08/05/2016
Chúa Nhật tuần 7 Phục Sinh
CHÚA THĂNG THIÊN.
LỄ TRỌNG. LỄ HỌ. Cầu cho giáo dân
(phần II)
Phụng
vụ Lời Chúa: Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên -
Năm C
CHÚA NHẬT
LỄ CHÚA THĂNG THIÊN NĂM C
LỄ CHÚA THĂNG THIÊN NĂM C
(Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mc 16,15-20)
SỨ VỤ CỦA KITÔ HỮU:
ĐƯỢC SAI ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG
ĐƯỢC SAI ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG
“Phải nhân danh Thầy
mà rao giảng cho muôn dân,
bắt đầu từ Giêrusalem,
kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.
Chính anh em là chứng nhân
về những điều này.”
(Lc 24,47-48)
mà rao giảng cho muôn dân,
bắt đầu từ Giêrusalem,
kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.
Chính anh em là chứng nhân
về những điều này.”
(Lc 24,47-48)
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đề cập đến biến cố Chúa Giêsu Kitô Thăng Thiên (lên Trời) nhưng sứ điệp lại nhấn mạnh đến việc sai đi loan báo Tin Mừng ở dưới đất (truyền giáo). Đó là cách các Tông Đồ tiếp nối sứ vụ của Đức Giêsu. Nhờ đó, các Tông Đồ cùng với những ai đón nhận sứ điệp Tin Mừng sẽ được chung phần vinh quang của Chúa Giêsu Kitô trong Nước Trời.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. BÀI ĐỌC I (Cv 1,1-11)
Cv 1,1-11 với Lc 24,50-53 (của cùng một tác giả Luca) là hai đoạn văn Tân Ước minh nhiên trình thuật biến cố Chúa Giêsu Kitô lên Trời. Dầu vậy, bản văn Cv nhấn mạnh đến lệnh truyền Loan báo Tin Mừng. Đây là một sứ vụ tiếp nối chương trình cứu độ của Chúa Giêsu Kitô. Vì chủ đích này, ngay những câu đầu tiên, Sách Công vụ Tông Đồ đã tóm lược nội dung Tin
Mừng theo Thánh Luca, đó là “tường
thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho đến ngày Người được rước lên trời” (Cv 1,1-2a) mà các Tông Đồ đã tận mắt thấy tai nghe. Biến cố Chúa Giêsu Kitô lên Trời kết thúc giai đoạn “Công bố Tin Mừng” của Đức Giêsu từ Galilêa đến Giêrusalem; đồng thời, mở ra một giai đoạn mới, nhưng vẫn tiếp nối giai đoạn cũ của Đức Giêsu, là “Loan báo Tin Mừng” của các Tông Đồ từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất.
Đức Giêsu đã được nhận Chúa Thánh Thần trong biến cố chịu Phép Rửa và để Người tác động trong suốt sứ vụ của mình thế nào, thì lúc này “anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em” để dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ được sai đi làm chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô “tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa, Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”.
Biến cố lên Trời của Đức Kitô làm cho tâm trí các Tông Đồ “hướng về trời”, nhưng phải được thực hiện bằng việc “trở lại mặt đất” để loan báo Tin Mừng. Nhờ thế, một ngày nào đó, Đấng vừa lên trời vinh hiển mà các Tông Đồ vừa chiêm ngưỡng lại đến trong
vinh quang để đón các ông và những kẻ tin cùng lên trời.
2. BÀI ĐỌC I (Ep 1,17-23)
Chúa Giêsu
Kitô lên Trời là bảo chứng cho niềm hy vọng và là gia nghiệp cho những ai ra đi loan báo Tin Mừng, và cho cả những kẻ đón nhận Tin Mừng. Qua sự kiện này, quyền lực vô biên Thiên Chúa được biểu dương nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu khổ nạn, chịu chết, đã phục sinh và nay lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, qua việc tôn vinh Người làm Chúa trên mọi quyền lực thần thiêng.
Khi được siêu thăng, Chúa Giêsu Kitô có quyền năng trên tất cả mọi sự và được đặt làm Đầu của Hội Thánh. Là thân thể có Chúa Giêsu Kitô là Đầu, Hội Thánh chính là sự viên mãn của Người. Đồng thời, vì Hội Thánh vừa là chứng nhân của các sự kiện liên quan đến cuộc đời và sứ vụ của Đức Giêsu, vừa được chia sẻ quyền năng của Người nên có sứ mạng loan báo Tin Mừng để làm cho tất cả mọi người được viên mãn trong Đấng vừa được siêu thăng.
3. BÀI TIN MỪNG (Mc 16,15-20)
Khác với các Tin Mừng theo thánh Mátthêu và thánh Máccô thuật việc Chúa Giêsu lên Trời tại Galilê, Tin Mừng theo thánh Luca thuật biến cố Đức Giêsu lên Trời tại một nơi gần Bêtania (Lc 24,50), vẫn thuộc Giêrusalem. Sự khác biệt này là tuỳ theo chủ đích của từng Tin Mừng. Mátthêu và Máccô cố ý nhấn mạnh rằng các môn đệ sẽ nhận sứ vụ và bắt đầu tại nơi Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ của Người tại Galilê. Sau này, đi tới đâu thì các ông sẽ nói những điều Đức Giêsu đã loan báo và làm những việc Đức Giêsu đã làm mà các ông đã nghe, đã chứng kiến khi theo Người. Còn Luca nhấn mạnh rằng sứ vụ của Đức Giêsu bắt đầu từ Galilê và đã kết thúc ở Giêrusalem. Đến lượt, các môn đệ sẽ nhận lãnh và tiếp tục sứ vụ của Đức Giêsu từ Giêrusalem đến tận cùng trái đất (Cv 1,8). Tuy nhiên, các trình thuật đều nhấn mạnh một điểm cốt yếu chung, đó là mệnh lệnh cuối cùng mà Chúa Giêsu Kitô truyền cho các môn đệ trước khi lên Trời là sứ vụ Loan báo Tin Mừng.
Vì thế, sứ vụ này rất quan trọng, mang tính chất sống còn của các môn đệ. Theo Tin
Mừng Luca,
Chúa Giêsu Kitô đã truyền dạy: Phải nhân danh Thầy mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính
anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,47-48). Lệnh truyền này khiến các môn đệ phải “đi ra” loan báo Tin Mừng (truyền giáo), hầu đem lại ơn cứu độ cho mọi người khắp nơi.
Như vậy, chính lúc Chúa Giêsu Kitô kết thúc sứ vụ của Người ở trần gian, các môn đệ lại bắt đầu sứ vụ của mình bằng cách đi khắp nơi loan báo Tin Mừng. Khi làm như vậy, các môn đệ tiếp nối sứ vụ cứu độ mọi người của Chúa Giêsu Kitô.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđê, Sammari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Chúa Giêsu Kitô thăng thiên nhưng Người truyền cho các Tông Đồ, tức là Hội Thánh tiếp nối công cuộc cứu chuộc của Người cho đến mọi miền trên trái đất. Thi hành lệnh truyền này là sứ vụ cốt yếu làm nổi bật căn tính của Hội Thánh và cũng là của mỗi Kitô hữu. Sự sống còn của Hội Thánh tùy thuộc vào sứ vụ này. Phải chăng điều cốt lõi nơi đời sống đạo của mỗi giáo xứ, mỗi dòng tu, mỗi đoàn thể và nhất là mỗi Kitô hữu phải liên quan đến việc làm chứng về cuộc khổ nạn, chết và phục sinh để cứu độ mọi người của Đức Kitô, nghĩa là đem Tin Mừng đến mọi người mọi nơi? Sứ vụ này bắt đầu từ“Giêrusalem”, phải chăng đó là bắt đầu từ môi trường mình đang sống, qua những lời nói và gương sáng trong đời sống hằng ngày, rồi sau đó lan tỏa sang môi trường rộng hơn, và cuối cùng “đến tận cùng trái đất”?
2. “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy” (Cv 1,8).
Nếu các Tông Đồ đã được Đức Giêsu tuyển chọn nhờ Thánh Thần (Cv 1,2) thì cũng sẽ nhờ Thánh Thần để sai đi loan báo Tin Mừng và làm Phép Rửa (Cv 1,5.8). Việc loan báo Tin Mừng là sứ vụ của Hội Thánh nhưng do tác động của Chúa Thánh Thần và có Chúa Giêsu Kitô cùng hoạt động. Phải chăng khi thực hiện sứ vụ truyền giáo, mỗi Kitô hữu chúng ta cần hành động theo sự tác động khôn ngoan của Chúa Thánh Thần? Chúng ta có ý thức rằng mặc dù Đức Giêsu đã lên Trời nhưng Người vẫn đang “cùng hoạt động” với mỗi Kitô hữu chúng ta dưới thế khi chúng ta thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, và Người sẽ dùng các “dấu lạ” để xác nhận công việc truyền giáo này của Hội Thánh (Mc 16,20)?
3. “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời?” (Cv 1,11). Thánh lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta hướng lòng về trời, nơi mà Đức Giêsu đã lên để chuẩn bị và sẽ lại đến để đón chúng ta. Tuy nhiên, các Kitô hữu không thể cứ đứng đó “nhìn trời” mà chờ, nhưng muốn về trời thì trước hết phải “ra đi” sống đời chứng nhân trước đã. Đó là điều Đức Giêsu đã truyền “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48). Nếu “Dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha chính là Đức Kitô Giêsu” (Tông sắc Dung mạo
Lòng thương xót, 1), mà Đức Giêsu đã lên Trời thì phải chăng đây là lúc
chúng ta cần phản ánh dung mạo lòng thương xót đó dưới mặt đất, bằng cách đến với những người bất hạnh. Phải chăng điều Chúa muốn là một Hội Thánh “nhập thế” hay “vào đời”?
4. ĐGH
Phanxicô nói: “Email, tin nhắn, mạng xã hội và trò chuyện cũng có thể là những hình thức truyền thông đầy tính nhân văn… Truyền thông, dù ở đâu và bằng cách nào, cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đây là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao. Tôi muốn dùng từ “sự gần gũi” để nói về sức mạnh truyền thông này. Cuộc gặp gỡ giữa truyền thông và lòng thương xót sẽ mang lại hoa trái vì nó tạo nên được sự gần gũi để chăm sóc, an ủi, chữa lành, đồng hành và chung vui với nhau.” (Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 49, ngày 24-1-2016). Luôn ý thức điều trên, Hội Thánh hoàn vũ đã chọn lễ Thăng Thiên hằng năm làm Ngày Quốc tế về Truyền thông để loan báo Tin Mừng. Cũng vậy, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã lấy ngày này làm ngày Truyền Thông của Hội Thánh Việt Nam. Chúng ta có nghĩ rằng các hình thức truyền thông đều có thể được sử dụng làm phương tiện tốt để loan báo Tin Mừng. Dựa theo tinh thần đó, mỗi Giáo xứ hoặc Dòng tu, mỗi Cộng đoàn hay Nhóm… có nên phát hành những bản tin, một tập san của giáo xứ; sách vở, video clips, CD hay
VCD... như là những phương thế mới để loan báo Tin Mừng cho con người thời nay hay không? Phải chăng chúng ta tìm cách sử dụng hợp lý những phương tiện truyền thông xã hội như mạng internet, trang web,
facebook để chuyển tải sứ điệp Tin Mừng giúp mọi người sống chân-thiện-mỹ, cảm nhận được lòng thương xót và gần gũi để chia vui
sẻ buồn với nhau?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Đức Kitô đã khải hoàn và lên trời vinh hiển, đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha để chuyển cầu cho nhân loại. Cộng đoàn chúng ta hãy hoan hỷ tôn vinh Chúa và tha thiết dâng lời cầu xin.
1. Ðức Kitô phục sinh đã trao sứ mạng loan báo Tin Mừng cho Hội Thánh. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần dân Chúa luôn ý thức và trung thành thực thi sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ cho mọi người bằng một đời sống chứng tá.
2. Truyền thông có vai trò và ảnh hưởng lớn trong xã hội loài người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi Kitô hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với tinh thần bác ái và đạo đức, nhằm phục vụ hữu hiệu cho công cuộc loan báo niềm vui Tin mừng.
3. “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người đang chịu đau khổ thể xác hay bị áp lực tinh thần luôn cảm nghiệm được sự đồng hành và nâng đỡ của Chúa phục sinh trong cuộc sống hằng ngày.
4. “Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta được đón nhận dồi dào ân huệ Chúa Thánh Thần là quà tặng của Đấng phục sinh, và trở nên công cụ hữu hiệu của Người.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã mở đường dẫn lối chúng con về quê trời qua cuộc phục sinh và lên trời của Con Một Chúa. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban ơn nâng đỡ giúp chúng con luôn vững bước trên hành trình thiêng liêng về bên Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Chủ đề :
Chuyển sang một giai đoạn mới
"Hãy nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân" (Lc 24,47)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I (Cv 1,1-17) : Những lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu trước
khi thăng
thiên.
- Đáp ca (Tv 46) : Chúa lên trời,
tiếng hò reo
dậy đất ; Chúa lên trời, nhịp kèn sáo trổi
cao.
- Bài đọc II (Êp
1,17-23) : Thánh Phaolô giải thích ý nghĩa việc Chúa Giêsu "lên trời" :
"Thiên Chúa đã tôn Đức Kitô lên"
- Tin Mừng (Lc 24,46-53) : Chúa Giêsu sai các môn đệ rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
I. Dẫn vào Thánh lễ
Việc Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây,
loan báo
Tin Mừng chủ yếu là việc của Chúa Giêsu. Nhưng từ đây,
việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó,
khi từ biệt các môn đệ, Chúa Giêsu đã trao sứ mạng "Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân
danh Chúa
Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần".
Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa
trao.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta có lỗi vì hay quên rằng Chúa Giêsu là Đấng đang sống và đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền.
Do lỗi này nên chúng ta dễ chán nản và không cậy dựa vào Ngài.
- Chúng ta có lỗi vì chỉ hướng về trời mà quên trách nhiệm xây dựng thế giới của mình.
- Chúng ta có lỗi vì ít
quan tâm
loan báo
Tin Mừng.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I : Cv 1,1-11
Những lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu trước
khi thăng
thiên :
- Chúa Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn đang
sống.
- Ngài căn dặn họ chờ điều Thiên Chúa hứa
ban, tức là ban
Chúa Thánh Thần.
- Trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Ngài trên khắp thế giới.
2. Đáp ca : Tv 46
Tv này ca tụng vương
quyền của Giavê Thiên Chúa. Phụng vụ hôm
nay áp dụng Tv này
cho Chúa Giêsu, Đấng được Thiên Chúa tôn lên làm vua và trao cho mọi quyền hành trên trời dưới đất.
3. Bài đọc II : Êp
1,17-23
Thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn
ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.
4. Bài Tin Mừng : Lc 24,46-53
Bài
Tin Mừng này có hai phần :
1.
Những lời căn dặn cuối cùng của Chúa Giêsu (cc 46-49) :
- Sự
cần thiết của Thập giá : đã có chép từ lâu trong Sách Thánh rằng Đấng cứu
thế phải qua chịu nạn rồi mới tới phục sinh.
-
Môn đệ Chúa phải rao giảng và làm chứng về việc Ngài chết và sống lại.
-
Chúa Giêsu sẽ ban Thánh Linh cho môn đệ.
2.
Chúa Giêsu lên trời (cc 50-53) : Luca đã dùng cách viết của loài người để
tạm diễn tả việc Chúa Giêsu siêu thăng. Ngài siêu thăng không có nghĩa là Ngài
rời bỏ một nơi (trái đất) để đến một nơi khác (trời), mà là
-
Ngài thay đổi tình trạng : không còn ở tình trạng loài người hèn hạ nữa,
mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa.
-
Ngài cũng thay đổi cách hiện diện : từ nay Ngài không thường xuyên hiện
diện giữa chúng ta bằng thân xác hữu hình của Ngài nữa, nhưng vẫn hiện diện một
cách vô hình dù chúng ta không thấy.
IV. Gợi ý giảng
1. Thời
kỳ sứ mạng của Giáo Hội
Thánh
Lễ hôm nay có 2 bài đọc của cùng một tác giả là Thánh Luca : Bài đọc 3
trích phần cuối của quyển Tin Mừng Luca, và bài đọc 2 trích phần đầu của sách
Công vụ. Mà chúng ta biết thánh Luca viết một tác phẩm gồm 2 tập : tập I
là sách Tin Mừng viết về sứ mạng của Chúa Giêsu bắt đầu từ Galilê đến
Giêrusalem, tập II là sách Công vụ viết về sứ mạng của Giáo Hội bắt đầu từ
Giêrusalem đến toàn thế giới. Vậy nếu đặt 2 bài đọc của Thánh lễ này vào toàn
bộ tác phẩm của thánh Luca thì chúng ta sẽ hiểu rằng tác giả muốn nói :
việc Chúa Giêsu thăng thiên là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó, hay nói cách
khác, lúc Chúa Giêsu thăng thiên là lúc Chúa Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho
Giáo Hội. Bây giờ chúng ta hãy dựa vào một số chi tiết trong hai bài đọc ấy để
tìm hiểu sứ mạng của Giáo Hội và cũng là của chúng ta.
Trước
hết, sứ mạng ấy là gì ? Thưa là sứ mạng "làm chứng", như lời
Chúa Giêsu nói "Chúng con sẽ là chứng nhân của Thầy".
Chứng nhân, hay người làm chứng, là kẻ nghe gì nói y lại như vậy, thấy sao
thuật y lại như vậy, rất đúng, rất trung thực.
Chúng
ta làm chứng cho ai ? Thưa cho Chúa Giêsu. Mà theo cách mô tả của thánh
Luca, Chúa Giêsu nay đã lên trời, có một đám mây che khuất Ngài. Không biết có
thực ngày xưa đã có một đám mây từ trời đáp xuống như một chiếc dĩa bay, rồi
hai thiên thần mời Chúa Giêsu bước lên đứng trên chiếc dĩa bay đó, rồi sau đó
chiếc dĩa bay bằng mây từ từ cất lên cao hay không. Điều này không chắc, vì 3
thánh sử kia, tức Matthêu, Máccô và Gioan đều không hề nói về đám mây đó. Thực
ra, qua hình ảnh đám mây che khuất, thánh Luca muốn nói rằng Chúa Giêsu không
còn hiện diện hữu hình nữa, mắt người phàm không còn trông thấy được Ngài nữa.
Nhưng những kẻ làm chứng cho Ngài phải làm chứng thế nào để người ta như là
thấy được Ngài thực sự.
Chúng
ta làm chứng thế nào ? Sách Công vụ có ghi một chi tiết : Đang lúc
các tông đồ cứ dõi mắt đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy thì hai thiên thần nói
với họ : "Hỡi người Galilê, sao còn mãi đứng nhìn trời". Câu nói
bỏ lửng nhưng có nhiều ngụ ý. Chúng ta có thể đoán ra được những ngụ ý
sau :
-
Đừng luyến tiếc nữa cái thời các ông có Chúa Giêsu ở bên cạnh một cách hữu hình
và mọi sự đều do Chúa Giêsu làm hết. Bây giờ đã tới phiên các ông hoạt động,
hãy tự mình hoạt động, dĩ nhiên là cũng có sự trợ giúp của Chúa Giêsu vẫn còn
hiện diện cách vô hình bên cạnh các ông, nhưng chính các ông phải hoạt động.
-
Ngụ ý thứ hai là đừng chỉ mãi mê mơ tới ngày được lên hưởng thiên đàng với Chúa
Giêsu, điều quan trọng trước mắt là phải quay về với thế giới hiện tại. Hạnh
phúc thiên đàng phải được xây dựng ngay từ trần thế này.
Và
chúng ta sẽ làm chứng cho Chúa Giêsu ở đâu ? Chúa Giêsu đã nói rõ :
"Chúng con sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, Giuđê, Samari và cho đến
tận cùng thế giới". Giêrusalem là nơi lúc ấy các tông đồ đang ở, Giuđê xa
hơn một chút nhưng cũng quen thuộc vì có nhiều người đã tin Chúa, Samari tuy
gần mà xa vì dân miền đó tuy biết Chúa Giêsu nhưng không có cảm tình với Ngài,
đến tận cùng thế giới là mục tiêu xa nhất và bao quát nhất. Khi vẽ một bản đồ
hành trình làm chứng như thế, ý Chúa Giêsu là hãy bắt đầu làm chứng cho Ngài
ngay từ trong nội bộ của mình, rồi từ từ mới lan dần ra. Chúng ta thấy các tông
đồ đã thực hiện đúng như thế : nhờ cộng đoàn Giêrusalem sống đoàn kết hiệp
nhất, tương thân tương trợ mà người ngoài nhìn vào đã mến phục và xin gia nhập
Giáo Hội, thế rồi từ Giêrusalem Giáo Hội lan sang Giuđê, lan sang Samari, lan
sang Antiôkia và dần dần tỏa ra khắp thế giới.
Các chi
tiết trong hai bài đọc Tin Mừng và sách Công vụ giúp chúng ta thấy được sứ điệp
Lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay :
-
Chúng ta đã quen dự Thánh Lễ, đọc kinh cầu nguyện và làm một số việc đạo đức
khác. Tuy nhiên chúng ta đừng chỉ mãi mê lo xây dựng hạnh phúc thiên đàng cho
riêng mình, mà hãy biết lo xây dựng hạnh phúc thiên đàng cho người khác nữa.
-
Nói là xây dựng hạnh phúc thiên đàng, nhưng không phải bằng cách chỉ lo đến
những việc đời sau, hạnh phúc thiên đàng phải được xây dựng ngay tại cuộc sống
trần thế này.
- Và
ở trần thế này, nơi chúng ta phải ưu tiên xây dựng hạnh phúc là chính trong nội
bộ của mình. Cộng đoàn chúng ta có hạnh phúc thì mới là một hình ảnh đẹp khuyến
khích người ngoài đến chia xẻ niềm tin, chia xẻ cuộc sống và chia xẻ hạnh phúc
của chúng ta.
- Đó
chính là cách chúng ta làm chứng cho Chúa, làm cho người ta tuy bị một áng mây
chia cách giữa hữu hình với vô hình nhưng cảm thấy như thực sự nhìn thấy Chúa.
Thấy Chúa ở trong chúng ta, ở trong cộng đoàn chúng ta và Giáo Hội chúng ta.
2. Hiện
diện và vắng mặt
Kể
từ khi Chúa Giêsu Thăng thiên, Ngài không còn hiện diện cách hữu hình giữa các
môn đệ nữa. Nhưng sự vắng mặt thể lý không có nghĩa là không còn hiện diện nữa.
Thực
ra nhiều khi sự hiện diện thế lý chẳng là gì cả. Hai người sống chung một nhà,
ăn chung một bàn, và thậm chí ngủ chung một giường nhưng vẫn cảm thấy xa nhau
vạn dậm, bởi vì lòng và trí họ quá xa nhau. Như người ta nói "đồng sàng,
dị mộng" (chung giường nhưng giấc mộng khác nhau).
Trái
lại dù thể xác xa cách nhau vạn dậm nhưng người ta vẫn có thể cảm thấy rất gần
nhau, miễn là người ta thương nhau và hiểu nhau. Có khi nhờ xa nhau một thời
gian mà người ta lại thương nhau hơn và hiểu nhau hơn.
Hơn
nữa, trong thời gian ta hiện diện bên cạnh một người thân, nếu đó là một sự
hiện diện trọn vẹn thì khi xa nhau, chính sự vắng mặt ấy lại sinh nhiều hoa
trái, bởi vì những kỷ niệm lúc gần nhau và tình nghĩa thắm thiết lúc sống bên
nhau sẽ còn tiếp tục nuôi dưỡng người thân ấy. Như thế, đối với những người
thân nhau thì cả sự hiện diện lẫn sự vắng mặt đều là những món quà.
Từ
khi thăng thiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không còn bị hạn chế về không gian
và thời gian nữa, nhưng nhờ đó mà Ngài có thể hiện diện ở khắp nơi và trong mọi
lúc.
Các
kitô hữu đầu tiên đã hiểu rất rõ điều này. Họ biết Chúa Giêsu vẫn ở bên họ, tuy
không cùng một cách như trước nữa. Họ tin rằng Ngài đang chia xẻ cuộc sống của
họ ; họ còn tin rằng cái chết sẽ giúp họ được hợp nhất mãi mãi với Ngài
trong vinh quang.
Có
lẽ nhiều người cho rằng các tông đồ ngày xưa hạnh phúc hơn mình bây giờ, bởi vì
các vị ấy đã được nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng các sách Tin Mừng viết rằng dù
mắt họ nhìn thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn chưa hiểu Ngài là ai. Họ chỉ hiểu được
Ngài khi đọc sách Thánh và khi dự lễ bẻ bánh.
Đọc
sách Thánh và dự lễ Bẻ bánh, đó là những phương tiện giúp nhận ra Chúa Giêsu.
Mà những phương tiện này chúng ta ngày nay cũng có. Cho nên, xét về vấn đề nhận
ra Chúa Giêsu bằng đức tin thì chúng ta ngày nay cũng chẳng thua thiệt gì hơn
so với các tông đồ ngày xưa.
Ngày
xưa Chúa Giêsu đã trông cậy vào các tông đồ để Tin Mừng được rao giảng khắp nơi
và được mọi người sống theo Tin Mừng ấy. Ngày nay Chúa Giêsu cũng trông cậy nơi
chúng ta như thế. Chúng ta phải làm chứng về Ngài cho mọi người trong thế giới
hôm nay. (FM)
3. Loan
Tin Mừng và học Tin Mừng
Thông
thường, những lời cuối cùng của một người trước khi người ấy từ giã cõi đời, là
những điều hết sức quan trọng mà người ấy muốn những người thân yêu ở lại thực
hiện. Và những người ở lại thường coi những lời người sắp từ giã thế gian trăn
trối như một điều linh thiêng cần thực hiện cho bằng được.
Trước
khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặc các tông đồ : "Phải nhân danh Ngài
mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem…" Như vậy, sứ điệp quan
trọng nhất mà Đức Kitô muốn trao gửi lại cho các môn đệ, và cho mọi Kitô hữu
là : hãy tiếp tục sứ mạng loan báo và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài
trước mọi người, mọi dân tộc trên thế giới.
Thế
nhưng thế nào là loan Tin Mừng ?
Nhiều
người nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là tỏ cho người khác biết mình là Kitô hữu,
là làm dấu thánh giá nơi quán ăn, là can đảm xưng mình là người Thiên Chúa giáo
trong các tờ lý lịch bất chấp những bất lợi sẽ xảy ra. Kẻ khác nghĩ rằng loan
báo Tin Mừng là cố gắng sống cho thật đạo đức, năng đi lễ, năng chịu các bí
tích, với mục đích làm gương sáng cho người chung quanh, đồng thời khuyên mọi
người làm như vậy. Người khác nữa thì gặp những người ngoại đạo mình quen biết,
liền tìm cách gạ gẫm, thuyết phục họ vào đạo, bằng cách nói cho họ biết vào đạo
thì được Chúa ban ơn này ơn kia, v.v…
Kết
quả của những việc đó có thể là chúng ta lôi kéo được một số người vào đạo,
hoặc làm cho nhiều người khô khan năng đi lễ, năng đến nhà thờ, năng chịu các
bí tích hơn, hoặc làm cho đời sống gia đình của họ trở nên đầm ấm hơn, hạnh
phúc hơn, v.v
Tất
cả những điều đó là những điều nên làm, cần làm, nhưng chưa phải là loan báo
Tin Mừng đúng nghĩa. Muốn loan báo Tin Mừng cho đúng nghĩa, chính người loan
báo phải biết Tin Mừng là gì, phải cảm thấy Tin mình loan báo là điều đã làm mình
hạnh phúc, vui tươi, làm cho đời sống mình trở nên có ý nghĩa. Nếu không như
thế, thì mình chỉ làm công việc «mù mà lại dắt mù», và kết quả
là «cả hai sẽ lăn cù xuống hố» (Mt 15,14 ; Lc 6,39).
Thật
vậy, nếu chính mình chưa cảm thấy Tin Mừng đã ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống
mình, chưa thật sự thay đổi đời sống mình, mà mình lại đi rao giảng Tin Mừng,
muốn Tin Mừng ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống người khác, thì có khác gì «cho
đi cái mình chẳng có» ? Như thế thì người nhận sẽ nhận được
gì ?
Vì
thế, chúng ta cần phải năng học hỏi về Tin Mừng, nhất là suy gẫm Tin Mừng, để
Tin Mừng thấm sâu vào tư tưởng, lời nói, việc làm và đời sống của ta. Có như
thế, việc loan báo Tin Mừng của ta mới có sức thuyết phục.
4. Cuộc
sống chứng nhân
Báo
"Le Figaro" mới đăng trả lời phỏng vấn của Tổng thống Nga Putin.
Trong đó có câu hỏi như sau :
Hỏi - Trong một cuộc
trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa
Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng Ông lại là cựu sĩ quan của
tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó ?
Trả
lời -
Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều
trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà
nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm
thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn
hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của
thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.
Mẹ
tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm
thời Liên xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ.
Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại
mộ Chúa Giêsu ?
*
Trước
khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các Tông đồ sứ mạng cao cả : "Phải
nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân" (Lc 24,47). Người muốn
chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người
cho đến tận thế.
Tổng
thống Nga Putin quả tà một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng
mình có đạo, tin đạo và sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí : "Tôi
tự hào là một người tín hữu... Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự
bình an trong tâm hồn".
Khi
Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng
niềm tin, tin vào Đấng đă chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần
và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi
Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế
giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh ; xứng với trời
mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật
là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm
chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân
trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.
Đã
qua 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết
tới ! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện
rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Đức Kitô cho thế giới, trước hết
chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình ; sau đó, lời rao
giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã
viết : "Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại
muốn có những tông đồ quyết sống vì Người !"
Con
người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác
tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích
chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân,
phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén : "Người
ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo
Người".
*
Lạy
Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng
con đi.
Xin
Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận
được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin
cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng
cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen. (TP, năm C)
5. Sứ
mạng Chúa trao cho Giáo Hội
Đức
Kitô phục sinh đã ở lại với các môn đệ của Ngài 40 ngày sau khi Ngài từ cõi
chết sống lại. Việc Chúa phục sinh sống với các môn đệ 40 ngày là để Ngài có
thời gian dậy bảo, động viên, an ủi và chỉ vẽ thêm cho các môn đệ trước khi
Ngài ra đi về cùng Cha của Ngài (Cv 1, 3).Lần cuối cùng trước khi rời các ông,
Chúa phục đang lúc đồng bàn với các ông, đã truyền cho các ông chớ rời khỏi
Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần trước khi chia tay nhau đi khắp
nơi giảng Tin Mừng cứu độ (Cv 1, 8).
Rồi
hôm nay, Chúa phục sinh dẫn các môn đệ lên núi cây Dầu, trao sứ mệnh loan báo
Tin Mừng cho các ông và một cách nào đó cho toàn thể Giáo Hội (Mt 28, 16-20).
Để ban ủi an, khích lệ các ông, Chúa phục sinh giơ tay chúc lành tức đổ ơn huệ
xuống trên các ông, và Chúa cất mình lên trời trước mặt các ông (Cv 1, 9-12).
1.
Tại sao các ngươi cứ đứng đó mà nhìn lên trời :
Sự
kiện Chúa về trời làm cho các môn đệ bỡ ngỡ, các Ngài không khỏi bàng hoàng dù
rằng Chúa đã nói trước với các ông, đã căn dặn các ông, Ngài về với Chúa Cha,
Ngài ra đi thì ích lợi hơn cho các ông. :"…Thầy ra đi thì Đấng bầu
chữa mới đến với các con" (Ga 16, 6-7).Vì sứ mệnh của Chúa Thánh Thần là
dậy dỗ, an ủi các tông đồ, soi sáng và thêm sức mạnh cho các ông để các ông có
sức mạnh, lòng đại độ, sự quả cảm mà ra đi rao giảng Tin Mừng (Ga 14, 26 ;
15, 26-27).
Nhưng
trước khi chia tay đi rao giảng, Chúa phục sinh đã căn dặn các tông đồ hết sức
cẩn thận : "Đừng rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy ở tại đó cùng với Mẹ
Maria để đón nhận Chúa Thánh Thần ".
Việc
Chúa Lên trời hay nói một cách cụ thể hơn là Ngài ra đi, trở về, kết hiệp với
Chúa Cha để thực hiện lời hứa ban Đấng phù trợ tới cho các môn đệ và cho toàn
Giáo Hội là một mầu nhiệm của lòng tin vì hôm nay chấm dứt một giai đoạn Chúa
phục sinh hiện diện, chứng minh cho các môn đệ thấy rằng mình vẫn sống giữa các
ông (Cv 1, 3).
Thời
gian 40 ngày là giai đoạn Chúa minh chứng cho các tông đồ, Ngài đang sống cách
hữu hình, đang làm những việc cụ thể, cùng trao đổi, bàn bạc, cùng ăn, cùng
sinh hoạt với các môn đệ. Giờ đây, Chúa về trời là để ban Thánh Thần cho các
môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội. Đây không phải là lúc các môn đệ tiếc
nuối cái mơ ước ám ảnh, Chúa của các ông sẽ khôi phục lại vương quốc Israen, để
các ông ăn trên ngồi trước các người khác (Cv 1,6).
Cái
thực tế mà các môn đệ phải thuộc nằm làu là " Anh em Hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ. Ai tin, anh em hãy làm phép rửa cho Họ nhân danh
Chúa cha, Chúa Con và Chúa thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ những Điều Thầy đã
truyền cho anh em " (Mt 28, 16-20). Chúa về trời, các môn đệ vẫn còn bỡ
ngỡ cùng với mọi người ở Galilêa. Nhưng, Chúa về trời là một mối phúc cho các
Môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội vì Chúa có về trời Thánh Thần mới được
ban xuống. Chúa về trời, nhưng dứt khoát các môn đệ sẽ không bơ vơ vì Chúa hứa
sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho tới tận thế
2.
Chúa về trời là một mối phúc lớn lao :
Thật
ra, Chúa về trời mang lại cho nhân loại, cho Giáo Hội và cho các tông đồ một
mối Phúc lớn lao vì nếu Chúa không ra đi thì Đấng bàu chữa không đến. Chúa về
trời, Ngài đã làm tròn lời hứa ban Thánh Thần và trao quyền năng cho các tông
đồ, cho Giáo Hội :" Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho
Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân…Thầy ở cùng các con mọi ngày cho
đến tận thế " (Mt 28, 17-20).
Lệnh
truyền của Chúa phục sinh đã được thể hiện ngay nơi con người của Chúa, Chúa đã
ban quyền năng cho các tông đồ, qua đó các Ngài có đủ mọi uy quyền thiêng liêng
phục vụ mọi người. Chúa ban Thánh Thần để giúp các môn đệ kiên cường làm chứng
cho Chúa phục sinh và loan báo Tin Mừng. Chúa ban Thánh Thần để Giáo Hội luôn
bền vững, trung kiên làm tròn sứ mạng truyền giáo.
Dầu
con người không thể nhìn thấy Chúa bằng xương bằng thịt, nhìn thấy Chúa cách
hữu hình, nhưng Chúa vẫn có mặt với Giáo Hội ở khắp mọi nơi cho tới ngày cùng
tận. Lời hứa của Chúa ở cùng môn đệ và nhân loại cho đến ngày tận thế là lời
bảo đảm vững chắc nhất về sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội muôn muôn đời.
Chúa Giêsu Phục sinh luôn đồng hành với Giáo Hội, với nhân loại, với các tông
đồ trên vạn nẻo đường truyền giáo. Sứ mạng truyền giáo, loan báo Tin Mừng và
giới thiệu Chúa Kitô Phục sinh cho nhân loại là lệnh truyền khẩn thiết nhất và
quyết liệt nhất Chúa trao cho các môn đệ và cho Giáo Hội. Chúa đang trao, Chúa
đang chuyền một cây gậy, một ngọn lửa đức tin để các tông đồ và Giáo Hội thay
nhau liên tục chuyền gậy và đốt lên ngọn lửa tình yêu cho mọi người để mọi
người nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa cứu thế.
Lạy
Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lời Chúa :" Các con
là muối ướp cho mọi người…Các con là ánh sáng cho toàn nhân loại, là thành phố
xây trên ngọn đồi không thể giấu được…ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt
thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen cha các con ở
trên trời " (Mt 5,13-16)
Lạy
Chúa Giêsu, công việc cứu thế của Chúa được tượng trưng như một chiếc gậy, Chúa
đã chuyền cho các môn đệ cách đây 2002 năm để các môn đệ tiếp tục chuyền đi. Và
cứ như thế, chiếc gậy được chuyền đi cho tới ngày tận thế. (Linh mục Giuse Nguyễn
Hưng Lợi, DCCT, Vietcatholic)
6. Sứ
mệnh của người Kitô hữu
Tháng
7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành
nghĩa vụ linh mục, cha Vania đã ngã gục dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối
cùng ngài viết cho cha mẹ già có những dòng sau đây :
"Cha
mẹ yêu dấu ! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không
chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc
tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì
có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về
số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha
mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta
cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều
thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với họ là con sẽ không sợ rao giảng Tin Mừng
và tình yêu của Chúa Kitô. Đây là một sứ mệnh cao cả và con hãnh diện được tiến
bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con không xấu hổ rao giảng về Chúa Kitô. Các phép
lạ Chúa Kitô làm đều minh chứng rằng có Thiên Chúa, do đó con sẽ mạnh dạn tiếp
tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì đó là điều Chúa Thánh Thần phán bảo
con."
Rao
giảng Tin Mừng là sứ vụ Chúa Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho
Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi Ngài xa cách
con cái Ngài, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các tông
đồ : Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dậy bảo họ
luôn giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.
Qua
các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ
mệnh đó. Mặc dù Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại,
cấm cách ; nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh
mạng sống vì Tin Mừng, vì Nước Trời. Lòng can đảm, chí trung thành đó đã cho
chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn
đồng hành với mỗi người như lời Ngài đã phán : Thầy ở cùng anh em mọi ngày
cho tới tận thế. Chính tên Ngài cũng đã minh chứng điều đó, Em-ma-nu-en =
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Lạy
Chúa, Lời Chúa đã nhắc nhở cho mỗi người chúng con ý thức về sứ mệnh Kitô hữu
của mình. Xin cho chúng con biết hăng say thi hành mệnh lệnh đó trong cuộc sống
hằng ngày để ánh sáng Tin Mừng được chiếu tỏa khắp nơi. (Sr Margareta Maria
Hiền, Vietcatholic)
V. Lời nguyện
cho mọi người
Chủ
tế : Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô đã phải trải qua con đường thập
giá rồi mới bước vào vinh quang phục sinh. Với ước mong sống trọn vẹn vai trò
chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện :
1.
Chúa Giêsu hứa ban Thánh thần
cho các tông đồ / để các ngài làm chứng cho Chúa đến tận cùng trái đất / Chúng ta hiệp lời cầu
xin Chúa
cũng ban Thánh thần / giúp chúng ta trở nên những chứng nhân can trường cho Thiên Chúa là tình yêu.
2.
Rao giảng Chúa Giêsu Kitô cho hết thảy mọi nước mọi dân / đặc biệt cho các dân tộc tại lục địa châu Á mênh mông / là một việc khẩn cấp trong thiên niên kỷ thứ ba này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều người / dám xả thân
cho công
cuộc rao giảng Tin mừng cứu độ.
3. Đức tin Kitô giáo hội nhập vào văn hóa Châu Á / là một việc làm hết sức
quan trọng trong việc giới thiệu Đức Kitô cho
một châu Á đa chủng tộc / đa tôn giáo và đa văn hóa / Chúng ta hiệp lời cầu
xin cho các nhà truyền giáo / luôn
quan tâm đặc biệt đến công
việc hệ trọng này.
4. Học hỏi Tông huấn Giáo hội tại Châu Á là bổn phận quan trọng của người
Kitô hữu Á Châu / Chúng
ta hiệp lời cầu
xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tận dụng mọi cơ hội thuận tiện để học hỏi sâu rộng Tông huấn này / nhờ đó có thể
tham gia tích cực vào công cuộc
rao giảng Tin mừng.
Chủ
tế : Lạy Chúa Giêsu, trước khi được rước lên trời, Chúa đã dạy chúng con
phải rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng
con có thể thực hiện đến nơi đến chốn lệnh truyền quan trọng này. Chúa hằng
sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Chúa Giêsu phục sinh đang ở bên cạnh Chúa
Cha để làm
trung gian cho chúng
ta. Chúng
ta hãy nhờ Ngài và với Ngài dâng lên Chúa Cha lời
kinh Lạy Cha.
VII. Giải tán
Hôm nay Chúa Giêsu lặp lại với anh chị em lời Ngài đã bảo các môn đệ ngày xưa : "Anh em hãy đi đến với muôn dân…", "Anh em hãy làm chứng
cho Thầy". Chúc
anh chị em bình
an.
Lm.
Carolo HỒ BẶC XÁI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét