Trang

Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014

10-6-2014 : THỨ BA TUẦN X MÙA THƯỜNG NIÊN

10/06/2014
Thứ Ba sau Chúa Nhật 10 Quanh Năm


Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 17, 7-16
"Vò bột không cạn và bình dầu không giảm như lời Chúa đã dùng lời Êlia mà phán".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, giòng suối nơi Êlia ẩn náu đã cạn, vì trong xứ không mưa. Bấy giờ Thiên Chúa phán cùng Êlia rằng: "Hãy chỗi dậy, đi Sarephta thuộc miền Siđon và ở lại đó: Ta đã truyền cho một quả phụ nuôi dưỡng ngươi". Ông liền lên đường đi Sarephta. Khi ông đến trước cửa thành, ông thấy một quả phụ đang lượm củi; ông gọi bà và nói với bà rằng: "Xin đem cho tôi một ít nước trong bình để tôi uống". Ðương lúc bà đi lấy nước, ông gọi lại mà nói: "Xin cũng mang cho tôi một miếng bánh". Bà thưa: "Có Chúa là Thiên Chúa hằng sống chứng giám: Tôi không có sẵn bánh, tôi chỉ còn một nắm bột trong hũ với một ít dầu trong bình. Này đây tôi lượm vài que củi về nấu cho tôi và con trai tôi ăn, rồi chết thôi". Êlia trả lời bà rằng: "Bà đừng lo, cứ đi và làm như bà đã nói. Nhưng, với chút bột ấy, trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem ra đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và con trai bà. Vì Chúa là Thiên Chúa Israel truyền rằng: "Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi, cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất". Bà đi làm theo lời ông Êlia; chính ông và bà cùng cả nhà đều đủ ăn; từ ngày đó, hũ bột không cạn và bình dầu không vơi, như lời Chúa đã dùng Êlia mà phán.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 4, 2-3. 4-5. 7-8
Ðáp: Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con (c. 7b).
Xướng: 1) Khi con cầu, nguyện Chúa nghe, lạy Chúa công bình của con, Chúa đã giải thoát con trong cơn khốn khó, nguyện xót thương và nghe tiếng con cầu. Người quyền thế, các ông cứng lòng tới bao giờ nữa? Tại sao say đắm bả phù hoa và kiếm chuyện sai ngoa? - Ðáp.
2) Nên biết rằng Chúa biệt đãi thánh nhân Ngài, Chúa sẽ nghe tôi khi tôi cầu khẩn Chúa. Hãy run lên và thôi phạm tội, hãy hồi tâm nghĩ lại trên giường nằm, và hãy lặng thinh. - Ðáp.
3) Nhiều người nói: "Ai chỉ cho ta thấy điều thiện hảo?" Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con. Chúa đã gieo vào lòng con niềm vui, vui hơn tụi kia khi chúng tràn đầy lúa rượu. - Ðáp.
  
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 5, 13-16
"Các con là sự sáng thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Muối và Ánh Sáng

Muối là để làm gia vị, đèn là để soi sáng. Với hai hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Ngay từ đầu lịch sử của mình, Giáo Hội đã ý thức về sứ mệnh ấy. Giáo Hội là muối và ánh sáng của thế giới, bởi vì là Thân Thể của Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Giáo Hội luôn xác tín rằng tất cả chân lý về Thiên Chúa và về con người đã được Chúa Giêsu mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội. Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội bày tỏ cho nhân loại biết con người là ai? Con người bởi đâu mà đến? Con người sẽ đi về đâu? Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội chứng tỏ cho con người cùng đích của cuộc sống, đó là sống với Thiên Chúa.
Các tín hữu tiên khởi đã xác tín về điều đó, cuộc sống bác ái yêu thương của họ đã là muối và ánh sáng cho nhiều người. Những tiến bộ về khoa học, văn hóa, kinh tế và ngay cả chính trị tại Âu Châu thời Trung Cổ quả là thể hiện vai trò muối và ánh sáng của Giáo Hội. Không ai có thể vai trò hạt nhân về phát triển của các Tu viện Công giáo. Văn minh Tây phương, dù muốn hay không, vẫn là văn minh Kitô giáo. Những giá trị tinh thần mà nhân loại đạt được ngày nay, như tự do, dân chủ, nhân quyền, đều là những giá trị xuất phát từ Kitô giáo. Qua những giá trị tinh thần ấy, chúng ta có thể nói rằng muối của Giáo Hội đã ướp được phần lớn trái đất, ánh sáng của Giáo Hội đã chiếu soi vào những góc tối tăm của tâm hồn.
Tuy nhiên, hình ảnh muối và ánh sáng vẫn luôn gợi lên cho chúng ta cái tư thế nhỏ bé của Giáo Hội. Người ta chỉ cần một lượng nhỏ muối để ướp một lượng lớn thực phẩm, một cái đèn nhỏ cũng đủ để chiếu dọi một khoảng không gian lớn. Phải chăng với hình ảnh của muối và ánh sáng, Chúa Giêsu không muốn ám chỉ tới cái vị thế đàn chiên nhỏ bé là Giáo Hội? Ðã qua hơn 2,000 năm lịch sử, các môn đệ Chúa Giêsu đã đi khắp thế giới để rao giảng cho mọi dân tộc. Nếu xét về con số, thì thực tế không thể chối cãi là hơn 2/3 nhân loại vẫn chưa trở thành môn đệ Chúa Giêsu, và càng ngày xem chừng những người mang danh hiệu Kitô càng nhỏ lại, nếu so với những người ngoài Kitô giáo.
Muối và đèn soi vốn là những hình ảnh gợi lên cho chúng ta cái tư thế thiểu số của Giáo Hội trong trần thế, nhưng lại mời gọi chúng ta xác tín về sứ mệnh vô cùng to tát của Giáo Hội. Bằng mọi giá, Giáo Hội phải ướp mặn thế giới, phải chiếu soi trần gian bằng chính chân lý cao cả mà Chúa Giêsu đã mạc khải và ủy thác cho mình. Cả vận mệnh nhân loại tùy thuộc sứ mệnh của Giáo Hội, do đó không có lý do nào cho phép Giáo Hội xao lãng sứ mệnh ấy. Thánh Phaolô đã nói lên sự khẩn thiết của sứ mệnh ấy như sau: "Gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, cũng phải luôn luôn rao giảng Tin Mừng của Chúa".
Ðã có một lúc Giáo Hội gặp nhiều dễ dàng và thuận tiện trong việc thực thi sứ mệnh: cả một quốc gia, cả một lục địa đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thế nhưng, cũng có biết bao thời kỳ Giáo Hội bị khước từ, bị bách hại, đây chính là lúc không thuận tiện mà thánh Phaolô nói đến và cũng là lúc Giáo Hội càng phải rao giảng mạnh mẽ và kiên quyết hơn. Chính vì là thiểu số, và là một thiểu số bị loại trừ và bách hại, Giáo Hội lại càng phải ý thức hơn về vai trò là muối và ánh sáng của mình.
Một trong những nguy cơ lớn nhất đối với Giáo Hội chính là thỏa hiệp: thỏa hiệp để được một chút dễ dãi, thỏa hiệp để được một chút đặc quyền đặc lợi. Thực ra, đã là thỏa hiệp tức là đánh mất một phần căn tính của mình: thay vì muối để ướp cho mặn, thì muối lại đánh mất chất mặn của mình đi; đã là đèn dùng để soi sáng thì đèn lại bị đặt dưới đáy thùng; thay vì rao giảng lời chân lý, Giáo Hội thỏa hiệp để chỉ còn rao giảng lời của những sức mạnh đang khống chế mình. Xét cho cùng, sứ mệnh của muối và ánh sáng cũng chính là sứ mệnh của tiên tri. Số phận của tiên tri là số phận của thiểu số, nhưng là thiểu số dám lên tiếng rao giảng chân lý, sẵn sàng tố cáo bất công, và dĩ nhiên sẵn sàng hy sinh, ngay cả mạng sống mình.
Giáo Hội là muối và ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế gian. Họ sẽ đánh mất bản chất mặn của muối và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ thể, người Kitô hữu sẽ không còn là muối và ánh sáng, nếu theo dòng chảy của xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.
Nguyện xin Chúa ban thêm sức mạnh, để dù chỉ là một thiểu số, chúng ta vẫn luôn là muối có sức ướp mặn xã hội, là đèn có sức chiếu soi xã hội.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 10 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 1 Kgs 17:7-16; Mt 5:13-16.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Các tín hữu phải soi sáng cho những người chưa biết Thiên Chúa.
Một người hay một vật hữu ích khi người đó hay vật đó làm những gì giả sử phải làm; ví dụ: học sinh phải học, cảnh sát phải giữ trật tự và bảo vệ dân, chó phải giữ nhà, cây ăn trái phải cho trái ăn, cái cuốc phải đào được đất. Nếu không làm nhiệm vụ giả sử phải làm, người đó hay vật đó trở thành vô ích. Người ta sẽ quăng đi và thay thế bằng người hay vật khác.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật bổn phận của các tín hữu là phải soi sáng cho những người chưa biết Thiên Chúa để họ cũng tin vào Ngài. Trong bài đọc I, tác giả Sách Các Vua I tường thuật niềm tin của một bà góa Dân Ngoại vào ngôn sứ Elijah và vào Thiên Chúa; trong khi vua và toàn thể con cái Israel lìa xa Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra hai biểu tượng của muối và ánh sáng như hai đặc tính của người Kitô hữu đã có, để nhắc nhở cho họ biết bổn phận của họ là phải giúp cho những người chưa biết Chúa nhận ra và tin tưởng vào Ngài. Nếu không, họ là những người vô dụng cần cất đi để lấy chỗ cho người khác sinh lợi ích cho Ngài.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Một bà góa Dân Ngoại biểu lộ niềm tin vào ngôn sứ Elijah và vào Thiên Chúa.
1.1/ Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh.
Thiên Chúa muốn ngôn sứ Elizah chứng kiến niềm tin của Dân Ngoại chưa biết Thiên Chúa nên truyền cho ông: "Ngươi hãy đứng dậy đi Zarephath, thuộc Sidon, và ở lại đấy. Này Ta truyền cho một bà goá ở đó nuôi ngươi." Điều lạ ở đây là người đó lại là một bà góa nghèo đang đi lượm củi và cũng đang chịu cùng một cảnh khổ như tất cả các người Israel khác. Nước rất khan hiếm vì trời hạn hán; nhưng khi Elijah xin, bà cũng thương tình đi lấy cho ông chút nước. Nhưng khi Elijah xin bánh, bà thành thật nói với ông hoàn cảnh bi đát của bà: "Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết." Ông Elijah hứa với Bà: "Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà. Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel phán thế này: "Hũ bột sẽ không vơi vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất." Bà ấy đi và làm như ông Elijah nói.
1.2/ Niềm tin can đảm của bà góa thành Zarephath: Hoàn cảnh và cách biểu lộ niềm tin yêu của bà góa cho Elijah và vào Thiên Chúa phải là mẫu gương cho các tín hữu. Thứ nhất, bà là người Dân Ngoại chưa biết Thiên Chúa. Bà nghe nói về Đức Chúa của Israel nhưng chưa biết Người là ai. Thứ hai, bà cũng không biết Elijah là ngôn sứ. Bà chỉ biết ông là người Do-thái và đang lâm cơn hoạn nạn giống như bà. Thứ ba, nước và bánh là hai thứ quí giá để bảo vệ sự sống cho con người khi nạn đói hoành hành; nhất là hoàn cảnh mẹ góa con côi như bà. Thế mà bà tin lời Elijah và Thiên Chúa của ông, Bà sẵn sàng chia sẻ chiếc bánh cuối cùng cho ông. Thiên Chúa đã ân thưởng niềm tin can đảm của bà: “ông Elijah và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Elijah mà phán.”
Chúa Giêsu dùng câu truyện này để nhắc nhở cho người Do-thái biết họ phải xấu hổ về cách sống niềm tin của họ; nhưng họ đã không nghe còn mang Ngài lên cao để xô Ngài xuống vực thẳm (Lk 4:25-26). Thời của ngôn sứ Elijah, thời của Chúa Giêsu, và thời đại của chúng ta, vẫn còn biết bao nhiêu nhiêu người chỉ mang cái vỏ “Kitô hữu;” nhưng cách sống và cách biểu lộ niềm tin cho tha nhân không bằng một phần của những người chưa bao giờ biết Thiên Chúa như trường hợp của bà góa nghèo nàn này!
2/ Phúc Âm: Anh em phải sống làm sao để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.
Đạo không phải chỉ giới hạn trong việc biết Thiên Chúa và các nghi lễ trong nhà thờ; nhưng phải thấm nhập vào mọi hoàn cảnh của cuộc sống để con người áp dụng những gì Chúa dạy. Chúa Giêsu đưa ra hai biểu tượng rất gần gũi với con người và mời gọi chúng ta cùng suy nghĩ:
2.1/ Công dụng của muối: Không có gì rẻ và căn bản hơn muối; nhưng muối làm nhiều điều hữu ích cho con người:
+ Muối tượng trưng cho trong sạch tinh tuyền: vì được kết tinh bởi ánh sáng mặt trời và nước biển. Kitô hữu là những người đã được rửa sạch bằng máu Đức Kitô và thấm nhuần mọi quà tặng của Thánh Thần, họ phải trở nên thánh thiện và tinh tuyền trước khi sinh ích cho người khác.
+ Muối dùng để ngăn ngừa đồ ăn cho khỏi hư: Vì đặc tính mặn mà của muối, nên muối được dùng để làm cho lương thực khỏi hư: thịt cá cần muối, rau cỏ cần muối như dưa, cà, kim chi, trái cây cần muối nếu muốn để lâu. Ca dao Việt-nam dùng việc muối cá để nói lên sự cần thiết của con cái phải vâng lời cha mẹ: “Cá không ăn muối cá ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.” Nếu điều này cần thiết cho con cái, những điều dạy dỗ của Đức Kitô còn cần thiết hơn cho các Kitô hữu. Nếu không có vị mặn của muối, làm sao các Kitô hữu có thể “ướp mặn lòng người. “Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.”
+ Muối dùng để thêm gia vị cho thực phẩm: Muối không thể thiếu trong việc nấu ăn, thực phẩm có ngon tới đâu mà nếu không có chất mặn của muối hay nước mắm (cũng từ muối), cũng trở thành vô vị. Người Kitô hữu đã được trang bị để trở thành muối cho đời. Điều cần chú ý ở đây là Chúa Giêsu dùng động từ ở thời hiện tại “là;” có nghĩa: người Kitô hữu đã và luôn có. Bản chất của Kitô hữu có những điều tốt để giúp cho thế gian trở nên tốt.
2.2/ Công dụng của ánh sáng: Biểu tượng này còn gần gũi với con người hơn cả muối. Ánh sáng có rất nhiều công dụng.
+ Ánh sáng dùng để soi sáng: Khi trời tối, con người cần ánh sáng để khỏi vấp ngã và tìm đồ đạc. Người Kitô hữu có sự thật soi sáng để khỏi rơi vào sai lầm.
+ Ánh sáng dùng để sưởi ấm: Khi trời lạnh, con người cần ánh sáng để sưởi ấm như ánh sáng mặt trời hay lửa. Người Kitô hữu có Thánh Thần để sưởi ấm mọi cô đơn, buồn khổ.
+ Ánh sáng bảo vệ con người khỏi nguy hiểm: Tội lỗi thường xảy ra ở nơi không có ánh sáng. Người làm tội lỗi ghét ánh sáng vì họ sợ việc làm đen tối của họ bị phơi bày...
Chúa Giêsu nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” Đã là ánh sáng thì không thể che giấu; nhưng phải đặt trên cao để soi sáng cho mọi người, vì “chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà.” Mục đích của việc soi sáng là để những người chưa biết Thiên Chúa “thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải trở thành muối thiêng ướp mặn lòng người và thành ánh sáng soi đường cho mọi người đến với Thiên Chúa.
- Nếu chúng ta không làm được những điều này, chúng ta đã trở thành người vô dụng, và phế thải để lấy chỗ cho người khác.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 10 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 5,13-16

A. Hạt giống...
Sau khi Chúa Giêsu cho biết phải có 8 đức tính để có thể vào làm công dân Nước Trời, Ngài khuyến khích các môn đệ cố gắng sống 8 đức tính ấy : người nào sống 8 đức tính ấy thì cuộc sống của người đó sẽ có ảnh hưởng tốt như muối và ánh sáng vậy. Hai hình ảnh xem ra khác nhau nhưng đều giống ở sức tác động tốt :
- Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối giữ cho môi trường chung quanh nó khỏi hư, lại mặn mà.
- Ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, nhận rõ các đồ vật.
- Cả hai đều phải chịu hao mòn hy sinh thì mới gây tác động : muối tan dần đi, ngọn đèn ngàng càng lụn xuống.
- Lý do tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt : nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa và phải bị vất đi.

B.... nẩy mầm.
1. Thân phận và hoàn cảnh của mỗi kitô hữu khác nhau : có người âm thầm hèn mọn như muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là kitô hữu nữa.
Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, kitô hữu chúng ta  cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người. Dù chỉ là một ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, chứng từ của người kitô hữu vẫn luôn cần thiết cho cuộc sống.
2. Muốn tác động tốt thì phải chấp nhận hy sinh, hao mòn.
3. Muối làm cho thức ăn thêm ngon. Là muối của cuộc đời, kitô hữu phải sống sao cho người ta thấy được "khẩu vị" của cuộc sống, thấy sống mà vui, sống là đáng.
Ánh sáng làm cho khung cảnh thêm huy hoàng rực rỡ. Là ánh sáng thế gian, kitô hữu sống ở đâu thì nơi đó phải thêm hạnh phúc, tươi vui, lạc quan hơn.
4. Có những lời nói và việc làm rất là vô tình nhưng gây một ảnh hưởng rất lớn. Đức Cha Fulton Sheen kể lại 2 câu chuyện như sau :
Tại Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một cậu bé đã vô tình đánh rơi lọ nước. Vị Linh mục tức giận tát cậu bé và thét lên : "Cút đi, đừng bao giờ trở lại đây nữa". Cậu bé đó đã không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, bởi vì sau này cậu đã trở thành nhà lãnh đạo Nước Nam Tư xã hội chủ nghĩa. Cậu bé ấy tên là Titô.
Tôi còn nhớ tôi cũng là một cậu bé giúp lễ tại nhà thờ chính tòa, lúc đó tôi lên 7 tuổi. Trong một phiên giúp lễ, tôi cũng đánh rơi lọ rượu. Tôi sợ tưởng chết được, vì mấy cậu bé giúp lễ chúng tôi cứ nghĩ Đức Cha là người rất nghiêm khắc. Thế nhưng sau Thánh lễ, Ngài gọi tôi lại và hỏi : "Lớn lên con sẽ học ở trường nào ? Con có bao giờ nghe nói Louvain không ?" Tôi đáp "Thưa Đức Cha, chưa". Ngài nói : "Vậy thì con về nói với mẹ con rằng khi lớn lên con sẽ vào học tại trường Đại học Louvain". Tôi không ngờ rằng hai năm sau khi chịu chức Linh mục, tôi đã ngồi trên chuyến xe lửa trực chỉ Louvain.
Cũng một biến cố, nhưng tôi đã đi về hướng này, còn Titô thì đi về hướng ngược lại. (Chờ đợi Chúa)
5. "Chính anh em là muối cho đời" (Mt 5,13)
Vừa rồi tôi có dịp ra Huế. Khi xe lên đèo Hải Vân, tôi thấy có mấy người công nhân đang đập đá, mặt nhễ nhại mồ hôi, chiếc áo bạc màu bám chặt lấy thân gầy. Và tôi tự hỏi : "Nếu không có những giọt mồ hôi đó, không có những tấm lưng cong oằn, cháy nắng ấy thì đèo Hải vân liệu có rộng hơn, đẹp hơn và an toàn hơn cho khách đi đường trong đó có tôi không ?
Có biết bao người trong xã hội đã và đang "ướp mặn" cho cuộc sống. Phần tôi, xấu hổ vì cảm thấy mình chưa thực sự là muối, là men cho môi trường mình đang sống.
Lạy Chúa, xin cho con trở thành muối cho đời qua công việc yêu thương và phục vụ hàng ngày. (Hosanna)

Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ

10/06/14 THỨ BA TUẦN 10 TN
Mt 5,13-16


Suy niệm: Chuyện kể rằng sau một thời gian học hỏi tu luyện, người môn đệ hỏi sư phụ: “Thưa Thầy, đâu là sự khác nhau giữa kiến thức và giác ngộ?” Thầy trả lời: “Khi con có kiến thức, con dùng một bó đuốc để soi đường. Còn khi con giác ngộ, chính con sẽ trở thành bó đuốc.” Trở thành đuốc sáng cho trần gian, quả không phải là chuyện dễ! Vì chỉ có Thiên Chúa mới là ánh sáng (1Ga 1,5) và chỉ có Đức Giê-su mới dám nhận mình là ánh sáng: “Tôi là ánh sáng của thế gian” (Ga 8,12). Thế mà hôm nay, Chúa đã đặt các môn đệ Ngài là ánh sáng: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” Đúng vậy. Nhưng chúng ta chỉ là ánh sáng khi chúng ta phản chiếu ánh sáng của Chúa, nghĩa là chúng ta để cho ánh sáng của Người xuyên qua và toả sáng trong cuộc đời chúng ta, để thiên hạ thấy những công việc tốt đẹp chúng ta làm, mà tôn vinh Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời (c.16).
Mời Bạn: Truyền giáo chính là bản chất của người Ki-tô hữu, như muối không thể không mặn, ánh sáng không thể không chiếu sáng. Bạn đã ý thức và thực hành sứ mệnh quan trọng ấy như thế nào rồi ?
Chia sẻ: Nhiều Ki-tô hữu bị biến chất khi dấn thân vào đời. Có cách nào hoà mình mà không đánh mất chính mình?
Sống Lời Chúa: Là ánh sáng, xin bạn toả sáng bằng: - sống bác ái (thăm viếng người già yếu bệnh tật, giúp đỡ người nghèo…); - nói Lời Chúa, nhất là cho các bạn chưa biết Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con biết gìn giữ ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa suốt cả cuộc đời.

Muối cho đời
 Không có Kitô hữu sống lơ lửng giữa trời và đất. Họ thuộc về trời và thuộc về đất, về thế giới hiện tại và thế giới mai sau. Họ được sai vào thế giới này để phục vụ bằng cách biến đổi. 



Suy nim:
Người ta thường định nghĩa Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô,
là người sống mầu nhiệm Vượt Qua với Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa,
hay đơn giản là người bạn của Ngài.
Chẳng thể nào nói đến Kitô hữu mà không nói đến mối dây với Đức Kitô.
Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, khi nói chuyện với các môn đệ,
những người vừa được nghe các Mối Phúc,
Đức Giêsu lại đưa ra một định nghĩa khác về họ.
“Các con là muối cho trái đất” (c. 13).
“Các con là ánh sáng cho thế giới” (c.  14).
Thế giới này, trái đất này, nằm trong định nghĩa về người Kitô hữu.
Không có Kitô hữu sống lơ lửng giữa trời và đất.
Họ thuộc về trời và thuộc về đất, về thế giới hiện tại và thế giới mai sau.
Họ được sai vào thế giới này để phục vụ bằng cách biến đổi.
Muối có nhiều công dụng.
Muối dùng để bảo quản cho khỏi hư, để nêm nếm cho đậm đà, để bón phân.
Muối cần cho sự sống thường ngày con người.
Đức Giêsu dùng hình ảnh muối để áp dụng cho các môn đệ.
Họ cần cho trái đất này,
Như muối thấm vào đồ ăn, họ phải có ảnh hưởng tích cực trên trái đất.
Điều làm cho muối là muối, đó là vị mặn.
Muối trở nên nhạt thì đánh mất chính mình rồi, chẳng đáng gọi là muối nữa.
Đức Giêsu tự nhận mình là Ánh sáng cho thế giới (Ga 8, 12; 9,5; 12, 46).
Bây giờ Ngài mạnh dạn gọi các môn đệ là ánh sáng cho thế giới.
Thế giới hôm nay đã được điện khí hóa khắp nơi.
Nhưng bóng tối và bóng mờ thì chỗ nào cũng có.
Cả bên ngoài lẫn bên trong tim con người.
Bóng tối thật là một quyền lực đáng sợ mà con người phải đối diện.
Chỉ khi môn đệ mang Ánh sáng của Đức Giêsu, và trở nên ánh sáng,
khi ấy họ mới có thể giúp thế giới này bừng sáng.
Thành thánh Giêrusalem ở trên núi, không sao giấu được.
Ngọn đèn được thắp lên cũng không để lấy thùng che lại.
Căn tính của người Kitô hữu cũng vậy.
Tự nó bừng sáng, tự nó quyến rũ, tự nó hồn nhiên tỏa hương.
Đừng sợ để người khác thấy điều tốt nơi mình,
nếu điều đó đưa người ta đến chỗ nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa.
Một phần ba thế giới là Kitô hữu,
bẩy phần trăm người Việt Nam là Công Giáo.
Chúng ta có thể làm được nhiều điều cho thế giới hôm nay.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ,
nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục,
nếu Chúa là vua của hơn tám trăm ngàn nữ tu,
nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo,
thì thế giới này sẽ đổi khác,
Hội Thánh sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được dậy lên,
thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu trách nhiệm
về sự dữ trên địa cầu :
có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến,
nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ,
chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa,
giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ,
nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa,
dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con,
và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người công giáo
chịu để Chúa chi phối đời mình
và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến.
Như thế vũ trụ này
trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ




Suy niệm

Bằng hai hình ảnh muối và ánh sáng, Chúa Giêsu muốn nói đến bản chất và sứ mạng của Kitô hữu.
1. Bản chất và sứ mạng của muối:
Nếu bản chất của muối là phải mặn. Muối không mặn thì không còn là muối nữa, chỉ còn cách quăng xuống đường cho người ta giẫm đạp lên. Cũng vậy, bản chất của Kitô hữu phải mang đậm chất mặn của tình yêu. Nếu ta không có tình yêu thì không còn là Kitô hữu nữa, bởi lẽ "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,7). Ngài đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Ngài, nên tự bản chất nơi ta phải mang chất tình yêu. Dĩ nhiên tình yêu ấy phải đặt trên nền tảng Tình Yêu như Chúa: "Yêu như Thầy đã yêu" (Ga 15,12).
Còn nếu sứ mạng của muối là giữ cho thức ăn khỏi hư thối và đem lại mùi vị thơm ngon cho thức ăn, thì sứ mạng của Kitô hữu phải có nhiệm vụ ướp đời, ướp người khỏi những băng hoại của dối trá, hận thù, ganh tị, lường gạt, bất trung... Ngoài sứ mạng ngăn chặn cuộc sống khỏi những băng hoại, chúng ta còn phải là tác nhân đem lại hương vị ngọt ngào cho cuộc sống bằng những cử chỉ, lời nói, việc làm thắm đợm tình thương nhằm mang đến niềm vui, an bình và hạnh phúc cho tha nhân.
2. Bản chất và sứ mạng của đèn
Nếu bản chất của chiếc đèn là để thắp sáng, thì đức tin chính là bản chất của Kitô hữu, vì chúng ta được gọi là "tín hữu".
Còn nếu sứ mạng của chiếc đèn là chiếu giải ánh sáng cho mọi người nhìn thấy, thì sứ mạng của Kitô hữu là chiếu tỏa ánh sáng đức tin ấy cho mọi người nhìn thấy bằng những việc làm cụ thể, vì "Đức tin không có việc làm là đức tin chết". (Gc 2,17), mà những việc làm cụ thể ấy chính là những việc lành: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Qua bí tích rửa tội, chúng ta được Chúa trao ban cho ánh sáng Đức tin và kêu mời chúng ta chiếu tỏ ánh sáng đó cho trần gian.
Xin Chúa giúp chúng con luôn giữ được chất tình yêu của Chúa, để chúng con có thể ướp mặn cho đời và cho người, cụ thể là những thành viên trong gia đình con khỏi những băng hoại do tội lỗi gây nên. Đồng thời xin Chúa cũng ban thêm chất Đức Tin nơi mỗi chúng con, hầu chúng con có thể can đảm thắp lên ngọn lữa đức tin ấy bằng những hành động bác ái cụ thể cho tha nhân, để qua đó mà mọi người nhận ra Chúa và ngợi ca Danh Người.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
10 THÁNG SÁU
Sự Tự Do Chọn Lựa
Bên cạnh trí năng và mối quan hệ của nó với chân lý, con người còn có ý chí để chọn lựa. Và ý chí chọn lựa này có liên hệ mật thiết với sự thiện. Mọi hành vi nhân linh đều có bao gồm một hành vi của ý chí và khả năng chọn lựa.
Xuất phát từ nhận hiểu căn bản ấy về con người, chúng ta thấy tự nhiên bật ra vấn đề luân lý. Con người có khả năng chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu, được hướng dẫn bởi tiếng nói lương tâm. Lương tâm hướng dẫn con người làm điều tốt và lôi kéo con người trở về từ đường nẻo xấu xa.
Rõ ràng, ý chí tự do của con người chi phối đến mối quan hệ của con người với thế giới, với đồng loại, và làm cho con người khao khát Thiên Chúa và những gì thuộc về Ngài. Và như chúng ta đã thấy, cũng chính ý chí tự do thúc đẩy con người kiếm tìm chân lý. Thực vậy, bản tính thuộc linh của con người là cơ sở thiết yếu của các khả năng suy lý và lựa chọn tự do. Từ đầu tiên, con người nhận thấy mình ở trong một mối quan hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Bản trình thuật về sáng tạo trong Thánh Kinh (St 1-3) cho chúng ta thấy rằng “hình ảnh của Thiên Chúa” được mạc khải trước hết trong mối quan hệ của con người (xét như chủ thể) với Thiên Chúa (xét như đối tượng). Con người biết Thiên Chúa; trái tim và ý chí con người có khả năng kết hiệp với Thiên Chúa. Con người có thể nên một với Thiên Chúa! Con người có thể nói “VÂNG” với Thiên Chúa. Dĩ nhiên, con người cũng có thể nói “KHÔNG”. Con người có khả năng đón nhận Thiên Chúa và thánh ý Ngài; song con người cũng có khả năng chống lại Thiên Chúa và chống lại các hoạch định của Ngài.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 10-6
1V 17, 7-16; Mt 5, 13-16.
LỜI SUY NIỆM: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại?”

Muối làm tăng hương vị cho cuộc sống và tất cả mọi môi trường, nhưng nó là một gia vị rất rẽ tiền, nhưng không vì thế mà có thể phung phí, muối chỉ có giá trị và làm đúng chức năng của mình khi biết hòa tan số lượng cần và đủ, không được dư thừa. Chúa Giêsu đã xác định người Kitô hữu là “Muối cho đời”. Nhưng cũng cần phải biết giữ chất mặn cho mình, đó là phẩm chất Kitô hữu của mình. Phẩm chất này cần phải ướp mặn bằng Lời Chúa với ân sủng của Người.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu thương chúng con, Chúa làm cho chúng con trở thành muối để ướp cho đời. Xin Chúa ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn là chất muối theo thánh ý của Chúa, để chúng con biết khiêm tốn sống với nhau. Giúp nhau chung hưởng hương vị của cuộc sống.
Mạnh Phương


10 Tháng Sáu
Hãy Làm Chủ Chính Mình
Một tác giả nọ có kể một câu chuyện nghụ ngôn như sau: Một nhà trí thức, một thương gia và một quan đầu tỉnh bị quân cướp tấn công nhân một cuộc hành trình giữa sa mạc. Sau khi đã đánh đập, bọn cướp bỏ ba người dở sống dở chết bên lề đường. Tuy nhiên, ba người cũng cố gắng lê bước để tìm đến túp lều của một vị ẩn sĩ. Sau khi đã băng bó các vết thương cho ba người, vị ẩn sĩ mới nói với họ: "Túp lều của tôi quá nhỏ. Mùa đông lại sắp đến. Xin mỗi vị cố gắng làm riêng cho mình một căn lều để trú ẩn".
Nghe thế cả ba người bộ hành đều chống chế, vì họ chỉ muốn tiếp tục cuộc hành trình mà thôi. Vị ẩn sĩ mới cho họ biết rằng tuyết đã bắt đầu rơi và không còn một lối thoát nào có thể giúp họ ra khỏi vùng sa mạc.
Nhưng làm thế nào để tự mình có thể dựng cho mình túp lều? Nhà trí thức thì than phiền rằng mình không có sách vở trong tay. Thương gia thì quả quyết rằng cả đời mình chỉ biết đếm tiền và giao dịch. Còn viên đầu tỉnh thì cho rằng ông không thể làm việc gì mà không có thuộc hạ.
Nhưng nước đến trôn rồi thì cũng đành phải nhảy. Không còn lý do gì để khước từ, cả ba người đành phải bắt tay vào dựng riêng cho mình căn lều. Khi họ vừa hoàn thành túp lều thì mùa đông cũng vừa đến. Trong suốt mùa đông dài, họ không còn bít làm gì hơn là ngồi bên bếp lửa để ôn lại chuyện quá khứ... Vị ẩn sĩ thỉnh thoảng cũng xen vào câu chuyện để góp ý và an ủi ba người bất hạnh.
Ðông tàn, xuân đến. Ba người bộ hành muốn lên đường trở về tức khắc. Nhưng lòng tốt và tình bạn của nhà ẩn sĩ không nỡ để họ ra đi. Thành ra, họ đành ở nán lại một thời gian để giúp ông cày xới và gieo trồng cũng như chăm sóc gia súc. Và rồi, khi ánh nắng xuân chiếu tỏa giữa sa mạc, họ cũng ở lại thêm một thời gian để ngắm cảnh thiên nhiên...
Một ngày nọ, vị ẩn sĩ mới thắc mắc như sau: "Tôi không còn nghe các ông nói đến sách vở, công việc làm ăn và những người thuộc hạ nữa. Có chuyện gì xảy ra cho các ông không?". Cả ba người đều giữ thinh lặng. Vị ẩn sĩ mới nói tiếp: "Tôi xin phép được trả lời cho các ông nhé. Trước kia, các ông có một ông chủ, ông chủ của các ông có tên là sách vở, là tiền bạc, là các thuộc hạ. Giờ đây, các ông cũng giống như chó lạc mất chủ, các ông cảm thấy tự do. Nhưng tôi nghĩ rằng tốt hơn là các ông nên trở về với sách vở, với tiền bạc, với các thuộc hạ của các ông. Trêu về nhưng không với tư cách là nô lệ nữa. Các ông hãy là chủ chính mình. Và nếu các ông muốn có một người chủ luôn để cho các ông tự do hoàn toàn, xin hãy nhớ đến tôi và chủ của tôi".
Lục soát cho kỹ trong lương tâm, có lẽ ai trong chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình là nô lệ của rất nhiều ông chủ.
Có ông chủ mang tên là một ý thức hệ kiên cố đang trói buộc đôi cánh tư tưởng của chúng ta. Chúng ta bị giam hãm trong vòng nô lệ đến độ không dám đưa chân bước ra khỏi vòng tròn mà ý thức hệ đó đã vẽ sẵn.
Có ông chủ mang tên là những định kiến đối với cuộc đời, đối với xã hội, đối với con người mà chúng ta không bao giờ muốn từ bỏ, mà chúng ta luôn chụp xuống trên người khác có lẽ cúng là hàng rào kẽm gai mà chúng ta khoanh tròn xung quanh chúng ta để mãi mãi chỉ mang lấy một cái nhìn hẹp hòi, ích kỷ.
Có ông chủ là những thói quen xấu mà chúng ta tích lũy như một pháo đài kiên cố để không muốn rời một bước.
Có ông chủ là thứ tôn giáo vụ hình thức trong đó chúng ta cố gắng tô vẽ cho mình một bộ mặt đạo đức, nhưng kỳ thực lại hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng của Chân Lý và tự do đích thực.
Mỗi người chúng ta cần phải rời bỏ những ông chủ quen thuộc để đi vào trong túp lều nhỏ bé, nhưng chính do chúng ta cố gắng tự tạo ra. Nơi sa mạc của cõi lòng, chúng ta sẽ gặp được chính Chúa làông chủ đích thực của chúng ta. Có trút bỏ mọi ràng buộc trong cuộc sống, chúng ta mới cảm thấy được Ngài chiếm ngự và lúc đó chúng ta mới cảm nhận được niềm hạnh phúc đích thực mà Chúa Giêsu đã hứa: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét