãnh nhận Mình Chúa khi đến tuổi biết phân biệt, và Thêm Sức khi đến tuổi biết làm chứng.
1.2/ Phaolô làm Phép Rửa ban Thánh Thần cho các tín hữu: "Khi ông Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri. Cả nhóm có chừng mười hai người." Nói tiếng lạ không chỉ giới hạn vào việc nói các ngôn ngữ khác nhau như các Tông-đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần; nhưng trải rộng trong việc nói ngôn ngữ làm cho người khác hiểu những gì mình nói: ngôn ngữ của sự thật và của tình yêu. Nói tiên tri cũng không giới hạn vào việc tiên báo những sự kiện sẽ xảy đến trong tương lai; nhưng là nói thay Chúa, loan truyền những Tin Mừng cho những người chưa được nghe Thiên Chúa nói trong cuộc đời của họ. Khi các tín hữu được nói tiếng lạ và nói tiên tri, họ không nói những lời vô nghĩa và lộn xộn như những người mất trí; nhưng là những lời sự thật và xây dựng mà các tín hữu khác có thể hiểu. Sau khi làm Phép Rửa, ông Phao-lô vào hội đường, và trong vòng ba tháng, ông mạnh dạn rao giảng, thảo luận về Nước Thiên Chúa và cố gắng thuyết phục họ.
2/ Phúc Âm: Chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến.
2.1/ Đức tin và sự thử luyện:
(1) Chúa Giêsu nói từ tâm lòng với các môn đệ: Như chúng tôi đã đề cập trong những lần chia sẻ trước, trình thuật hôm nay nằm trong phần giáo dục dành riêng cho các môn đệ của Chúa Giêsu. Khán giả khác thì ngôn ngữ và lối suy luận dùng cũng phải khác, nhất là Chúa Giêsu không cón nhiều thời gian để dạy dỗ các ông, nên Ngài dùng ngôn ngữ của trái tim để chuẩn bị cho các ông những gì sắp xảy đến. Không lạ gì mà các ông hiểu và thưa Ngài: "Đấy, bây giờ Thầy nói rõ, chứ không còn dùng dụ ngôn nào nữa. Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến."
(2) Giờ các môn đệ có đức tin là giờ mà cả Thầy trò phải chịu thử thách. Đức Giêsu đáp: "Bây giờ anh em tin à? Này đến giờ - và giờ ấy đã đến rồi - anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy." Chúa Giêsu không có ý mỉa mai các môn đệ khi nói những lời này, nhưng Ngài muốn các ông hiểu hai sự thực quan trọng: Thứ nhất, đức tin cần phải được thử luyện để biết đâu là đức tin vững chắc. Thứ hai, người nào có đức tin vững chắc không bao giờ cô độc; người ấy luôn có Thiên Chúa đồng hành và vượt qua mọi thử thách của cuộc đời.
2.2/ Chúa Giêsu để lại hai nguồn bình an của Ngài cho các môn đệ.
(1) Các môn đệ được bình an khi phản bội Thầy: Làm sao chúng ta hiểu câu tuyên bố của Chúa: "Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an." Chúa biết các ông sẽ phản bội Ngài vì sợ hãi và yếu đuối trong Cuộc Thương Khó; nhưng Chúa vẫn yêu thương và trung thành với các ông. Chúa muốn nói những lời này trước khi sự phản bội xảy ra, để các ông đừng thất vọng đến chỗ tìm quyên sinh như Judah, nhưng biết tin vào sự tha thứ của Ngài.
(2) Lời hứa chiến thắng trước khi đụng trận: "Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian." Không có gì kích thích lòng nhiệt thành của các môn đệ hơn là lời hứa sẽ chiến thắng. Một khi đã nắm chắc phần thắng lợi trong tay, người môn đệ sẽ lao vào chiến trường mà không gian nguy nào có thể làm chùn chân ông.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không cần dùng những lời lẽ văn chương bóng bảy hay chải chuốt trong việc loan báo Tin Mừng; nhưng cần những lời sự thật, đơn sơ mà mọi người đều có thể hiểu.
- Quan trọng hơn nữa là chúng ta nên dùng những lời chân tình phát xuất từ trái tim, và được sưởi ấm bởi Thánh Thần. Khán giả dễ nhận ra và đồng cảm với những người quan tâm đến cuộc sống của họ, vì Thánh Thần cũng là Người đang hoạt động trong khán giả.
- Chúng ta đừng sợ bất cứ điều gì trong hành trình rao giảng Tin Mừng, vì chúng ta tin tưởng Ba Ngôi Thiên Chúa luôn đồng hành để soi sáng, nâng đỡ và bảo vệ chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


HẠT GIỐNG NẨY MẦM  TUẦN 7 PHỤC SINH
Ga 16,29-33

A. Hạt giống...
Đề tài giáo lý thứ 14 : về cuộc sống của người môn đệ giữa thế gian.
Chúa Giêsu báo trước rằng khi Ngài chịu nạn thì các môn đệ sẽ bỏ Ngài : " Nầy đã đến giờ, và đến giờ rồi, các con sẽ mỗi người một ngã, bỏ mặc Thầy một mình"
Chúa Giêsu còn tiên báo xa hơn về cuộc sống của môn đệ sau khi Ngài ra đi : "Giữa thế gian, các con sẽ đau khổ. Nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian".

B.... nẩy mầm.
1. "Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian"
Lúc ấy, mặt trời đã lên cao, ánh mắt của nó chiếu qua tấm che trần màu đỏ tía, khiến cho nhà hát ngập màu máu. Cát nhuốm màu lửa đỏ, và trong thứ ánh sáng ấy, nét kinh hoàng hiện lên khuôn mặt khán giả cũng như bãi đấu trường mà lát nữa đây sẽ tràn ngập nỗi đau đớn của những con người bị hành hình và nỗi điên cuồng của những dã thú. Cửa hầm mở, đoàn người gói trong những tấm da thú bị đẩy ra. Toàn nhà hát vang lên tiếng rì rầm : "Bọn  Thiên Chúa giáo ! Bọn Thiên Chúa giáo !"... Đây là cảnh tượng cuộc hành hình những Kitô hữu tiên khởi thời Néron năm 64.
Lịch sử Giáo Hội mở ra với những cuộc bách hại. Và trải qua 2000 năm, bị nghi ngờ, bị thù ghét và bách hại luôn là số phận của người Kitô hữu. Tại sao ? Lời Chúa Giê-su hôm nay là câu trả lời quý giá cho tôi.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu rằng là Kitô hữu nghĩa là tham dự vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa. Xin cho con luôn biết can đảm đối diện với thập giá. (Epphata)
2. Nếu chỉ tin có phần đầu của Lời Chúa thì chúng ta sẽ lo sợ lắm. Chúng ta phải tin luôn phần sau của Lời Chúa nữa "Thầy đã chiến thắng thế gian". Chắc chắn như thế, Chúa Giêsu đã bị biết bao gian nan khốn khó cùng một lúc đổ dồn lại tấn công Ngài, bao nhiêu kẻ thù liên minh lại để làm hại Ngài, đến nỗi Ngài phải bị chết, chết rất là đau đớn rất là nhục nhã. Có thể nói khi Ngài chết là Ngài gánh chịu tất cả mọi thứ gian nan khốn khó. Bởi vậy khi Ngài sống lại thì không phải Ngài chỉ chiến thắng một sự gian nan khốn khó nhưng là tất cả mọi gian nan khốn khó. Chiến thắng ấy không phải chỉ của riêng Ngài mà còn là bảo đảm cho chiến thắng của tất cả những ai theo Ngài.
3. Nhưng để có thể đón nhận những gian nan khốn khó sẽ đến và để có thể vững tin vào chiến thắng, chúng ta phải "can đảm lên". Xin Chúa ban cho con thêm can đảm.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ

02/06/14 THỨ HAI TUẦN 7 PS
                                Th. Mác-se-li-nô và Phê-rô, tử đạo                                   
Ga 16,29-33

Suy niệm: Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, “ loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”. Ngài xuống thế với mục đích rõ ràng là để cứu độ chúng ta. Ngài không cứu chúng ta bằng sự can thiệp kỳ diệu như trong những câu chuyện thần tiên. Ngài cũng không cứu chúng ta theo kiểu Thánh Gióng với roi sắt ngựa thần để nhấc bổng chúng ta bay về trời sau khi hoàn tất sứ mạng. Trái lại Ngài đã đi qua con đường thập giá để cứu độ chúng ta, chúng ta cũng phải đi qua con đường thập giá ấy để về trời với Ngài. Vì thế, gian nan khốn khó là điều tất yếu phải có đối với Ki-tô hữu khi còn ở thế gian; đồng thời, gian nan khốn khó cũng là những nấc thang để đưa Ki-tô hữu về trời. Đức Ki-tô đang đợi chúng ta ở nấc thang cuối cùng. Ngài luôn động viên chúng ta rằng: “Can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian!
Mời Bạn: Không rập theo thói đời này” (Rm 12,2) nhưng vâng phục thánh ý Chúa Cha là con đường mà Chúa Giê-su đã đi qua để chiến thắng thế gian. Đó cũng là con đường chúng ta phải đi để đến được với Ngài.
Chia sẻ: Có cách nào để lẩn tránh gian nan khốn khó không?
Sống Lời Chúa: Đừng tìm sự dễ dãi đến độ hèn nhát. Hãy can đảm đối diện sự thật, để sự thật giải phóng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa bảo rằng: “Ngày nào có cái khổ của ngày đó”. Xin cho con đừng phàn nàn khi đối diện đau khổ, nhưng biết nhìn lên Chúa để được tiếp thêm sức mạnh, hầu có thể ‘chiến đấu’ đến cùng.

Thầy không một mình
Đức Giêsu thực sự chẳng bao giờ cô đơn tuyệt đối, vì Cha thực sự chẳng bao giờ bỏ Ngài, và Ngài cũng chẳng bao giờ bỏ Cha. 


Suy nim:
Cô đơn trên đời là điều ai cũng sợ.
Phải chăng vì người ta không được dựng nên để sống một mình?
Chẳng phải chỉ người trẻ mới sợ cô đơn và tìm cách tránh né.
Người già cũng sợ không kém .
Người ta sợ đi về thế giới bên kia một mình.
Trong thân phận làm người, Đức Giêsu cũng phải đối diện với nỗi cô đơn.
Ngài không lập gia đình, không có một người bạn đời để chia sẻ.
Bù lại, Ngài có những người thân yêu ở làng Nazareth.
Nhưng ngay cả cha mẹ Ngài cũng không hiểu hết được Ngài (Lc 2, 50).
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Ngài có những người bạn mới là các môn đệ.
Tiếc thay, họ không phải là những người luôn luôn hiểu Ngài.
Ngài muốn chia sẻ cho họ tất cả cái riêng tư giữa Ngài với Cha.
Nhưng họ chưa đủ sức kham nổi.
Đức Giêsu không phải là người thích cô đơn, khép kín.
Ngài dễ đến với dân chúng, với mọi hạng người.
Ngài gặp gỡ họ, loan Tin Vui, và cho họ được tâm thân an lạc.
Các bệnh nhân, tội nhân, trẻ em, phụ nữ,
cũng không ngại đến với Ngài để trò chuyện hay chia sẻ một bữa ăn.
Dù vậy tìm được một sự đồng cảm trọn vẹn nơi con người
vẫn là điều khó đối với Đức Giêsu,
bởi lẽ Ngài còn thuộc về một thế giới khác trên cao.
Ngài mãi mãi là một màu nhiệm đối với trí khôn hạn hẹp của con người.
Chỉ khi trở về với nguồn cội đời mình,
Đức Giêsu mới ra khỏi được nỗi cô đơn trống trải ấy.
“Tôi không (xét đoán) một mình, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi” (Ga 8, 16).
Chính vì Đức Giêsu luôn nói và làm mọi sự theo ý Cha,
nên Ngài chẳng bao giờ cô đơn .
“Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi một mình,
vì tôi luôn làm những điều đẹp ý Người” (Ga 8, 29).
Vào giây phút chia ly này, khi Đức Giêsu biết điều sắp xảy đến:
“Anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả, và để Thầy một mình.
Nhưng Thầy không một mình đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (c. 32).
Đức Giêsu không cô đơn trong cuộc sống,
mà ngay cả khi Ngài kêu lớn tiếng trên thập giá :
“Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Chúa bỏ tôi?” (Mc 15, 34),
lúc đó lại là lúc Đức Giêsu gần Cha hơn cả, kết hợp với Cha hơn cả.
Đức Giêsu thực sự chẳng bao giờ cô đơn tuyệt đối,
vì Cha thực sự chẳng bao giờ bỏ Ngài,
và Ngài cũng chẳng bao giờ bỏ Cha.
Chúng ta xin được ơn dám chịu cô đơn trước thế gian tội lỗi,
để được một mình với Chúa.
Cầu nguyn:
Giữa những ồn ào của đám đông,
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại,
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng,
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước,
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó,
trầm lắng và bình an.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Suy niệm
"Các con sẽ tản mát mỗi người một ngả… Thầy nói những điều đó để các con được bình an trong Thầy".
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu nói rất nhiều điều với các môn đệ để an ủi, động viên các ông vững tâm khi Ngài ra đi và khi họ phải đối diện những khó khăn trước mắt.
Bài Tin mừng hôm nay nói rõ, Chúa Giêsu biết là họ sẽ bỏ Ngài khi họ gặp khó khăn. Nhưng Ngài vẫn yêu thương, tha thứ và cầu nguyện cho họ để họ được bình an. Chúa Giêsu yêu thương các môn đệ và yêu thương đến cùng. Ngài yêu thương họ dù họ yếu hèn và thậm chí họ bỏ Ngài ngay những lúc Ngài cần họ nhất. Hơn nữa, Chúa Giêsu không những yêu thương tha thứ cho họ mà Ngài còn tin tưởng nơi họ nữa. Ngài tiếp tục nâng đỡ sự yếu hèn của họ, giúp họ đứng lên và tin tưởng trao trách nhiệm cho họ. Tình thương của Ngài đã giúp các môn đệ vượt qua khó khăn và tiếp tục dấn bước theo Chúa.
Chúa Giêsu yêu thương từng người chúng ta. Ngài yêu thương ta ngay cả những lúc chúng ta phản bội Ngài. Điều Ngài mong muốn nơi mỗi người chúng ta là can đảm đón nhận những yếu hèn của mình và đứng lên để tiếp tục tiến bước.
Noi gương Ngài, chúng ta hãy dùng tình thương mà đối xử với nhau, nhất là trước những sai sót của tha nhân.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy tha thứ và tin tưởng anh em. Hãy cảm hoá và giúp đỡ sự yếu hèn của nhau bằng tình thương như Chúa Giêsu đã làm với chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận thấy tình yêu tha thứ của Chúa để chúng con biết đứng lên sau mỗi lần vấp ngã. Và xin cho chúng con cũng biết dùng tình yêu thương mà nâng đỡ nhau. Amen.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
2 THÁNG SÁU
Triều Thiên Của Tạo Vật
Con người là một thể thống nhất, là duy nhất trong chính mình. Nhưng trong thể thống nhất này có hàm chứa tính lưỡng diện. Thánh Kinh trình bày cả thể thống nhất (ngôi vị) lẫn tính lưỡng diện (hồn và xác) của con người. Chẳng hạn, Sách Huấn Ca viết: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người, rồi lại đưa con người trở về đất” (Hc 17, 1 – 2). Nhưng Sách Huấn Ca cũng viết: “Người ban cho chúng trí khôn, luỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ. Người làm cho chúng được đầy kiến thức thông minh, tỏ cho chúng biết điều tốt điều xấu.” (câu 5 – 6)
Từ quan điểm này, Thánh Vịnh 8 thật hết sức có ý nghĩa. Con người được tôn dương là một tuyệt tác khi tác giả thánh vịnh nói với Thiên Chúa bằng những lời này: “… con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến; phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (câu 5 – 7).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 02-6
Thánh Marcellinô và thánh Phêrô, tử đạo
Cv 19, 1-8; Ga 16, 29-33.

LỜI SUY NIỆM: “Trong thế gian anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.”
Theo Chúa Giêsu là chấp nhận lội ngược dòng chảy của thế gian, khi lội ngược dòng thì phải luôn cố gắng, bền sức và tỉnh thức cùng chiến đấu không ngừng. Trong mọi thử thách đó, người KiTô hữu luôn có được ơn sủng của Chúa trợ giúp; Hãy vững tin và bền chí vì chính Chúa Giêsu đã cho biết Người có toàn quyền trên mọi sự và chính Người đã thắng thế gian. Người luôn hiện diện với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Lạy Chúa Giêsu, Mỗi người trong gia đình chúng con, đều có những thử thách riêng của riêng mình, cũng như những thử thách  chung của gia đình. Xin Chúa thương ban mọi ơn lành để chúng con vượt qua thử thách mà trung thành với Chúa để giữ vững đức tin trong cuộc sống hiện tại hầu ngày sau chúng con vui hưởng niềm vui mà không ai lấy mất được.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 02-06: Thánh MARCELLINÔ và PHÊRÔ
Tử Đạo (+304)

Không có tài liệu lịch sử nào nói về nguồn gốc của hai thánh tử đạo Marcellino và Phêrô cả. Các Ngài được phúc tử đạo dưới thời Diocletianô.
Thánh Marcellino được ơn tử đạo còn thánh Phêrô được ơn trừ quỉ.
Nhờ được ơn trừ quỉ, thánh Phêrô được rất nhiều người mộ mến. Ngược lại cũng có nhiều người ghen tức và thù oán tìm cách giết hại. Tỉnh trưởng Sêrênô ra lệnh tống giam Ngài. Bạn ông là Antêmi có đứa con gái bị quỉ ám. Nghe biết Phêrô có quyền trừ quỉ, ông giối thiệu bạn mình tới ngục thất để gặp thánh nhân. Gặp ông, thánh nhân khuyên nhủ ông hãy tin vào Chúa Giêsu và thờ phượng Thiên Chúa. Ông bực tức cho rằng: Chúa không cứu nổi Phêrô thì làm sao thánh nhân cứu nổi con ông được. Rồi ngay đêm ấy khi quân canh ngục còn đang thi hành nhiệm vụ thì thánh nhân đã có mặt ở nhà Antêmi. Cả gia đình Antêmi bỡ ngỡ và xin theo đạo. Paulina, con gái Antêmi được lành bệnh. Từ đó gia đình Antêmi thành nơi tụ tập thường hay lui tới dạy đạo và rửa tội cho các tân tòng.
Tức giận, Sêrênô ra lệnh hành hạ hai thánh nhân một cách dã man rồi giam ngục tối, nền rắc đầy miểng chai, và bỏ đói các Ngài cho chết. Tuy nhiên Chúa đã giải thoát cho các Ngài trong một tuần lễ để lo cho các dự tòng được chịu phép rửa tội. Nghĩ rằng gia đình Antemi lập mưu cho cuộc vượt thoát này, Sêrênô ra lệnh giết cả gia đình ông.
Cuối cùng hai thánh nhân Marcellinô và Phêrô bị đem hành quyết. Khi thi hành án quyết, đao phủ Đorotê đã thấy linh hồn hai Ngài bay về trời. Quá xúc động ông đã xin tòng giáo và qua đời cách lành thánh. Còn xác hai thánh nhân được chôn cất ở nghĩa trang Ad Duos Lauros đường Labicana.
Khi Giáo hội được sống trong an bình, người ta xây cất trên mộ hai Ngài một thánh đường rất nguy nga. Tên Hai thánh nhân đã được nhắc đến trong lễ quy Roma.
(daminhvn.net)


02 Tháng Sáu
Nguồn Gốc Của Sa Mạc
Người Ả Rập giải thích nguồn gốc của sa mạc bằng câu chuyện ngụ ngôn như sau:
"Thiên Chúa đang sáng tạo vũ trụ. Sau khi đã hoàn tất tinh tú, trái đất, biển khơi, sông ngòi, Thiên Chúa bắt tay vào việc tạo dựng con người. Ngài nặn được những thân hình thật đẹp, nhưng đó chỉ là những pho tượng, vì chưa có linh hồn".
Lúc bấy giờ, một tổng lãnh thiên thần mới đề nghị với Thiên Chúa là cần phải tạo dựng linh hồn cho con người. Thế là Thiên Chúa miệt mài giam mình trong phòng thí nghiệm để tác tạo linh hồn cho con người. Các linh hồn vừa mới ra lò còn rất mảnh khảnh và yếu ớt.
Ngài mang các linh hồn tươi tắn ấy xuống trần gian và phân phát cho loài người. Nhưng rủi thay, hôm đó trời đổ mưa, cho nên một số linh hồn chưa đủ cứng cáp đã biến dạng.
Một ngày nọ, một trong những người đã lãnh nhận được linh hồn méo mó, đã buột miệng nói ra một lời dối trá. Tuy chỉ là một lời dối trá không đáng kể, nhưng đó là một lời dối trá đầu tiên xuất hiện trong lịch sử loài người.
Thiên Chúa vô cùng hối hận vì đã không ngăn ngừa được sự dối trá ấy. ngài bèn tập trung loài người lại và tuyên bố: "Từ nay, đừng có một người nào phạm thêm một điều dối trá nữa. Nếu không, cứ mỗi lần có một lời dối trá, ta sẽ cho rơi xuống mặt đất một hạt cát".
Nhiều người nghe lời đe dọa của Thiên Chúa, cười thầm trong lòng. Một hạt cát có đáng kể là bao sánh với màu xanh trùng trùng điệp điệp của cây cỏ. Thành ra, loài người đã không đếm xỉa đến lời cảnh cáo của Thiên Chúa. Người thứ hai thêm một lời nói láo mà vẫn đinh nih đó chỉ là một lời không đáng kể, cũng như thêm một hạt cát trên trái đất cũng không thay đổi được bộ mặt của nó. Cứ thế, người thứ ba, rồi người thứ tư... Người ta nói dối đến độ Thiên Chúa không còn đủ sức để cho cát rơi xuống trên mặt đất nữa... Ngài đành phải dùng đến bàn tay của các thiên thần để cho mưa cát xuống... Không mấy chốc, những đồng cỏ xanh tươi, những vườn cây um tùm biến thành sa mạc khô cằn. Thỉnh thoảng một vài ốc đảo xanh tươi mọc lên, đó là dấu hiệu sự hiện diện của một vài người còn biết tôn trọng sự thật. Nhưng dần dà, ôn dịch dối trá lan tràn khắp nơi, trái đất chỉ còn là một bãi sa mạc.
Tất cả những ai sống trong một xã hội xây dựng trên dối trá, lừa đảo, đố kỵ lẫn nhau đều biểu hiện được thế nào là sa mạc của tình người. Sa mạc nào cũng là biểu hiện của sự chết: chết của tình người, chết của lòng tin tưởng lẫn nhau, chết của hy sinh phục vụ, chết của lòng quảng đại. Tựu trung, dối trá cũng là tên gọi của ích kỷ. Người dối trá là người chỉ biết sống cho mình. Nếu ơn gọi của con người, nếu sự thật của con người là sống yêu thương, sống cho người, thì kẻ dối trá là người chối bỏ chính mình.
Chúa Giêsu đã lên án gắt gao thái độ dối trá. Ngài nói: "Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra". Kẻ dối trá, do đó, tự đặt mình dưới quyền thống trị và điều khiển của ma quỷ.
Mỗi một thái độ dối trá là một hạt cát rơi xuống trên sa mạc của tình người. Nhưng mỗi một hành động của quảng đại, của yêu thương, của phục vụ là một ốc đảo xanh tươi của Chân lý, đó là Chân lý của tình yêu.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét