Trang

Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2014

31-08-2014 : (phần I) CHÚA NHẬT XXII MÙA THƯỜNG NIÊN năm A

31/08/2014
Chúa Nhật 22 Quanh Năm Năm A
(phần I)


Bài Ðọc I: Gr 20, 7-9
"Lời Chúa làm cớ cho tôi bị nhục nhã".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Lạy Chúa, Chúa đã khuyến dụ tôi, và Chúa đã khuyến dụ được tôi. Chúa đã hùng mạnh hơn tôi và thắng được tôi: suốt ngày tôi đã trở nên trò cười, và mọi người đều chế nhạo tôi. Mỗi lần tôi nói, tôi phải la lớn và loan báo sự hung bạo và điêu tàn, cho nên lời Chúa làm cớ cho tôi bị nhục nhã và bị chế nhạo suốt ngày. Tôi đã nói rằng: "Tôi sẽ không nhớ đến Người nữa, sẽ không nhân danh Người mà nói nữa, thì lúc đó trong lòng tôi như lửa đốt nóng, âm ỉ trong xương cốt tôi, tôi kiệt sức, không chịu nổi nữa".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 62, 2. 3-4. 5-6. 8-9
Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khát khao Chúa (c. 2b).
Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước! - Ðáp.
2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quang của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài. - Ðáp.
3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con; con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn con được no thỏa dường như bởi mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan hỉ. - Ðáp.
4) Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài. Linh hồn con bám thân vào Chúa, và tay hữu Chúa nâng đỡ người con. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Rm 12, 1-2
"Anh em hãy tiến thân làm của lễ sống động".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tôi nài xin anh em vì lượng từ bi Thiên Chúa, hãy hiến thân anh em làm của lễ sống động và thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Ðó là việc phụng thờ hợp lý anh em phải làm. Anh em đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo.
Ðó là lời Chúa.
  
Alleluia: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 16, 21-27
"Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, không thể thế được! Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".
Bấy giờ Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình? Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Ðấng Cứu Thế Chịu Ðóng Ðinh
Như bài Tin Mừng vừa cho chúng ta biết: hôm ấy Chúa Yêsu bắt đầu tỏ cho môn đệ thấy Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và sẽ bị giết rồi ngày thứ ba sẽ sống lại. Ðó là một mạc khải kinh khủng đối với các Tông đồ. Cứ nhìn vào phản ứng của Phêrô thì rõ. Tuy nhiên đó chỉ là những đau khổ động tới con người của Chúa Yêsu, chứ chưa phải là những đau đớn đổ xuống trên thân xác các môn đệ. Hôm nay, phụng vụ muốn nói chính bản thân chúng ta đây phải sẵn sàng chịu mọi đau khổ vì Chúa. Chúng ta phản ứng thế nào? Và trước hết chúng ta có thâm tín như vậy không? Chúng ta có chắc rằng chúng ta, mọi kẻ theo Chúa đều phải khổ vì Chúa không? Nếu có, chúng ta phải đón nhận những đau khổ đó như thế nào? Thiết tưởng việc đọc lại các bài Kinh Thánh hôm nay sẽ có ích nhiều cho chúng ta.

A. Nhà Tiên Tri Ðau Khổ
Bài sách Yêrêmya vắn tắt nhưng lâm ly. Nhà tiên tri than thở với Chúa nhưng thực ra cũng muốn cho người khác nghe. Ông tóm tắt cuộc đời của mình trong những lời rất bi quan và đau xót. Lúc nào ông cũng phải la lối: "hành hung và bức hiếp", bởi vì ông được Chúa chọn để sai đi nói với dân: khủng khiếp sắp đổ xuống dân bội bạc, bất tín và dâm đãng này. Ðầu tiên người ta cũng giật mình, nhưng rồi bị thói quen lôi đi, phù vân hấp dẫn và được các tiên tri giả luôn luôn phỉnh nịnh, người ta đâm chán, đâm ghét và muốn xóa bỏ con người cứ liên tiếp đe dọa những tai ương, hình phạt. Có lần người ta đã bắt ông, tống giam và suýt nữa đập chết ông.
Bị kỳ thị tránh né, hiểu lầm, ghét bỏ, Yêrêmya suy nghĩ về cuộc đời của mình. Vì sao lại đâm đầu vào cái nghề tiên tri này? Và sao không bắt chước loại tiên tri kia cứ nói hay, nói tốt cho người ta để được yêu, được thích, được nhiều tiền nhiều của? Cớ sao cứ nói mãi những điềm dữ và tuyên bố kinh khủng sắp đổ xuống trên mọi người, để người ta phải tránh, phải sợ mình như sợ dịch?
Càng suy nghĩ, Yêrêmya càng hiểu rõ bản chất và ơn gọi của mình. Con người xác thịt của ông chắc chắn không muốn sống như xưa nay ông vẫn sống. Nếu cứ phải là tiên tri, chắc chắn nó muốn làm như bọn tiên tri giả, cứ phỉnh nịnh người ta là được chiều chuộng và sung sướng. Làm tiên tri thật, biết nói lên cái hay nhưng cũng không câm miệng trước cái dở của người ta, kể cũng đã khó... huống nữa là chỉ rặt kêu la: "hành hung và bức hiếp!". Lại nữa có chắc gì sẽ xảy ra như vậy? Yôna cũng có lần bị cám dỗ như thế. Ông được Chúa sai đi để cảnh cáo dân tội lỗi. Ông không muốn đi vì ông nghĩ Chúa nhân từ vô bờ, chỉ cần người ta quay đầu lại một tý là Người đã tha thứ và rút cánh tay đe phạt về. Nhưng tại sao Yêrêmya cứ cố chấp và còn nhiệt thành nữa trong việc rao truyền những hình phạt khủng khiếp sắp đổ xuống trên con cái Israel?
Cuối cùng Yêrêmya phải thốt ra những lời hôm nay chúng ta vừa nghe đọc. Không phải ông tự chọn cho mình ơn gọi này; không phải ông thích thú khi tuyên sấm bi quan khủng khiếp như vậy; không phải ông không biết những ê chề, đau khổ và nguy hiểm cho bản thân khi nói ngược với những sự chờ mong của người ta. Cực chẳng đã ông phải làm tiên tri. Không phải để dù sao cũng phải sống và phải có một nghề; nhưng nào ai hiểu được, chỉ để tuân lệnh Yavê!
Người ta bảo ông bị mê hoặc, lừa dối. Phải, nói cho cùng, ông thấy mình bị dụ dỗ thật sự. Nhưng không phải là bùa thiêng hay ma quỷ nào lừa đảo được ông; nhưng là chính sức mạnh của Thiên Chúa. Thần khí Người ập xuống. Ông bị uy hiếp và bị khắc phục, không phải một cách miễn cưỡng và khó chịu, nhưng êm ái và bình an. Thiên Chúa uy dũng đã chiếm đoạt lấy ông. Ông nằm trong tay Người như đứa con trên tay người mẹ: khoan khoái và tin tưởng làm sao! Gặp Thiên Chúa rồi, cảm tình yêu của Người rồi, Yêrêmya phó thác hoàn toàn tấm thân và đời sống nhỏ bé và mỏng manh của mình trong tay Người. Từ nay, Yêrêmya chỉ còn là khí cụ trong tay Ðấng điều khiển tất cả trời đất "vừa cương vừa nhu" (fortiter et suaviter). Ông không làm chủ đời mình nữa. Ông thấy thích thú sâu xa lạ lùng khi được sử dụng vào công việc của Thiên Chúa, cho dù xác thịt tự nhiên cảm thấy ngược lại.
Thế nên nói cho cùng những ê chề, đau đớn, khổ sở mà người ngoài nhìn thấy ở nơi ông và chính xác thịt ông cũng thấm thía thật sự, tất cả những sự ấy vẫn không động đến được ý chí và quan điểm của ông vì "nơi lòng ông như lửa bừng bừng, bị dồn ép trong xương cốt ông; ông hết sức nén lại, nhưng không tài nào nén được" bởi vì Thiên Chúa đã dụ dỗ và đang thắng ông.
Yêrêmya đúng là "Người của Thiên Chúa". Ông mô tả trước con người của Ðức Kitô. Ông nhắc nhở tất cả chúng ta về ơn gọi tiên tri của mình. Chúng ta đã lãnh nhận ơn gọi này khi chịu phép Rửa. Mỗi người chúng ta đã được Chúa đặt làm tiên tri để công bố đường lối chân thật của Người. Chúng ta không thấy vất vả vì ơn gọi đó sao? Hay là chúng ta không thi hành ơn gọi đó? Hoặc là chúng ta đang phàn nàn ta thán về số phận khó khăn của ơn gọi là Kitô hữu? Chúng ta chỉ tìm được bình an chân chính và sâu xa nếu chúng ta biết suy nghĩ và tìm ra sự thật như Yêrêmya trong bài Kinh Thánh hôm nay. VÀ bây giờ chúng ta được trang bị đầy đủ để đi vào hai bài Kinh Thánh khác.

B. Ðấng Cứu Thế Chịu Ðóng Ðinh
Sách Tin Mừng Matthêô kể: từ bấy giờ Ðức Yêsu bắt đầu tỏ cho môn đệ hay "Ngài phải đi Yêrusalem và chịu nhiều đau khổ...". Ðó là câu văn rất quan trọng. Nó đánh dấu một giai đoạn mới trong cuộc đời Chúa Cứu thế. Cho đến hôm ấy, Người chưa bao giờ bảo môn đệ biết những đau khổ đang chờ Người. Nói đúng hơn, cho đến bấy giờ Người thường đi giữa quần chúng và dạy dỗ họ. Từ nay Người sắp đi Yêrusalem với Nhóm môn đệ của Người. Như vậy hoạt động của Người như muốn thu nhỏ lại hơn, để có giờ đào tạo, huấn luyện, sát các môn đệ hơn. Làm cho họ hiểu Người và giống như Người hơn. Và vì thế Người bắt đầu tỏ cho họ thấy sứ mạng và vinh quang đích thực của Người: Người sẽ đi Yêrusalem, bị bắt, bị xử, bị giết và sống lại ngày thứ ba.
Ðó là chương trình đào tạo của Người kể từ hôm nay. Không phải chỉ là một bài học chỉ cần cắt nghĩa là môn đệ hiểu được. Nhưng là cả một nếp sống mà Người sẽ lần lần "tỏ" ra cho họ thấy, mặc dù chưa chắc họ đã hiểu. Nhưng dù sao cũng phải dùng lời nói để mô tả nếp sống ấy. Hôm nay Chúa Yêsu đã làm công việc này. Chẳng may Người gặp phải một phản ứng tức thời, phản ứng của Phêrô, kẻ mà Người mới đặt làm Ðá để xây lên Hội Thánh.
Phêrô kéo Ngài lại với mình và lên tiếng trách Ngài: "Thiên Chúa thương! Chứ sẽ có đâu như thế!". Kể ra ông cũng rất tế nhị. Ông không dám thẳng thắn phản đối Ngài. Ông kéo Ngài ra để nói riêng, không muốn cho đồng bạn nghe thấy. Ông còn nại đến Thiên Chúa: Người tốt lành không thể để xảy ra như lời Ðức Yêsu đã nói.
Thế thì vì sao Ðức Yêsu lại như phẫn nộ đối với Phêrô. Người nói to không nể mặt: "Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta...". Có lẽ câu tiếp theo làm cho người ta hiểu ý của Người hơn, Người bảo: "Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người".
Phải, hôm ấy Ðức Yêsu bắt đầu tỏ cho môn đệ thấy tương lai của Người; mà tương lai ấy đâu phải Người xây dựng, mà là chính Thiên Chúa vì Người đã nói rõ: "Ta đến không phải để làm theo ý muốn của mình, mà là ý của Ðấng đã sai Ta". Như vậy, cuộc Tử nạn Phục sinh của Người là kế hoạch của Thiên Chúa. Phêrô chưa nhận ra điều ấy. Ông tưởng đó là ý riêng của Ðức Yêsu. Thế nên ông tưởng có thể góp ý với Người. Và ý của ông cũng là ý của các môn đệ, là ý của quần chúng, của con cái Israel... và nói chung, của tất cả loài người. Ai ai cũng đang trông chờ một vị cứu tinh vinh quang, một Ðấng Cứu thế uy hùng, một Ðức Yêsu quyền phép sắp xây dựng Nước Trời trong huy hoàng, rực rỡ. Họ không biết, hoặc chưa biết "Con Người sẽ phải chịu đau khổ... Các lời tiên tri phải nên trọn... Người phải là Con Chiên Thiên Chúa gánh tội thiên hạ... Và người Tôi Tớ của Thiên Chúa kể trong sách Isaia chính là Người". Phát biểu của Phêrô là tiếng nói của loài người. Hơn nữa phá kế hoạch của Thiên Chúa là ý muốn của Satan. Ðức Yêsu thẳng thắn vạch trần những bộ mặt ấy để từ nay người ta sống chân thật và tôn thờ Thiên Chúa trong chân lý.
Tác giả sách Tin Mừng Matthêô có lẽ đã hiểu rõ ý Ðức Yêsu Kitô. Ông đính ngay vào đoạn văn trên những lời Chúa dạy dỗ môn đệ: "Nếu ai muốn đi sau Ta, thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy theo Ta". Ðó là bài học cụ thể phải rút ra sau khi đã thấy mầu nhiệm Thánh giá của Chúa. Là điều chúng ta phải ngẫm nghĩ khi muốn đi theo Người và làm môn đệ của Người. Phêrô và các Tông đồ khi đi theo Chúa cũng muốn tham dự vào công cuộc cứu thế của Người. Chúng ta còn hơn nữa, vì khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được sát nhập vào Thân Thể của Người. Chúng ta trở nên Kitô hữu. Chúng ta mặc lấy thân phận của Ðức Kitô. Người tuy là Cứu thế và hơn nữa chính để cứu thế, đã chấp nhận chương trình của Thiên Chúa là đi lên Yêrusalem để bị bắt, bị xử, bị đóng đanh và bị giết. Ðó là con đường cứu thế, con đường của Vua Kitô, con đường của những ai được xức dầu Vương giả của Người.
Hôm nay chúng ta không thể không suy nghĩ những điều ấy, để thấy không những ơn gọi tiên tri mà cả ơn gợi vương đế trong Bí tích Rửa tội đều thúc đẩy chúng ta phải đi vào con đường của mầu nhiệm thánh giá. Nếu muốn sống làm chứng nhân cho đường lối của Chúa, chúng ta đã phải sẵn sàng can đảm, thì muốn tham dự và tiếp nối sứ mạng cứu thế của Người, chúng ta không thể không muốn chấp nhận lấy thân phận của người Tôi Tớ Thiên Chúa. Lúc ấy chúng ta mới thấm thía lời Chúa dạy: ai muốn làm lớn hãy trở nên rốt bét... Hết thảy hãy học với Ta vì Ta có lòng khiêm nhường hiền lành... Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ được sự sống. Chỉ khi thâm tín những chân lý này, việc làm dấu Thánh giá và đeo ảnh Thánh giá trên mình mới có ý nghĩa. Ðó không phải chỉ là dấu hiệu nói rằng chúng ta đã thuộc về Chúa Yêsu Kitô Cứu thế chịu đóng đinh, nhưng còn là cử chỉ muốn đóng đinh xác thịt và đời sống của mình để cứu thế với Ðức Yêsu Kitô. Sống ơn gọi vương đế cũng phải vác thập giá và chết trên thập giá như khi sống ơn gọi tiên tri. Còn muốn sống ơn gọi tư tế trong Bí tích Rửa tội có như vậy không?

C. Anh Em Hãy Hiến Dâng Thân Mình Là Lễ Tế Sống
Ðoạn thư Phaolô hôm nay mở đầu phần khuyên bảo trong thư Rôma. Thánh Tông đồ thôi giảng về giáo lý và bắt đầu dạy dỗ tín hữu về cách ăn ở. Chúng ta phải thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng sự tôn thờ chân thật mà Người muốn, không phải là kinh kệ hay lễ dâng bề ngoài, nhưng là lễ tế thiêng liêng.
Chúng ta hay hiểu lầm ý nghĩa của hai chữ thiêng liêng này. Chúng ta tưởng thiêng liêng là không hữu hình, không nhìn thấy. Và chúng ta nghĩ tôn thờ thiêng liêng không cần đến nhà thờ, bàn thờ, kinh kệ, nghi lễ, mà chỉ cần tâm hồn. Thế là vô tình chúng ta có thể rơi vào "duy tâm".
Nhưng không có tâm hồn ở ngoài thân xác. Và không phải tâm hồn hay thân xách chúng ta phải thờ phượng Thiên Chúa, mà là chính chúng ta là những con người có cả tâm thần và xác thịt. Thánh Phaolô nói chúng ta phải dâng thân mình làm lễ tế sống, tức là phải dâng chính chúng ta và tất cả chúng ta với những sự thuộc về chúng ta làm lễ tế sống thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa. Không phải chúng ta sẽ trói mình lại như Abraham bắt trói Isaac ném lên đống củi... Kiểu tế sống đó Thiên Chúa không muốn. Người không cho Abraham làm. Nhưng Người đã ban Con Một Người đi chịu chết. Và lễ tế sống thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa, chính là lễ hy sinh của Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm Thập giá. Lễ hy sinh này, Ðức Yêsu Kitô đã khởi sự hôm nay khi Người bắt đầu tỏ cho môn đệ thấy Người sẽ đi lên Yêrusalem để chịu chết. Nói đúng hơn, Người đã bắt đầu tế lễ sống chính mình khi bước vào thế gian như thư Hipri nói: "Này Con xin đến để làm theo Thánh Ý Cha".
Mà ý của Thiên Chúa không phải ý của thế gian vàloài người. Thế nên thánh Phaolô diễn tả tư tưởng ở trên rằng: "Ðừng rập theo đời này, trái lại hãy canh tân lương tri, mà biến hình đổi dạng, làm sao anh em thẩm định được Ý Thiên Chúa là gì, thật là tốt lành, thú vị, trọn hảo".
Mọi chữ đều ý nghĩa. Chính đời sống không rập theo đời này, nhưng canh tân lương tri, biến hình đổi dạng, ăn ở theo giáo huấn của Thiên Chúa, là lễ tế sống, thánh thiện đẹp lòng Người. Như vậy đời sống tư tế của người tín hữu chẳng thuần túy thiêng liêng theo nghĩa vô hình và hoàn toàn nội tâm; bởi vì canh tân biến đổi đời sống cho phù hợp với Ý Chúa phải tác động đến thân xác và nếp sống hữu hình. Nhưng tất cả những kinh kệ và lễ dâng chỉ trở thành lễ tế thiêng liêng khi đó là những lời kinh và lễ dâng của con người đang kết hiệp với Ðức Yêsu Kitô trong mầu nhiệm thánh giá, là mầu nhiệm hiến dâng và trao ban cả thân mình cho Thiên Chúa và cho hạnh phúc của loài người.
Giờ đây chúng ta sắp cử hành mầu nhiệm ấy nơi bàn thờ. Ước gì việc tham dự thánh lễ hôm nay đưa chúng ta vào sâu hơn ơn gọi của Bí tích Rửa tội, là bí tích biến chúng ta nên Kitô hữu, môn đệ của Ðức Kitô. Bí tích ấy xức dầu chúng ta nên ngôn sứ, vương đế và tư tế trong Ðức Yêsu. Người đã là Vị Ngôn sứ đau khổ hơn hết. Người đã làm Vua trên Thánh giá. Người đã tế lễ khi hiến dâng sự sống mình. Người đang kêu gọi và đòi hỏi chúng ta: nếu muốn đi theo Người hãy vác lấy thập giá của mình mà đi theo Người.
Quan điểm này phải canh tân lương tri và biến đổi đời sống chúng ta nên lễ tế sống, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa và hữu ích cho mọi người hơn.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 22 Thường Niên, Năm A
Bài đọc: Jer 20:7-9; Rom 12:1-2; Mt 16:21-27.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Xung đột ý kiến.
Xung đột ý kiến xảy ra ở mọi nơi mọi thời: Ở nhà, các em bé muốn tiếp tục xem phim trong khi bố mẹ bảo tắt đi ngủ. Ngoài đường, người lái xe cứ phải đứng chờ khi đèn đỏ tại các ngã tư trong khi ngã bên kia vắng tanh. Nơi công sở, công nhân muốn làm theo ý mình mà cứ bị buộc phải làm theo ý chủ. Khi xung đột ý kiến xảy ra, đương sự nên theo ý của ai? Và dựa vào đâu để biết ý kiến đúng?
Các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy xung đột ý kiến xảy ra ở mọi thời và cách chọn của các nhân vật trong các bài đọc: họ chọn để sống theo ý Thiên Chúa. Trong bài đọc I, sự xung đột ý kiến xảy ra giữa Thiên Chúa và ngôn sứ Jeremiah. Thiên Chúa muốn ông nói những điều mà dân chúng không thích nghe, và vì không thích nghe nên họ đấu tố ông. Jeremiah nhiều khi không muốn nói lời Thiên Chúa truyền, nhưng sau cùng, ý Thiên Chúa toàn thắng. Trong bài đọc II, người môn đệ của Đức Kitô bị đòi hỏi để hiến dâng toàn bộ cuộc đời mình để làm của lễ hiến dâng thánh thiện lên cho Thiên Chúa. Điều này không dễ, vì những cám dỗ của thế gian vẫn dằng dai đeo đuổi để bắt người môn đệ phải lựa chọn. Trong Phúc Âm, Matthew tường thuật sự xung đột giữa Chúa Giêsu và tông đồ Phêrô. Chúa báo trước Ngài sẽ lên Jerusalem để bắt đầu Cuộc Thương Khó theo ý định của Thiên Chúa, Phêrô kéo Chúa Giêsu ra một nơi và khuyên Ngài đừng chọn con đường ấy. Chúa Giêsu mắng Phêrô: "Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Xung đột ý kiến giữa Jeremiah và Thiên Chúa.
1.1/ Ý của Thiên Chúa: Chúa muốn chọn Jeremiah làm tiên tri của Chúa. Jeremiah từ chối nại cớ ông không biết ăn nói vì ông còn trẻ con. Chúa phán: “Đừng nói ngươi còn trẻ. Tất cả những ai Ta sai ngươi tới với họ, ngươi phải tới; và tất cả những gì Ta muốn ngươi nói, ngươi phải nói. Đừng sợ họ, vì Ta sẽ ở với ngươi để cứu chuộc ngươi.” Rồi Đức Chúa giơ tay ra và chạm vào miệng Jeremiah và phán: “Hãy coi, Ta đã đặt Lời Ta vào miệng ngươi, hôm nay Ta đã đặt ngươi có quyền trên các quốc gia và vương quốc, để nhổ lên và tàn phá, để phá hủy và dẹp đi, để xây dựng và vun trồng” (Jer 1:6-10). Ông đã trở thành tiên tri của Chúa từ đó. Chính Jeremiah trong Bài đọc I hôm nay đã thốt lên: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng.”
Ông dùng động từ “quyến rũ,” là động từ thường dùng trong lãnh vực tình cảm lãng mạn, và ông đã rơi vào “bẫy” của Thiên Chúa. Một khi đã trở thành tiên tri là ông phải nói và làm những điều Thiên Chúa muốn. Tuy nhiên, nếu hiểu theo mục đích của cuộc đời, thì đây là một sự “quyến rũ tốt lành” để bị rơi vào.
1.2/ Ý của tiên tri Jeremiah: Làm tiên tri là phải nói những gì Chúa muốn nói, dẫu mình không thích nói những điều đó, hay con người không thích nghe. Con người muốn nghe những lời xây dựng hòa bình mà ông buộc phải nói tới lưu đày chiến tranh. Đó là lý do mà ông nêu lên: “Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con. Mỗi lần nói năng là con phải la lớn, phải kêu lên: "Bạo tàn! Phá huỷ!" Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế diễu suốt ngày.” Chẳng những ông bị nhạo cười chế diễu, mà còn bị quăng xuống giếng bùn và đe dọa bị giết chết nữa.
1.3/ Cách chọn lựa: Nhiều lần ông muốn nổi lọan và có lần ông đã tự nhủ: "Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa." Nhưng Lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Ông nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!
2/ Bài đọc II: Xung đột ý kiến giữa cách sống cho Thiên Chúa và cho thế gian.
2.1/ Cách sống cho Thiên Chúa: Ai trong chúng ta cũng đều biết biến cố ngã ngựa trở lại của ngài trên đường đi Damascus. Ý của Phaolô là muốn đi tìm bắt các tín hữu tin vào Chúa Giêsu để giải về Jerusalem tống ngục hay xử tử. Nhưng ý Thiên Chúa lại muốn ngược lại, muốn biến Phaolô thành Tông Đồ của Ngài để rao truyền Tin Mừng cho Dân Ngọai. Biến cố ngã ngựa đã thay đổi hòan tòan cuộc đời Phaolô, và ngài đã dành tất cả cuộc đời cho việc rao giảng Tin Mừng. Những gì hôm nay chúng ta đọc diễn tả sự nhiệt thành của ngài: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người.”
Của lễ dâng lên Thiên Chúa theo Phaolô không còn là những con chiên, con dê, hay bất cứ những gì con người có thể mua ngòai chợ, nhưng là tòan diện con người với đầy đủ tự do, ước muốn, suy nghĩ, và tình cảm. Của lễ dâng lên Thiên Chúa không chỉ giới hạn vào cuối tuần, hay mỗi sáng chiều nữa, mà bao gồm tất cả mọi giây phút của cuộc đời. Những đòi hỏi này là một thách đố to lớn của cuộc đời tận hiến, và chỉ có những người nào cảm nhận trọn vẹn được lòng thương xót của Chúa hay tình yêu vô bờ bến của Ngài mới dám hy sinh đáp trả.
2.2/ Cách sống của thế gian: Là con người, ai cũng muốn đua nhau chạy theo tiền để trở nên giầu có và hưởng thụ các tiện nghi vật chất; người môn đệ Chúa được đòi hỏi phải từ bỏ tất cả các tiện nghi để sống đức khó nghèo. Mang trong con người một thân xác đòi hỏi để được nâng niu ôm ấp, để có một mái ấm gia đình sau những lúc làm việc vất vả mệt nhọc; người môn đệ Chúa được đòi hỏi phải bỏ tất cả tình cảm hôn nhân để sống đức khiết tịnh. Và, cái phải hy sinh khó nhất là hy sinh tòan bộ con người của mình qua việc bỏ ý riêng của mình để làm theo ý của các Bề-trên cũng là con người với mọi yếu đuối như mình qua đức vâng lời.
Sống trong thế gian với đầy đủ những nhu cầu và cám dỗ khắp nơi, thánh Phaolô khuyên tất cả chúng ta: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.” Dĩ nhiên, lời khuyên này không phải chỉ dành cho những người muốn sống cuộc đời tận hiến, mà còn cho tất cả các Kitô hữu của mọi bậc. Mỗi người trong hòan cảnh riêng của mình đều mang trong mình chức vụ tư tế và cũng phải dâng lên Chúa những lễ vật tinh tuyền, thánh thiện, và hòan hảo bằng những hy sinh trong đời sống.
3/ Phúc Âm: Xung đột ý kiến giữa Phêrô và Chúa Giêsu.
3.1/ Ý Chúa Giêsu: Ngài bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết kế họach cứu độ của Thiên Chúa. Theo kế họach này, Ngài phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.
Khi bị Phêrô can ngăn, Ngài đã nghiêm khắc quở trách ông: "Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." Qua lời sửa phạt của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy có sự xung đột ý kiến giữa lòai người và Thiên Chúa; nhưng để hòan tất chương trình cứu độ, Chúa Giêsu phải làm theo ý định của Thiên Chúa.
3.2/ Ý của Phêrô: Ông kéo riêng Người ra và trách: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" Phêrô cũng giống bao người Do-Thái đương thời, ông không thể hiểu nổi một Đấng Thiên Sai phải chịu đau khổ mới cứu được con người. Bằng việc can ngăn Chúa, ông đang làm công việc của Satan cám dỗ Chúa trong sa mạc và trong vườn Ghetsemane: Hãy chọn con đường khác, con đường chiến thắng mà không phải đương đầu với đau khổ và cái chết.
Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” Giống như Jeremiah và Phaolô, Phêrô và các môn đệ cảm thấy điều khó khăn nhất là phải bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. Chúa Giêsu đưa ra những lý do tại sao phải làm như thế:
(1) “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.” Lý do này thọat nghe khó hiểu, nhưng con người có thể tìm ra không thiếu những ví dụ cụ thể trong cuộc sống: Nếu ai cũng chỉ lo cho mình thì lấy ai bảo vệ kẻ thù xâm lăng? Và khi kẻ thù tiến vào lãnh thổ, họ có thể bảo vệ mạng sống được không? Nếu ai cũng khinh thường luật lệ thì trật tự xã hội sẽ bị rối lọan, một khi xã hội mất an ninh mạng sống con người sẽ không được bảo vệ. Cũng vậy trong đời sống thiêng liêng, chỉ một mình Thiên Chúa biết con người phải sống làm sao để đạt tới Nước Trời. Ngài biết con người không thể đạt đích với lối sống dễ dãi buông thả và truyền con người phải đi qua cửa hẹp: bỏ ý riêng, vác thập giá hằng ngày, và theo Chúa. Con người vẫn có tự do để chọn lựa, nhưng Ngài nêu vấn nạn để con người suy nghĩ: Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?
(2) Tất cả các việc làm của con người sẽ bị xét xử bởi Thiên Chúa: “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.” Ngay khi còn ở trong trần thế, con người đã phải lãnh nhận hậu quả do các việc mình làm: làm tốt sẽ lãnh nhận hậu quả tốt, làm xấu sẽ lãnh nhận hậu quả xấu. Những gì con người có thể không bị lãnh nhận hậu quả đời này, nhưng chắc chắn họ sẽ bị xét xử và lãnh hậu quả tương xứng ở đời sau.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Không thể không có xung đột trong cuộc sống vì mỗi người mỗi ý, trăm người trăm ý; nhưng phải tìm ra ý nào tương đối tốt đẹp nhất để làm theo. Điều này tương đối không khó nếu chúng ta tuân theo các luật lệ trong gia đình, xã hội, và quốc gia.
- Khi có sự xung đột trong lãnh vực luân lý và thiêng liêng, chúng ta phải tìm ra thánh ý Chúa để làm theo; vì chỉ có Chúa mới có đủ khôn ngoan để hướng dẫn con người. Tiếng nói của Chúa được mặc khải trong Thánh Kinh và Thánh Truyền qua sự hướng dẫn và bảo vệ của Giáo-Hội.
- Con người dễ nổi lọan vì bị ảnh hưởng của môi trường: khí hậu, áp lực của gia đình, bạn bè, công sở, xã hội… nên thường có khuynh hướng làm theo ý mình và không muốn bị người khác chi phối. Tuy nhiên, chúng ta cần khôn ngoan để nhận định: khả năng con người mình rất giới hạn, cần rộng mở tâm hồn để đón nhận cái hay của người khác, để bảo vệ trật tự, và nhất là để đạt được mục đích của cuộc đời bằng cách làm theo ý Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

31/08/14 CHÚA NHẬT TUẦN 22 TN – A
Mt 16,21-27

Suy niệm: Nhạc sĩ Văn Cao, người vẫn tự xưng mình là Ki-tô hữu, đã viết trong bài thơ Không Đề như sau: “Con thuyền đi qua, để lại sóng. Đoàn tàu đi qua, để lại tiếng. Đoàn người đi qua, để lại bóng. Tôi không đi qua tôi, để lại gì?” Muốn để lại cái gì đó tốt đẹp cho cuộc đời, người nhạc sĩ tài hoa ấy hiểu rằng phải đi qua chính mình, vượt qua bản ngã ích kỷ, bản năng an thân, cầu an, để có những cống hiến phục vụ đồng loại. Lời Chúa hôm nay nhắc ta nếu chỉ bo bo giữ lấy sự sống Chúa ban cho riêng mình, lúc nào cũng quan tâm suy tư về lợi lộc, tiện nghi, an toàn của mình, rốt cuộc ta sẽ đánh mất sự sống ấy. Trái lại, nếu dám mạo hiểm, liều lĩnh đầu tư thời giờ, công sức cho Nước Trời, rốt cuộc ta lại có được sự sống đời đời, sự sống đích thật từ Thiên Chúa. 
Mời Bạn: “Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn... phải đi ra từ vùng đất tiện nghi của mình của mình để đến với những ‘ngoại vi’ đang cần ánh sáng Tin Mừng” (Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 20). Liều mình “đi ra” khỏi những thói quen, tiện nghi, cơ chế, sinh hoạt quen thuộc luôn là đòi hỏi của người môn đệ Đức Giê-su để có thể thanh thoát cho việc loan báo Tin Mừng. Điều này có ý nghĩa với bạn không?
Sống Lời Chúa: Tôi xét xem điều gì cản trở không cho tôi dám liều mạng sống mình cho Chúa (tiện nghi, hưởng thụ, danh dự, khôn ngoan tính toán kiểu thế gian...) và tìm cách sửa đổi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, cảm tạ Chúa đã liều mạng sống vì chúng con, nhờ đó, chúng con có được sự sống đời đời. Xin giúp chúng con cũng dám liều sự sống cho Chúa và cho nhau. Amen.

Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 31-8
Chúa Nhật XXII Thường niên
Gr 20, 7-9; Rm 12, 1-2; Mt 16, 21-27.

LỜI SUY NIỆM: “Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người sẽ đi Giêrusalem, phải chịu nhiều điều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.”
Chúa Giêsu luôn nói sự thật, và Người muốn chúng ta phải tin trọn vẹn Lời Người nói. Nên trong cuộc sống của người Kitô hữu; luôn tin có sự đồng hành của Người. Người luôn mời gọi chúng ta chấp nhận những cái mà thế gian cho là mất, là thiệt thòi; nhưng sẽ nhận được những cái từ tình yêu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Đường Thánh Giá dẫn đến vinh quang Phục Sinh. Xin Chúa ban nhiều ân sủng cho mọi thành viên trong gia đình chúng con, để chúng con vác thập giá của mình đi theo Chúa mọi ngày cho đến trọn đời.
Mạnh Phương


31 Tháng Tám
Ốc Ðảo Hòa Bình
Cách Giêrusalem khoảng 30 cây số, một số người Do Thái và Ả Rập đã tình nguyện sống chung với nhau trong một ngôi làng mà người Do Thái gọi là Nevé Shalom, còn người Ả Rập thì gọi là Wahat as Salam: cả hai tiếng đều có nghĩa là "Ốc đảo hòa bình".
Năm 1978, khi mới thành lập, ngôi làng Hòa Bình này chỉ có một gia đình. Một năm sau, con số đó lên đến năm và hiện nay, có tất cả 15 gia đình vừa Do Thái vừa Ả Rập chung sống với nhau. Tổng cộng dân số của ngôi làng Hòa Bình này hiện nay là 70 người. Tất cả đều đeo đuổi một mục đích chung là minh chứng rằng người Do Thái và người Ả Rập có thể sống chung với nhau mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của nhau.
Người sáng lập ngôi làng này là cha Bruno Hussar, một linh mục công giáo năm nay 78 tuổi. Cha ngài là một người Pháp gốc Do Thái và mẹ ngài là một người Hungary cũng gốc Do Thái. Cả hai đều là những người Do Thái khổ đạo. Năm lên 22 tuổi, ngài đã trở lại công giáo và xin tu trong viện Ðaminh. Cha Bruno Hussar tuyên bố với tất cả xác tín như sau: "Trong Kinh Thánh người ta đọc được lời này: Dân Ta sống trong một ốc đảo hòa bình. Cố gắng cảm thông là điều có thể làm cho những người Do Thái và Ả Rập xích lại gần nhau, cũng như chính những người Kitô có thể đến gần với những người Hồi Giáo và vô thần".
Ước vọng của các phụ huynh của 33 trẻ em sinh ra trong ngôi làng Hòa Bình này là thấy chúng được giáo dục chung với nhau. Do đó, họ đã cho xây một vườn trẻ chung, một trường mẫu giáo chung, một trường tiểu học chung, nơi đó các trẻ em Do Thái và Ả Rập đều có thể nói một lúc hai thứ tiếng. Một người cộng tác viên của cha Bruno cho biết như sau: "Ngay từ lúc nhỏ, các trẻ em đã có thể làm quen với hai nền văn hóa một lúc. Nhưng điều đó không có nghĩa là các em sẽ đánh mất nền văn hóa của mình, trái lại càng ý thức về nguồn gốc của mình cũng như càng tôn trọng người khác".
Ðể bảo tồn văn hóa của mình, các gia đình trong ngôi làng Hòa Bình này cũng xây nhà theo sở thích của họ. Nhưng những căn nhà này không thuộc quyền sở hữu của họ. Tất cả đều chọn lựa sống một cuộc sống gần như tập thể: tuy trình độ khác nhau, nhưng tất cả mọi người đều đồng ý một mức lương giống nhau. Mỗi ngày, mọi dân cư trong ngôi làng này dùng điểm tâm và ăn trưa chung với nhau.
Người phụ tá của cha Bruno Hussar nói rằng: "Ngồi đồng bàn để nói chuyện với nhau thay vì giữ những thành kiến riêng, điều đó giúp thay đổi thái độ rất nhiều".
Cũng như trong tinh thần đó, từ 10 năm qua, 15 gia đình trong ngôi làng Hòa Bình này đã tổ chức được rất nhiều cuộc gặp gỡ cho giới trẻ Do Thái và Ả Rập. Người ta cũng đã nghĩ đến một nhà cầu nguyện chung, chung không những cho người Do Thái và Ả Rập, mà còn chung cho những người không tín ngưỡng nữa...
Thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối... Những người dân cư trong ngôi làng Hòa Bình trên đây, hẳn đã thấy được vết dầu loang của Hòa Bình mà họ đã tung ra. Một ánh lửa được đốt lên sẽ không bao giờ tàn lụi một cách vô ích. Nó sẽ lan ra và khơi dậy những ngọn lửa mới.
Tình yêu là điều có thể có giữa con người. Hòa bình là điều mà con người có thể xây dựng nếu con người biết tin tưởng nhau, biết chấp nhận nhau, biết tôn trọng sự khác biệt của nhau...
Trong phạm vi nhỏ bé của một tổ, của một khu phố, của một xóm làng, liệu những người Kitô chúng ta có thể xây dựng được một ngôi làng Hòa Bình với nhau không?...
(Lẽ Sống)




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét