04/06/2014
Thứ Tư sau Chúa Nhật
VII Phục Sinh
Bài
Ðọc I: Cv 20, 28-38
"Tôi
xin ký thác các ông cho Thiên Chúa, Ðấng có quyền năng kiến tạo và ban cho các
ông được dự phần gia nghiệp".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong
những ngày ấy, Phaolô nói với các trưởng giáo đoàn Êphêxô rằng: "Các ông
hãy thận trọng, và săn sóc đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt các ông làm giám quản
điều khiển giáo đoàn của Chúa đã được Người cứu chuộc bằng máu. Phần tôi, tôi
biết rằng sau khi tôi đi rồi, sẽ có những sói dữ đột nhập giữa các ông, chúng
không dung tha đoàn chiên; và ngay giữa các ông sẽ có những kẻ ăn nói xảo trá nổi
dậy để lôi kéo các môn đồ theo họ. Vì thế, các ông hãy tỉnh thức, và nhớ rằng
trong ba năm trời, đêm ngày tôi không ngừng sa lệ mà khuyên bảo từng người. Và
bây giờ, tôi xin ký thác các ông cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người,
Người là Ðấng có quyền năng kiến tạo và ban cho các ông được dự phần gia nghiệp
làm một với tất cả mọi người đã được thánh hoá. Tôi đã không ham muốn bạc,
vàng, hay y phục của ai hết, như chính các ông đã biết. Những đồ gì tôi và những
kẻ ở với tôi cần dùng, thì chính hai bàn tay này đã làm ra. Bằng mọi cách, tôi
đã chỉ bảo cho các ông rằng phải làm việc như vậy, để nâng đỡ những người yếu
đuối, và ghi nhớ lời Chúa Giêsu đã phán: "Cho thì có phúc hơn là nhận"."
Nói
xong, ngài quỳ xuống cầu nguyện với mọi người. Ai nấy đều khóc lớn tiếng, và ôm
cổ Phaolô mà hôn, họ đau buồn nhất là vì lời ngài vừa nói rằng họ sẽ không còn
thấy mặt ngài nữa. Rồi họ tiễn đưa ngài xuống tàu.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 67, 29-30. 33-35a. 35b-36c
Ðáp: Chư quốc trần
ai, hãy ca khen Thiên Chúa (c. 33a).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Ôi Thiên Chúa, xin tỏ ra quyền năng của Chúa. Ôi Thiên Chúa, xin củng cố sự
việc Chúa đã làm cho chúng con! Vì thánh đài của Chúa ở Giêrusalem, các vua sẽ
tiến dâng Ngài lễ vật. - Ðáp.
2)
Chư quốc trần ai, hãy ca khen Thiên Chúa, hãy xướng lên bài ca mừng Chúa, mừng
Ðấng ngự giá qua cõi trời, cõi trời ngàn thu! Kìa Ngài lên tiếng, tiếng nói quyền
năng: "Các ngươi hãy nhìn biết quyền năng Thiên Chúa". - Ðáp.
3)
Oai nghiêm Ngài chiếu giãi trên Israel, và quyền năng Ngài trên cõi nước mây. Từ
thánh điện của Ngài, Thiên Chúa đáng tôn sợ. Thiên Chúa của Israel, chính Ngài
ban cho dân Ngài được quyền năng và mãnh lực. - Ðáp.
Alleluia:
Mt 28, 19 và 20
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng
các con mọi ngày cho đến tận thế". - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 17, 11b-19
"Ðể
chúng được nên một như Ta".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chí thánh, xin
hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một
như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ
những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con
người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha, và Con
nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con
trong lòng.
"Con
đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế
gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi
thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế
gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin hãy thánh hoá chúng trong chân
lý: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai
chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được
thánh hoá trong chân lý".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Thánh
Trong Chân Lý
Khi
đọc đoạn Phúc Âm trên, chúng ta thấy Chúa Giêsu cầu nguyện nhiều lần và có lần
như thánh Luca kể lại "Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm". Phúc âm đã
kể lại một vài câu kinh ngắn mà Chúa Giêsu cầu nguyện, chỉ có lần này thánh
Gioan kể lại câu kinh rất dài và tỉ mỉ của Chúa Giêsu. Ðiều đặc biệt hơn nữa là
khi nói đến cầu nguyện, chúng ta nghĩ là mình cùng cầu nguyện với Chúa Giêsu và
cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha qua Chúa Giêsu. Còn ở đây, chính Chúa Giêsu cầu
nguyện và cầu nguyện vơí Chúa Cha cho chúng ta, cho các tông đồ và những người
theo Chúa sau này. Phải! Chúa Giêsu cầu nguyện cho các tông đồ lúc bấy giờ, đồng
thời Ngài còn cầu nguyện cho các môn đệ của Ngài trong tương lai. Ngài cũng cầu
nguyện cho chúng ta khi chúng ta nghe những lời dạy của các tông đồ và các Ðấng
kế vị các tông đồ và Ngài cũng cầu nguyện cho tất cả những người theo đạo Chúa
Giêsu. Người nói: "Con không chỉ cầu cho những người này, nhưng còn cho những
ai nhờ họ mà tin vào Con".
Tại
sao Người cầu nguyện cho các Tông đồ? Vì Người sắp về cùng Cha Người, các tông
đồ còn ở lại, các ông đã được Ngài sống ở bên và gìn giữ. Bây giờ Người ra đi,
nhưng họ còn ở lại trên trần gian để tiếp tục sứ mệnh của Người. Người lo cho họ
là phải, vì Người nói rằng: "Bởi họ không thuộc về thế gian này nên thế
gian ghét họ" (Ga 15,18); các tông đồ còn phải bị bắt bớ, nhất là Người e
ngại họ phải sa ngã.
Vậy
Người xin điều gì với Chúa Cha? Ðiều gì làm Ngài bận tâm hơn hết cho các Tông đồ
lúc đó và cho ta sau này? Thì đây Người đã cầu nguyện ba lần:
*
Cầu cho họ được hiệp nhất trong tình thương.
*
Cầu cho họ khỏi bị bách hại.
*
Cầu cho họ được thánh hiến trong sự thật.
-
Thứ nhất: Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các tông đồ được hiệp nhất trong tình
thương "Lạy Cha Chí Thánh, xin gìn giữ chúng nhờ danh Cha mà Cha đã ban
cho Con để chúng nên một như Chúng Ta" (Ga 17,11.21-23). Người muốn cho họ
hiệp nhất trong tình thương để khi nhìn họ, người ta biết được họ là môn đệ của
Người "cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là nếu các
con yêu thương nhau" (Ga 13,35), đó là cách tín nhiệm Người hơn hết.
Tình
thương ấy phải vô điều kiện và cao thượng, tình thương mà Người đã biểu lộ là
yêu đến chết và dám chết cho người mình yêu "không có lòng mến nào lớn hơn
là thí mạng sống cho người mình yêu" (Ga 15,13). Và nếu biết rằng yêu là
dám chết cho người mình yêu, thì ở đây yêu là đưa người mình yêu được hiểu biết
và nhìn nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa, để nhờ đó được hạnh phúc trọn vẹn, tức
là được hưởng sự sống đời đời. Chúa Giêsu cũng nêu gương hiệp nhất để họ noi
theo, đó là gương hiệp nhất giữa Ngài và Thiên Chúa Cha: "Lạy Cha Chí
Thánh, xin hiệp nhất để họ nên một như Chúng Ta là một".
-
Thứ đến: Chúa Giêsu cầu nguyện để gìn giữ cho các Tông đồ và chúng ta sau này
khỏi bị ác hại bởi thần dữ. Nói đến ác thần và sự dữ, Chúa Giêsu không những nhớ
đến chúng ta phải chịu những đau khổ thử thách hay kể cả bị bắt bớ, vì Người đã
biết và nói trước "thế gian ghét anh em, vì Thầy đã chọn anh em và tách
anh em ra khỏi thế gian, vì thế mà thế gian ghét anh em" (Ga 15,18-21). Sống
trong tội lỗi là mất thân tình với Thiên Chúa, là xa rời Thiên Chúa, như vậy là
phá vỡ sự hiệp thông vơí Chúa và trong Chúa.
-
Sau đó, Người cầu cho họ được thánh hiến trong sự thật: "Xin Cha dùng Chân
Lý Cha mà cho họ nên thánh, Lời Cha tức là Chân Lý, Cha đã sai Con xuống thế
làm sao, Con cũng sai họ đến cùng thế gian như vậy. Chính vì họ mà Con đã tự
thánh hiến, ngõ hầu họ cũng được thánh hiến trong Chân Lý" (Ga 17,17-19).
Chữ "thánh hiến" ở đây đa số các nhà bình giải Thánh Kinh hiểu là
thánh hóa và hiến tế Chính Chúa Giêsu hiến thánh chính mình làm lễ vật để kính
tiến lên Chúa Cha.
Người
được thánh hiến, tức là được xức dầu để làm công việc Chúa Cha sai đi là thánh
hóa và cứu chuộc chúng ta, chúng ta cũng được thánh hóa và hiến tế, cũng nhận
ba chức vụ là thánh hóa, tư tế và vương quyền để làm nhiệm vụ thánh hóa chính
mình và thánh hóa tha nhân. Thánh hiến nhờ Sự Thật và trong Sự Thật. Sự Thật đó
là gì? Là Sự Thật của Thiên Chúa, là Cha nhân từ đầy yêu thương, Ngài muốn cho
con cái mình được cứu rỗi. Sự thật chúng ta rất yếu đuối vì bị ảnh hưởng của tội
lỗi, nhưng nếu chúng ta thật lòng nhìn nhận và tôn thờ Thiên Chúa thì chúng ta
sẽ lãnh nhận được ơn Chúa cứu chuộc.
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần là thần Chân Lý và Sự Thật ở với
chúng con luôn mãi, xin Chúa hãy sai Thánh Thần đến và ở trong chúng con, ân
ban cho chúng con ba điều mà Chúa Giêsu đã dạy là xin ban cho con, cho tất cả mọi
thành phần trong Giáo Hội được gìn giữ trong tình thương, được hiệp nhất trong
Thánh Thần và được thánh hiến trong Sự Thật. Amen.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần VII PS
Bài đọc: Acts 20:28-38: Jn
17:11-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nỗi quan tâm của mục
tử khi phải rời bỏ đoàn chiên của mình.
Trong
Phúc Âm, Chúa Giêsu đã từng phân biệt người mục tử tốt lành khác với người chăn
chiên. Các Bài Đọc hôm nay đi xa hơn, khi nói lên mối quan tâm của những người
mục tử tốt lành lo lắng cho đoàn chiên khi ông phải xa cách đoàn chiên mình.
Người mục tử tốt lành không những lo chăm sóc, dạy dỗ, và bảo vệ đoàn chiên khi
còn sống; mà còn kiếm người bảo vệ và săn sóc chiên khi biết mình sắp qua đời.
Người chăn chiên có tốt lắm cũng chỉ săn sóc và bảo vệ chiên khi còn sống, ông
không quan tâm đến đoàn chiên khi phải từ giã cuộc đời.
Trong
Bài Đọc I, Thánh Phaolô giao đoàn chiên mình cho những kỳ mục tại Ephesô. Ngài
muốn họ hãy chăm sóc đòan chiên một cách vui vẻ và vô vị lợi, bảo vệ họ khỏi những
nanh vuốt của quỉ dữ và của thế gian. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cầu nguyện và đặt
đoàn chiên dưới sự che chở của Chúa Cha. Ngài cầu xin Chúa cha thánh hiến các
môn đệ của Ngài trong sự thật, và gìn giữ họ khỏi thế gian và ác thần.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Lời căn dặn của Phaolô cho các kỳ mục tại Ephesus trước khi về Jerusalem.
1.1/
Họ phải ý thức bổn phận cao quí và quan trọng của họ: Đó là họ phải bảo
vệ món quà vô giá là đức tin của họ và của đoàn chiên. Phaolô khuyên nhủ họ:
"Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần
đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội
Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình." Để bảo vệ đức
tin, Phaolô nêu bật hai điều quan trọng hơn cả:
(1)
Họ phải bảo vệ sự thật giữa bao điều giả trá: Phaolô biết rõ tầm quan trọng
của việc biết sự thật, và sự nguy hiểm của bao điều giả trá, từ kinh nghiệm mục
vụ của mình. Ông cảnh giác giới lãnh đạo: "Phần tôi, tôi biết rằng khi tôi
đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đoàn chiên.
Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai
lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng." Đoàn chiên còn ngây thơ, non dại;
chúng chưa biết tất cả sự thật. Vì thế, bổn phận của các mục tử là không ngừng
dạy dỗ đòan chiên để chúng biết nhận ra sự thật giữa bao sự gian xảo.
(2)
Họ phải canh thức và khuyên nhủ: Các con chiên không luôn nghe tiếng chủ: có con ham
chơi rồi đi lạc, có con cứng đầu chống lại cần phải sửa phạt; nhưng người mục tử
tốt lành không bao giờ bỏ rơi bất cứ con nào. Vì thế, việc chăm sóc đòan chiên
đòi người mục tử phải để ý tới từng cá nhân khi có thể, như Phaolô trưng dẫn
kinh nghiệm của mình: "Vì vậy anh em phải canh thức, và nhớ rằng, suốt ba
năm, ngày đêm tôi đã không ngừng khuyên bảo mỗi người trong anh em, lắm khi phải
rơi lệ."
1.2/
Những điều quan trọng khác:
(1)
Sức mạnh của Lời Chúa: Nhận
ra sự khẩn thiết của việc biết sự thật như đã nêu trên, Phaolô chỉ cho họ biết
kho tàng khôn ngoan của Lời Chúa: "Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho
Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, lời có sức xây dựng và ban cho anh em
được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến."
Lãnh đạo khôn ngoan cần đặt căn bản trên Lời Chúa, và xây dựng trên niềm tin
vào Thiên Chúa.
(2)
Phần thưởng của người mục tử không dựa trên những lợi lộc vật chất: Khác với những nhà
lãnh đạo thế gian, họ quan tâm đến địa vị, uy quyền, và những lợi lộc vật chất;
người lãnh đạo dân Chúa phải biết hy sinh cách vô vị lợi, và cố gắng sinh sống
bằng bàn tay của mình, như Phaolô đã làm: "Vàng bạc hay quần áo của bất cứ
ai, tôi đã chẳng ham. Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho
những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp." Dĩ nhiên, đó là điều
lý tưởng; nhưng như Chúa Giêsu dạy và Phaolô nói sau này: "thợ làm vườn
đáng được trả công." Hơn nữa, việc khai mở và nuôi dưỡng đức tin phải được
ưu tiên hơn việc kiếm kế sinh sống.
(3)
Hãy lo lắng cho những người yếu kém: "Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ
những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa
Giêsu đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận." Trong đoàn chiên, sức mạnh và
khả năng của mỗi con chiên khác nhau; người mục tử cần chú ý hơn đến những con
chiên yếu ớt, bệnh tật.
Khi
đã khuyên bảo xong, ông Phaolô cùng với tất cả các anh em quỳ gối xuống cầu
nguyện. Ai nấy oà lên khóc và ôm cổ ông mà hôn. Họ đau đớn nhất vì lời ông vừa
nói là họ sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu.
2/
Phúc Âm:
Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.
2.1/
Chúa Giêsu biết sự nguy hiểm cho các môn đệ khi sống trong thế gian.
Chúa
Giêsu biết đã đến giờ Ngài phải bỏ thế gian, nên Ngài tâm sự với Chúa Cha:
"Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần
con, con đến cùng Cha." Giờ Chúa Giêsu phải rời bỏ các môn đệ, cũng là giờ
mà các ông phải đương đầu với quyền lực của thế gian một mình. Ngài biết hậu quả
sẽ nghiêm trọng chừng nào, như Ngài đã từng nói với các môn đệ: "Họ sẽ
tiêu diệt chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác." Nhìn lại kết quả việc chăn
chiên của mình, Chúa Giêsu hãnh diện nói với Chúa Cha: "Khi còn ở với họ,
con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và
không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh
Thánh."
Thế
gian sẽ ghét bỏ và truy tố các môn đệ như họ sắp ghét bỏ và truy tố Chúa Giêsu.
Lý do là vì cả Chúa Giêsu và các môn đệ không thuộc về thế gian. Ngài muốn cho
các ông biết rõ điều này; để các ông không ngạc nhiên khi điều đó xảy đến.
2.2/
Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ: Biết những nguy hiểm sẽ xảy đến cho các môn đệ như
thế, Ngài cầu xin Chúa Cha ban cho các ông những điều quan trọng sau:
(1)
Xin Chúa Cha bảo vệ các môn đệ khỏi ác thần: "Con không xin Cha cất họ
khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế
gian cũng như con đây không thuộc về thế gian." Chúa Giêsu không xin
"cất các môn đệ khỏi thế gian;" nhưng Ngài xin "gìn giữ họ khỏi
ác thần." Các ông phải ở lại thế gian để tiếp tục sứ vụ rao giảng của
Ngài.
(2)
Xin Chúa Cha thánh hiến các môn đệ trong sự thật: Giống như Phaolô,
Chúa Giêsu biết nguy hiểm của sự sai lạc: "Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến
họ. Lời Cha là sự thật." Sự thật đây là Lời Kinh Thánh và những lời tâm
huyết Chúa Giêsu vừa dạy dỗ họ. Ngài biết mọi hành động sai bắt đầu từ sự hiểu
biết sai; vì thế, hiểu biết sự thật là điều không thể thiếu cho các môn đệ của
Chúa.
Cả
hai điều cầu xin này đều được Chúa Cha ban cho các môn đệ qua việc ban Thánh Thần.
Ngài là thần sự thật, Ngài sẽ giúp các ông nhận ra sự thật và sẽ hướng dẫn các
ông tới tất cả sự thật. Ngài cũng là người bảo vệ và giúp các ông có sức mạnh
làm chứng nhân cho Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Mỗi người chúng ta đều được kêu gọi để trở thành mục tử nhân lành: hoặc một số
người con như bậc làm cha mẹ, hoặc một số đông như bậc linh mục, giám mục.
Chúng ta phải lo cho đoàn chiên không chỉ lúc còn sống, mà còn cả khi chúng ta
phải rời bỏ họ.
-
Người mục tử nhân lành phải xây dựng đời mình trên đức tin và Lời Chúa. Họ phải
làm hết cách sao cho đoàn chiên có một đức tin vững mạnh và hiểu biết Lời Chúa
cách sâu xa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM TUẦN 7 PHỤC SINH
Ga 17,11b-19
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu tiếp tục cầu nguyện cho môn đệ mình :
Đây là phần thứ hai của Kinh nguyện Tư tế. Trong
phần thứ nhất mà chúng ta đọc ngày hôm qua (17,1-11a), Chúa Giêsu cầu nguyện
cho chính bản thân Ngài, xin Chúa Cha tôn vinh Ngài. Sang phần thứ hai, phần
của hôm nay, Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ của Ngài. Phải hiểu chữ
"môn đệ" ở đây theo nghĩa hẹp, nghĩa là không phải tất cả những kẻ
tin Ngài, mà là một nhóm cán bộ nồng cốt của Ngài, tức nhóm 12 và nhóm 72. Môn
đệ của Chúa Giêsu hôm nay là các Giám mục, Linh mục và tu sĩ.
Chúa Giêsu cầu cho những người này :
- "Xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ
Cha đã ban cho con, để chúng được nên một"
- "để chúng được đầy sự vui mừng của Con
trong lòng"
- "Xin gìn giữ chúng khỏi sự dữ"
- "Xin hãy thánh hóa chúng trong sự
thật"
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu biết các môn đệ của mình ở trong
một hoàn cảnh rất đặc biệt và tế nhị :
- Họ phải sống giữa thế gian. Mà thế gian này là
một thế gian thù nghịch với Chúa Giêsu và các môn đệ của Chúa Giêsu ; thế gian
này đã ghét Chúa Giêsu nên cũng ghét các môn đệ của Ngài ; thế gian này còn rất
xảo quyệt, luôn tìm cách quyến rũ để các môn đệ Chúa Giêsu đi lệch con đường
của Chúa Giêsu mà ngã sang phía thế gian.
- Ở trong một thế gian như thế, người môn đệ
thường xuyên đứng trước 2 cám dỗ : một là cám dỗ trốn tránh, xa lánh thế gian ;
hai là cám dỗ thỏa hiệp với thế gian. Nhưng xa lánh thì làm sao chu toàn sứ
mạng thánh hóa thế gian ; còn thỏa hiệp với thế gian thì đánh mất căn tính của
mình và cũng đánh mất sứ mạng của mình.
- Trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu đã cầu xin
cho các môn đệ mình 2 điều : một là sự hiệp nhất, hai là thánh hiến. Đây chính
là 2 điều quan trọng để chúng ta tuy sống giữa thế gian mà không thưộc về thế
gian.
a/ Điều thứ nhất, hiệp nhất : Kinh nghiệm cho
thấy Linh mục tu sĩ nào không thân thiết với anh chị em cùng lý tưởng với mình,
không gắn bó với Giáo Hội và với cộng đoàn của mình, thì Linh mục tu sĩ ấy dễ
sa ngã hơn.
b/ Điều thứ hai, thánh hiến : Chỉ một mình Thiên
Chúa là đấng Thánh. Thánh hiến ai là làm cho người đó hoàn toàn thưộc về Chúa.
Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha lấy Lời Chúa mà làm cho các môn đệ thuộc về Chúa
một cách trọn vẹn. Ai đã trọn vẹn thuộc về Chúa thì cho dù người đó có sống
giữa bao nguy hiểm quyến rũ của thế gian thì cũng không hề hấn gì. Người ấy như
sen trong bùn, như ánh sáng chiếu trong đêm tối, như men vùi trong thúng bột.
Người ấy vừa luôn trung thành với Chúa của mình, vừa chu toàn sứ mạng thánh hoá
thế gian.
3. "Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian,
nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần"
Khi đọc câu Lời Chúa này, tôi nhớ lại kinh nghiệm
của một anh trong nhóm. Vì không thể từ chối, anh đành phải đi tới một nhà hàng
không được "trong ánh sáng" cho lắm. Mỗi người vào bàn và một người
đều có một cô "phục vụ" bên cạnh. Thoạt đầu, anh muốn tránh né ;
nhưng vì nghĩ rằng thái độ có thể làm cho cô ấy tủi, nên anh cố gắng làm một
điều gì đó tốt hơn. sau khi hỏi thăm về gia cảnh của cô, anh mới hỏi :
"Tại sao cô phải làm nghề này ?" Cô gái thinh lặng môt lát rồi bật
khóc. Mọi người nhìn anh khiến anh phải lúng túng... Trước khi anh ra về, cô
nói nhỏ : "Có lẽ em sẽ không tiếp tục sống nghề này được ! ".
Lắm khi tôi xa lánh những người "xấu",
Những cái "phàm tục", trong khi Chúa Giê-su đã không xin cha cất tôi
khỏi thế gian. Lắm khi tôi lại mải mê tìm kiếm "danh, lợi, thú", và
vì sợ mất, tôi đã không dám sống như lời Chúa đòi hỏi.
Lạy Chúa, xin giúp con sống thanh thoát. để nhờ
được tự do trong Chúa, con tích cực xây dựng cuộc sống trần gian theo như Chúa
muốn. (Epphata)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
04/06/14 THỨ TƯ ĐẦU
THÁNG TUẦN 7 PS
Ga 17,11-19
Ga 17,11-19
Suy niệm: Chúa
Giê-su nhiều lần dạy các môn đệ cầu nguyện và Ngài quả quyết lời họ cầu xin
chắc chắn sẽ được Chúa đáp nhận. Chúng ta vẫn nghĩ Chúa dạy chúng ta cầu xin
như thế để đáp ứng nhu cầu cơm ăn áo mặc thường ngày. Nhưng ít khi chúng ta
biết rằng lời cầu nguyện tha thiết nhất của Chúa là lời nguyện hiến tế, là lời
cầu nguyện cho công trình cứu độ nhân loại được hoàn thành. Ngoài việc khẩn nài
Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ cho nhân loại, Người còn muốn hiến dâng chính
mình để thực hiện điều mình khẩn xin đó. Chúa Giê-su hiến dâng chính mình để
cầu xin Chúa Cha cứu độ con người. Quả vậy, cả cuộc sống của Chúa Giê-su là lời
cầu nguyện hiến tế dâng lên Chúa Cha. Lời cầu nguyện đạt đến đỉnh cao và chiều
sâu của nó ở nơi tiếng kêu: “Cha ơi, sao cha bỏ rơi con” ở trên thập giá. Một
tình yêu khẩn nài, đã được Chúa Cha đáp lời bằng sự phục sinh vinh hiển và ơn
cứu độ cho nhân loại.
Mời Bạn: Lời
cầu nguyện hiến tế đó vẫn đang tiếp diễn nơi thân hình mầu nhiệm của Chúa Ki-tô
là Giáo Hội. Bạn có thường xuyên cầu nguyện và để cho Thánh Thần của Chúa
Giê-su cầu nguyện trong lòng bạn không?
Sống Lời Chúa: Mỗi
ngày dành ít phút để xin Chúa giúp tôi thánh hóa bản thân. Xin Chúa sửa chữa
một điểm nào đó trong con người tôi để tôi sống xứng đáng hơn với phẩm cách
người con cái Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã hiến dâng chính mình để khẩn nài ơn tha
thứ cho chúng con, xin thánh hiến con, để càng ngày chúng con càng thuộc về
Chúa hơn. Amen.
Xin Cha gìn giữ họ
Đời người Kitô hữu chẳng an toàn, vì họ được sai
vào thế gian. Thế gian đầy bóng tối, dối trá, hận thù, chính là nơi họ phải đến,
phải đằm mình vào, để biến đổi nó thành ánh sáng, sự thật, tình yêu.
Suy niệm:
Chúng ta đang sống trong một
thế giới tự nhận là khoa học kỹ thuật,
trong đó dường như Thiên
Chúa vắng mặt,
và Quỷ dữ, Ác thần, Satan
cũng không có chỗ.
Thật ra, cả Thiên Chúa lẫn
Satan đều có mặt trong thế giới này.
Con người sống trong thế
giới là chịu sự lôi kéo của cả hai.
Khi dâng
lời cầu nguyện lúc sắp trở về với Cha,
Đức Giêsu
ý thức hơn khi nào hết quyền lực có thật của quỷ dữ
đang tác
động trên các môn đệ còn sống ở trần gian.
Chính vì thế Ngài khẩn khoản
xin Cha gìn giữ họ khỏi Ác thần (c. 15).
“Khi còn ở
với họ, Con đã gìn giữ họ… Con đã canh giữ họ…” (c. 12).
Gìn giữ
các môn đệ là việc Đức Giêsu đã làm trong suốt sứ vụ,
và Ngài đã
không để ai trong họ phải hư mất, trừ Giuđa.
Những sói
dữ bao giờ vẫn có, chúng khuấy phá đàn chiên.
Mục tử
Giêsu đã không để ai cướp được chiên khỏi tay mình,
và trong
cuộc chiến đấu này, Ngài đã dám hy sinh mạng sống (Ga 10, 11).
Bây giờ Ngài xin Cha tiếp
tục gìn giữ các môn đệ (c. 11b),
là đoàn chiên của Cha mà Cha
đã ban cho Ngài chăm sóc.
Vì Thiên Chúa là Cha chí
thánh đối với Đức Giêsu (c. 11b),
nên Cha có khả năng làm cho
các môn đệ nên thánh.
Thánh thiện là thuộc tính
của Thiên Chúa Cha,
nhưng Đức Giêsu cũng được
gọi là Đấng Thánh của Thiên Chúa (Ga 6, 69),
và Đấng Phù Trợ được gọi là
Thánh Thần (Ga 14, 26).
Thánh thiện là nét chung của
Ba Ngôi, tách biệt Ba Ngôi khỏi thế giới,
dù thế giới vẫn là đối tượng
để Ba Ngôi luôn cùng nhau hướng về.
Ba Ngôi vẫn muốn chia sẻ sự
thánh thiện của mình cho thế giới.
“Các ngươi phải nên thánh vì
Ta là Đấng Thánh” (Lv 11, 44).
Đức Giêsu xin Cha thánh hóa
các môn đệ (c. 17),
nhờ Thánh Thần mà Cha sắp
ban xuống trên họ.
Làm cho các môn đệ nên thánh
chính là tách biệt họ ra khỏi thế gian,
với lối suy nghĩ và hành
động, với những giá trị riêng của nó.
Thánh hóa môn đệ chính là
làm cho họ không thuộc về thế gian nữa,
để như Đức Giêsu, họ thuộc
về Cha trọn vẹn (c. 16).
Nhưng tách biệt khỏi thế
gian lại không có nghĩa là cất họ khỏi đó (c. 15),
và giữ họ an toàn trong tháp
ngà bảo đảm.
Đời người Kitô hữu chẳng an
toàn, vì họ được sai vào thế gian (c.18).
Thế gian đầy bóng tối, dối
trá, hận thù, chính là nơi họ phải đến,
phải đằm mình vào, để biến
đổi nó thành ánh sáng, sự thật, tình yêu.
“Các con là muối của trái
đất, là ánh sáng của thế gian” (Mt 5, 13).
Được thánh hóa, được tách
khỏi thế gian, chính là để được sai vào đó.
Nếu không được thánh hóa,
không thuộc về Chúa, thì khi được sai vào,
ta sẽ chẳng biến đổi được
thế gian, và sẽ bị nó nuốt chửng.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù
không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương
như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy niệm
Đoạn Tin mừng hôm nay nhắc
lại rất nhiều lần từ ngữ "gìn giữ" và "thánh hoá".
Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ. Ngài xin Chúa Cha gìn giữ và thánh hoá
các ông.
Chúa Giêsu đã gìn giữ các
môn đệ. Bây giờ, sắp bước vào cuộc thương khó và trở về với Thiên Chúa Cha,
Ngài xin Chúa Cha tiếp tục gìn giữ họ.
Ngài xin Chúa Cha gìn giữ
các môn đệ trong "danh của Chúa", nghĩa là gìn giữ họ luôn
sống trung thành, sống trong tương quan mật thiết với Thiên Chúa dù cho họ gặp
gian nan thử thách.
Ngài xin Chúa Cha gìn giữ
các môn đệ khỏi sự dữ vì các ông đang còn sống giữa "thế gian",
mà "thế gian" luôn thù ghét những ai thuộc về Đức Kitô.
Ngài cũng xin Chúa Cha thánh
hoá các môn đệ trong chân lý, nghĩa là trong lời của Chúa vì "lời Cha
là Chân Lý", để các ông luôn sống trong chân lý và tiếp tục rao truyền
chân lý.
Thật cảm động trước tình yêu
mà Chúa Giêsu dành cho các môn đệ. Ngài ưu tư lo lắng cho họ. Ngài dạy dỗ họ
cặn kẽ và cầu xin Chúa Cha tiếp tục gìn giữ họ.
Hôm nay, Chúa tiếp tục gìn
giữ và thánh hoá mỗi người chúng ta:
Chúa luôn gìn giữ chúng ta
trong ân nghĩa của Chúa, sống giữa thế gian mà không thuộc về những thói hư tật
xấu của thế gian. Ngài gìn giữ chúng ta qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Chúa không ngừng thánh hoá
chúng ta bằng Lời của Ngài để mỗi ngày chúng ta trở nên tốt hơn.
Xin Chúa giúp chúng con biết
sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, sống theo lời của Chúa để mỗi ngày
chúng con biết tránh xa những sự sống và luôn hướng đến hoàn thiện mình mỗi
ngày. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4
THÁNG SÁU
Một
Quá Trình Suy Tư Chậm Rãi
Chúng
ta có cơ sở Thánh Kinh để xem con người như một ngã vị duy nhất, và đồng thời
như một luỡng diện gồm hồn và xác. Quan điểm này đã được trình bày trong toàn bộ
truyền thống và trong giáo huấn của Giáo Hội. Giáo huấn này bao gồm không chỉ
Thánh Kinh mà cả những chú giải thần học về Thánh Kinh nữa.
Sự
nhận hiểu này đã phát triển dưới ảnh hưởng của một số trường phái tư tưởng Hi lạp
– trong đó có trường phái Aristôte. Một tiến trình suy tư chậm rãi đã đạt đến một
mức tròn đầy nơi các tác phẩm của Thánh Tôma Aquinô. Chúng ta nhận thấy điều
này trong các tuyên bố về con người tại Công Đồng Vienne vào năm 1312. Trong
các văn kiện Công Đồng, linh hồn được gọi là “mô thức” của thân xác: “mô thức của
thân xác con người, bởi chính nó và một cách thiết yếu” (DS 902). “Mô thức” này
ấn định chính bản chất của hữu thể con người và nó có bản tính thiêng liêng. Xa
hơn nữa, mô thức thiêng liêng ấy của con người – tức linh hồn – thì bất tử. Điều
này đã trở thành giáo huấn chính thức của Công Đồng La-tê-ra-nô V năm 1513:
“Linh hồn thì bất tử, trái lại, thân xác thì khả diệt” (DS 1440).
Trường
phái suy tư do Thánh Tôma Aquinô đặt nền móng cũng dạy rằng do bởi tính hiệp nhất
trong bản thể giữa xác và hồn, nên sau khi chết linh hồn mãnh liệt hướng đến
tái hiệp nhất với thân xác. Và quan điểm thần học này được củng cố bởi chân lý
mạc khải về sự phục sinh của thân xác.
Ngay
cả dù các thuật ngữ triết học mà chúng ta dùng để diễn tả tính duy nhất và tính
phức hợp (hay lưỡng diện) của con người có thể bị chất vấn lúc này lúc khác,
thì tính duy nhất của ngôi vị con người và tính lưỡng diện (tinh thần – xác thể)
của nó cũng hoàn toàn có nền tảng trong Thánh Kinh và trong truyền thống. Người
ta thường cho rằng con người là “hình ảnh của Thiên Chúa” bởi vì con người có
khía cạnh “hồn”. Tuy nhiên, giáo huấn truyền thống không hề loại trừ quan điểm
rằng thân xác cũng tham dự vào phẩm giá “hình ảnh của Thiên Chúa” – cũng như nó
tham dự vào trọn vẹn phẩm giá của ngôi vị xét như cả tinh thần lẫn xác thể.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
04-6
Cv
20, 28-38; Ga 17, 11b-19.
LỜI
SUY NIỆM: “Vì họ, con xin thánh hiến mình con, để nhờ sự thật, họ
cũng được thánh hiến.”
Trong
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo ở điều 438 cho chúng ta biết về sự Thánh
Hiến của Chúa Giêsu: “Việc được thánh hiến làm Đấng Messia của Chúa Giêsu biểu
lộ sứ vụ thần linh của Người. “Trong danh hiệu ‘Kitô’ bao gồm Đấng xức dầu, Đấng
được xức dầu, và chính việc xức dầu, Đấng xức dầu là Chúa Cha, Đấng được xức dầu
là Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần, Đấng là Việc xức dầu” Việc xức dầu thánh hiến
vĩnh cửu của Chúa Giêsu được mạc khải trong cuộc đời trần thế của Người khi Người
chịu phép Rửa bởi ông Gioan, khi “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng
mà xức dầu tấn phong Người”, để Người được tỏ ra cho dân Israel” trong tư cách
là Đấng Mêssia của Thiên Chúa. Những việc Người làm và những lời Người dạy giúp
chúng ta nhận biết Người là “Đấng Thánh của Thiên Chúa.”
Còn
trong mục 901 “Sự thánh hiến giáo dân” giúp cho người giáo dân được tham dự vào
nhiệm vụ tư tế của Đức Giêsu: “Các giáo dân, vì được thánh hiến cho Đức Kitô và
được xức dầu bằng Chúa Thánh Thần, được kêu gọi và được chuẩn bị cách kỳ diệu để
Thần Khí luôn mang lại những hoa trái dồi dào hơn nơi họ. Thật vậy, tất cả công
việc của họ, những lời cầu nguyện và việc dấn thân làm tông đồ, đời sống hôn
nhân và gia đình, việc lao động hằng ngày, việc thư giản tinh thần và thể xác nếu
được thực hiện trong Thần Khí, và cả những khó khăn trong cuộc sống nếu được chịu
đựng cách kiên nhẫn, thì tất cả đều trở nên những hiến lễ thiêng liêng đẹp lòng
Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô, những hiến lễ đó được dâng lên Chúa Cha một
cách rất thành kính, khi cử hành Thánh lễ, cùng với lễ vật là Mình Thánh Chúa.
Như vậy, với tư cách là những người tôn thờ bằng hành động một cách thánh thiện
ở khắp nơi cùng dâng chính trần gian lên Thiên Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúa đã cho mọi thành viên trong gia đình biết được: Chúa thánh hiến
vì chúng con. Xin cho chúng con luôn sống trong Thần Khí để tự hiến mình cho
nhau vì Chúa.
Mạnh
Phương
04
Tháng Sáu
Bóng Tối
Raoul
Follereau đã thuật lại một câu chuyện về một người phong cùi như sau: Từ nhiều
năm qua, ông ta sống chui rúc trong căn lều tối tăm của ông. Xa tránh ánh sáng,
đôi mắt ông đã trở thành mù lòa. Bóng tối trên đôi mắt đã đành, ông còn tự giam
hãm bóng tối của tâm hồn. Người đàn ông như đang tự chôn vùi mình trong chính
đáy mồ của ông... Mỗi ngày, có một nữ tu đến để tẩy rửa và băng bó các vết
thương cho ông. Ông chấp nhận cho người nữ tu săn sóc, vì nghĩ rằng ít nhất người
nữ tu cũng nở được nụ cười mãn nguyện.
Ngày
tôi đến thăm, người nữ tu cho tôi biết rằng người đàn ông đã không bao giờ muốn
ra khỏi căn lều tối tăm của mình... Tôi tiến lại gần con người khốn khổ ấy và
đưa cánh tay ra mời mọc. Tôi nắm lấy cánh tay của ông và dìu ông đứng dậy.
Chúng tôi ra khỏi căn lều tăm tối.. Vừa đến bên cánh cửa nơi ánh sáng mặt trời
chiếu xuyên qua, người đàn ông dã có một thái độ mà mãi mãi tôi không bao giờ
có thể quên được. Ra khỏi căn lều, đứng giữa ánh sáng, ông hô lên một tiếng kêu
lớn: "Tôi thấy!"
Kể
từ khi bóng tối của bệnh phong cùi ụp phủ xuống trên cuộc đời, thì đây là lần đầu
tiên, người bệnh mới cảm nhận thực sự có ánh sáng xung quanh mình. Lấy tất cả sức
lực còn lại, người đàn ông thét lên với cây cỏ, với núi non, với trời cao, với
tất cả mọi người: Tôi thấy! Tôi thấy!
Có
những người tự giam mình trong bóng tối. Có những người bị người khác đầy ải
vào trong bóng tối...
Vô
tình hay hữu ý, có lẽ chúng ta cũng đã xô đẩy không biết bao nhiêu người vào
trong bóng tối. Một cuộc sống thiếu chứng tá, một khước từ giúp đỡ: đó có thể
là những hành động xô đẩy người khác rơi vào bóng tối, chúng ta cũng tự giam
mình vào bóng tối hay giảm bớt cường độ ánh sáng trong chúng ta...
"Các
con là ánh sáng thế gian". Lời của Chúa Giêng nói lên bản chất của người
Khô. Người Kitô chỉ là Khô khi họ là ánh sáng thế gian... Ánh sáng không thể
sáng soi nữa, ánh sáng ấy sẽ trở thành tăm tối.
Hãy
chiếu ánh sáng bằng những việc làm của ánh sáng. Một cuộc sống đầy gương sáng,
một lờ nói nâng đỡ ủi an, một nụ cười thông cảm, một bàn tay đưa ra để dìu dắt,
để đồng hành: đó là bao nhiêu việc làm của ánh sáng mà bao nhiêu người đang chờ
đợi nơi chúng ta. Và chúng ta cũng tin rằng, một ánh lửa càng được chia sẻ, thì
càng sáng lên...
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét