06/06/2016
Thứ Hai tuần 10 thường niên
Bài Ðọc
I: (Năm II) 1 V 17, 1-6
"Êlia
đứng trước tôn nhan Chúa, Thiên Chúa Israel".
Trích
sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong
những ngày ấy, Êlia người Thesbê thuộc miền Galaad, tâu vua Acáp rằng: "Có
Chúa là Ðấng hằng sống, Thiên Chúa dân Israel, mà tôi đứng trước tôn nhan!
Trong những năm sắp tới, sẽ không có sương mà cũng không có mưa, nếu tôi không
ra lệnh". Và Chúa đã phán cùng Êlia như sau: "Ngươi hãy bỏ nơi này,
đi về hướng đông và ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông Giođan. Nơi đây
ngươi sẽ uống nước suối, và Ta đã truyền cho chim quạ nuôi ngươi". Vậy ông
trẩy đi và làm như lời Chúa dạy. Ông đến ẩn náu tại suối Karit ở phía đông sông
Giođan. Sáng sớm quạ đem cho ông bánh và thịt; ban chiều quạ cũng lại đem cho
ông bánh và thịt, và ông uống nước suối.
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 120, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8
Ðáp: Ơn phù trợ của tôi do nơi danh
Chúa, là Ðấng đã tạo thành đất với trời (c. 2).
Xướng:
1) Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới?
Ơn phù trợ của tôi do nơi danh Chúa, là Ðấng đã tạo thành đất với trời. - Ðáp.
2)
Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té, Ðấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có ngủ
say. Kìa Ðấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say. - Ðáp.
3)
Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Ðấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt trời sẽ
không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban đêm. -
Ðáp.
4)
Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến, Người sẽ bảo vệ linh hồn ngươi.
Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi, khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. -
Ðáp.
Alleluia:
1 Sm 3, 9
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có
lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 5, 1-12
"Phúc
cho những ai có tinh thần nghèo khó".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy,
Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống,
các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng: "Phúc cho những
ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền
lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ
sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no
thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. -
Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc
cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những
ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".
"Phúc
cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu
khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng
của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri
trước các con như vậy".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm:
Tám mối phúc thật
Có lẽ
người Công giáo nào cũng thuộc nằm lòng Tám Mối Phúc Thật, và có lẽ nhiều người
ngoài Kitô giáo cũng đã ít hay nhiều nghe nói đến bản Hiến Chương này. Cũng giống
như bản thân Chúa Giêsu, Tám Mối Phúc Thật là dấu chỉ của sự mâu thuẫn. Nếu đối
với người Công giáo và nhiều bậc vĩ nhân của nhân loại, Tám Mối Phúc Thật là
nguồn cảm hứng cho cuộc sống cao thượng; thì đối với một số người khác, như triết
gia Nietzsch chẳng hạn, Tám Mối Phúc Thật chỉ là một lô những đức tính của loài
vật, bởi vì chỉ có loài vật mới cúi đầu khuất phục và nhẫn nhục chịu đựng; đối
với một số khác nữa, Tám Mối Phúc Thật chỉ là những lời hứa hão về một thứ
thiên đàng ảo tưởng, hay nói theo ngôn ngữ của Karl Marx, đó chỉ là thuốc phiện
ru ngủ quần chúng. Vậy đâu là tinh thần đích thực của Tám Mối Phúc Thật?
Bản
văn Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay là của thánh Mátthêu. Chúa Giêsu chỉ
công bố Tám Mối Phúc Thật một lần duy nhất, nhưng được hai tác giả ghi lại; dĩ
nhiên, với hai cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Cái nhìn của Luca có
tính xã hội: Luca giải thích các mối phúc thật dưới ánh sáng giáo huấn của Chúa
Giêsu về nghèo khó và việc sử dụng của cải trần thế, để từ đó đề cao giai cấp
những người nghèo khổ trong xã hội; với Luca, những người nghèo thật sự là những
tín hữu tiên khởi của Giáo Hội. Trái lại, Mátthêu quan tâm đến khía cạnh luân
lý nhiều hơn: nếu Luca đề cao giai cấp cùng khổ, thì Mátthêu nhấn mạnh đến tinh
thần nghèo khó: "Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó", do đó theo
Mátthêu, con người vào được Nước Trời không đương nhiên vì tình trạng nghèo
khó, mà vì thái độ tinh thần của họ; cũng trong cái nhìn ấy, Mátthêu đáng giá về
sự đói khát: nếu Luca nói đến những nạn nhân của bất công, tức những người đói
khát cơm bánh thực sự, thì Mátthêu lại nhấn mạnh đến sự đói khát công lý nơi
con người.
Tổng
hợp hai cái nhìn khác nhau của Luca và Mátthêu, chúng ta có thể đưa ra bài học
về sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Nước Chúa mà Giáo Hội loan báo không chỉ
là Thiên Ðàng trong thế giới mai hậu, nhưng đang đến trong cuộc sống tại thế
này, qua những giá trị như công bình bác ái, huynh đệ, liên đới. Chính trong những
thực tại trần thế mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những thực tại Nước Trời.
Niềm
tin của người Kitô hữu thiết yếu hướng về cuộc sống mai hậu: mọi nỗ lực của người
Kitô hữu nhằm minh chứng cho mọi người về tính cách siêu việt của cuộc sống và
định mệnh của con người. Sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, sống
giữa thế gian, nhưng con người phải nhìn về Quê hương đích thực là Thiên Quốc.
Tuy nhiên, niềm tin hướng về cuộc sống mai hậu ấy không thể làm cho người Kitô
hữu xao lãng với những nhiệm vụ trần thế của họ. Họ phải xác tín rằng chính qua
những thực tại trần thế, họ mới có thể gặp được những giá trị của Nước Trời;
chính qua những thực tại trần thế, họ mới đạt được cứu cánh vĩnh cửu của họ.
Ðây quả là một thách đố lớn lao cho người Kitô hữu ở mọi thời.
Một
trong những nguyên nhân khiến người Kitô hữu bị bách hại là bởi vì con người
không hiểu được sứ điệp của Tin Mừng. Chúa Giêsu đã bị chống đối và cuối cùng bị
treo trên Thập giá là bởi vì những người đương thời không hiểu được sứ điệp và
con người của Ngài. Ðó cũng chính là thân phận của người Kitô hữu trong trần thế,
nhưng chính khi bị bách hại mà vẫn kiên trì trong niềm tin của mình, người Kitô
hữu mới thể hiện được ý nghĩa sứ điệp của Tin Mừng.
Chúa
Giêsu đã chẳng nói: khi nào Ta bị giương cao, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta
sao? Ðó là sức mạnh và nét hấp dẫn của Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu không chỉ
rao giảng, mà còn thể hiện cho đến cùng. Chết để cho sứ điệp Tin Mừng được đón
nhận, đó là nghịch lý của Tám Mối Phúc Thật. Cái chết ấy được thể hiện trong cuộc
sống hàng ngày của người Kitô hữu, nghĩa là hăng say phục vụ, sống quảng đại,
liêm khiết, sống bác ái yêu thương, ngay cả chấp nhận những thua thiệt miễn là
không đánh mất niềm tin của mình.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 10 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 1 Kgs 17:1-6; Mt 5:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin tưởng nơi tình yêu của Thiên Chúa
quan phòng.
Mọi sự
trong thế giới là của Thiên Chúa vì Ngại dựng nên tất cả cho con người hưởng
dùng trong những ngày họ sống trong thế gian; nhưng rất nhiều người, thay vì biết
cám ơn Thiên Chúa đã ban cho, lại coi những gì mình có là do sức lực và tài
khéo của mình, thay vì thờ phượng Người đã dựng nên tất cả lại quay sang thờ
phượng những thứ Người đó tạo nên. Tiên tri Isaiah so sánh những người như thế
còn thua cả loài vật, vì: “Con bò còn biết chủ, con lừa còn biết cái máng cỏ
nhà chủ nó. Nhưng Israel thì không biết, dân Ta chẳng hiểu gì” (Isa 1:3).
Các
bài đọc hôm nay muốn nhắc nhở cho con người biết hạnh phúc thật không phải là ở
sự hưởng thụ vật chất; nhưng là ở chỗ tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa
quan phòng. Trong bài đọc I, ngôn sứ Elijah truyền lệnh đóng cửa trời. Mục đích
là để cho dân nhận ra sự cần thiết của Thiên Chúa và quay trở về với Ngài.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tóm tắt đạo lý của Người trong Bát Phúc; những gì con
người phải làm để được Thiên Chúa chúc phúc.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Trong những năm sắp
tới, sẽ chẳng có mưa, có sương, nếu tôi không ra lệnh.
1.1/ Lệnh
truyền của tiên tri Elijah:
Tiên tri tức giận vì nhà vua và dân chúng đã rời xa Thiên Chúa, vì muốn cho họ
mở mắt nhìn thấy đâu là Thiên Chúa thật, ông nói với vua Ahab của Israel rằng:
"Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của Israel, Đấng tôi phục vụ: trong những
năm sắp tới, sẽ chẳng có mưa, có sương, nếu tôi không ra lệnh."
Thiên
Chúa không những dựng nên cây cối và hạt giống làm thức ăn cho muôn loài, Người
còn quan phòng cho mưa nắng, sương gió giúp hạt giống nẩy mầm và tăng trưởng. Nếu
thiếu những yếu tố này, hạt giống sẽ không thể mang lại cho con người lương thực.
Để giúp nhà vua và con cái Israel nhận ra sự quan phòng của Thiên Chúa, tiên
tri được Thiên Chúa cho quyền năng “đóng cửa trời,” để không có mưa hay sương
rơi xuống trên mặt đất cho tới khi tiên tri truyền lệnh lại.
Không
có mưa hay sương, con người và thú vật sẽ chết vì khát, cây cỏ sẽ khô héo và
không sinh lương thực, con người và thú vật sẽ chết vì đói. Tiên tri hy vọng
khi con người phải đối diện với nguy hiểm chết vì đói khát, họ sẽ nhận ra sự cần
thiết của Thiên Chúa và tin tưởng nơi Ngài.
1.2/
Thiên Chúa quan phòng cho Elijah: Khi không có mưa sương rơi xuống, cả tiên tri Elijah cũng bị ảnh
hưởng, nhưng ông tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa biết chỗ
nào có nước để tiên tri có nước uống: “Ngươi hãy bỏ đây đi về phía đông, và ẩn
mình trong thung lũng Cherith, phía đông sông Jordan. Ngươi sẽ uống nước suối.”
Về thức ăn: “Ta đã truyền cho quạ nuôi ngươi ở đấy." Ông ra đi và làm như
Đức Chúa truyền: là đến ở thung lũng Cherith, phía đông sông Jordan. Buổi sáng,
quạ mang bánh và thịt cho ông; rồi buổi chiều, cũng mang bánh và thịt cho ông.
Ông uống nước suối.
Trình thuật trong Sách Các Vua dạy chúng ta bài học: Nếu con người không biết nhận ra và cám ơn những ân huệ Thiên Chúa đã làm, Ngài sẽ cất đi và con người sẽ chết; nhưng nếu con người nhận ra và tin tưởng nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ có cách nuôi dưỡng con người ngay cả trong khi hạn hán, đói khát.
Trình thuật trong Sách Các Vua dạy chúng ta bài học: Nếu con người không biết nhận ra và cám ơn những ân huệ Thiên Chúa đã làm, Ngài sẽ cất đi và con người sẽ chết; nhưng nếu con người nhận ra và tin tưởng nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ có cách nuôi dưỡng con người ngay cả trong khi hạn hán, đói khát.
2/
Phúc Âm: Người có phúc là
người biết trông cậy hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
Có thể
nói Bát Phúc là tóm tắt tất cả những gì Chúa Giêsu dạy dỗ con người trong những
ngày Ngài rao giảng ở trần gian. Có thể tóm tắt Bát Phúc vào ba điều chính theo
chủ đề hôm nay. Con người cần phải tin tưởng hoàn toàn vào sự quan phòng của
Thiên Chúa.
2.1/
Trong khi thiếu thốn vật chất: “Phúc
thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” Có nhiều cách giải thích
về cụm từ “tâm hồn nghèo khó.” Trước tiên, chúng ta không thể giản lược vào thiếu
thốn vật chất; nhưng rất nhiều lần Chúa Giêsu tuyên bố người giầu có rất khó
vào Nước Trời. Lý do đơn giản khi con người có đầy đủ mọi thứ, họ có khuynh hướng
không cần Thiên Chúa; tối ngày chỉ lo kiếm nhiều tiền, và khi có nhiều tiền lại
tìm kiếm hưởng thụ. Dĩ nhiên Chúa không cổ động lối sống nghèo đến độ không có
của ăn nhà ở, con người cần có những thứ căn bản ổn định trước khi có thể phát
triển tinh thần. Thứ hai, có người giầu nhưng biết dùng của cải Chúa ban để
phân phát cho người nghèo, ủng hộ vào các chương trình phát triển hay nuôi dưỡng
ơn gọi, hay mở rộng nhà cửa để tiếp đón những nhà truyền giáo. Có lẽ điều Chúa
Giêsu muốn nhấn mạnh đến ở đây là có lòng trông cậy vào sự quan phòng của Thiên
Chúa trong mọi sự, chứ không thuần nhất chỉ của cải vật chất mà thôi.
2.2/
Trong khi thiếu thốn tinh thần: Hiền lành không có nghĩa khờ khạo để cho người khác muốn làm gì
thì làm; nhưng phải biết khi nào và cách thức phản ứng để đạt được kết quả tốt
đẹp như ý Thiên Chúa muốn. Trên đường nhân đức, người khao khát được trở nên
người công chính là người dễ đạt tới đỉnh trọn lành, vì nếu coi thường hay xem
nó không quan trọng, làm sao người đó chịu bỏ công sức để tập luyện! Xót thương
tha nhân là điều kiện Chúa đòi để được Chúa xót thương. Ai không có lòng thương
xót anh em mình, làm sao dám cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa. Ơn Phúc Kiến,
nhìn thấy Thiên Chúa tỏ tường là mục đích của cuộc đời. Điều kiện Thiên Chúa
đòi là tâm hồn trong sạch. Chữ trong sạch ở đây hiểu là “nguyên chất,” không
pha trộn với điều gì khác. Nếu hiểu như thế, trong sạch không chỉ giản lược vào
phạm vi tình dục; nhưng bao gồm tất cả các mong ước bất chính. Bình an là quà tặng
Thiên Chúa ban cho những ai đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa trong mọi
hoàn cảnh của cuộc đời. Xây dựng bình an là giúp cho con người hoàn toàn tin
nơi Thiên Chúa.
2.3/
Trong khi chịu đau khổ: Khi
con người chịu đau khổ, họ có thể rơi vào một trong hay trạng thái: (1) than
thân trách Thiên Chúa và mất niềm tin tưởng nơi Ngài; (2) nâng tâm hồn lên
Thiên Chúa để xin Ngài ghé mắt nhìn tới. Con người dễ hướng lòng lên Thiên Chúa
khi thiếu thốn đau khổ hơn là khi sung sướng hạnh phúc. Nhiều thánh mong ước được
chịu đau khổ để họ được cảm thấy sự ủi an của Thiên Chúa. Đau khổ vì chính đạo
là cơ hội cho con người chứng tỏ niềm tin yêu của họ nơi Thiên Chúa. Khi có dịp
để chịu đau khổ vì Chúa, các tín hữu phải hãnh diện vì được thông phần vào Cuộc
Thương Khó của Chúa Giêsu, và cũng sẽ được thông phần vào vinh quang của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Vật
chất chỉ là những phương tiện của cuộc sống không phải là đích điểm của cuộc đời.
Chúng ta đừng vì vật chất mà sống xa Thiên Chúa.
- Chỉ
một mình Thiên Chúa mới làm đầy những khao khát hạnh phúc của con người. Để chiếm
hữu Thiên Chúa, con người cần khao khát tập luyện các nhân đức.
- Đau
khổ vì chính đạo là cơ hội cho chúng ta biểu tỏ đức tin vào Thiên Chúa. Nếu
chúng ta ao ước được chịu đau khổ với Đức Kitô, Ngài sẽ cho chúng ta cùng hưởng
vinh quang với Ngài.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
06/06/16 THỨ HAI TUẦN 10 TN
Th. No-be-tô, giám mục
Mt 5,1-12
Th. No-be-tô, giám mục
Mt 5,1-12
Suy niệm: Nhìn thấy một gia đình có con cái ngoan
ngoãn hiếu thảo, thành đạt, chúng ta thường nói gia đình đó có phúc. Tuy
nhiên, để hình dung thế nào là ‘phúc’ thì thật không dễ dàng. ‘Phúc’ là gì? Thời cha ông ta còn dùng chữ nho, các cụ thường dùng phép chiết tự để giải thích ý nghĩa từ ngữ, theo đó từ “phúc” gồm bộ “kỳ” có nghĩa là thần đất, bên cạnh là tượng hình đồng ruộng thẳng cánh cò bay. Như thế, từ “phúc” có nghĩa là được ơn trên ban cho có nhiều ruộng vườn. Hôm nay, Chúa Giê-su nói cho
ta về “phúc”, không chỉ một mà tới tám điều phúc. Các điều phúc ấy cũng liên quan tới “đất” nhưng không giới hạn ở cuộc đời này mà là “Đất Hứa”, là “Nước Trời” mai sau. “Phúc” thật không phải là hoa
màu ruộng đất hay tài lộc đời này mà được Thiên Chúa ủi an, thương xót, được Ngài cho no thoả, hoan lạc nơi Ngài; và hạnh phúc đó là không giới hạn và tồn tại mãi.
Mời Bạn: Bạn băn khoăn tìm kiếm con đường dẫn đến hạnh phúc thật. Chúa Giêsu chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống dẫn đưa chúng ta đến đó. Mời bạn tiến bước trên con đường của Ngài. Đó chính là con đường Chúa đã đi qua, đi trước và mời gọi chúng ta bước theo, để Ngài ở đâu chúng ta cũng ở đó với Ngài, để chúng ta được hạnh phúc có Chúa làm gia nghiệp.
Sống Lời Chúa: Tôi chọn một mối phúc và tích cực thực hiện mối phúc đó trong ngày sống hôm nay.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, giữa thế gian này vàng thau lẫn lộn, xin cho con sống theo lời Chúa dạy, vì Lời Chúa là chân thật, Lời Chúa mang lại hạnh phúc đích thực cho con. Con cám ơn Chúa, con ngợi khen Chúa. Amen.
Phúc thay
Hạnh phúc đích
thật của người Kitô hữu không phải là “quả” tự nhiên do “nhân” là việc lành phúc đức của họ. “Quả” hạnh phúc của Kitô giáo là quà tặng lớn của Thiên Chúa cho con người.
Suy niệm:
Đức Đạt-lai Lạt-ma, vào mùa thu năm 1994
tại thủ đô nước Anh,
đã được
mời chia sẻ về giáo huấn của Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng.
Một
trong những bài chia sẻ đầu tiên là về các Mối Phúc.
Theo
ngài các Mối Phúc dường như nói về nghiệp (karma), về nhân quả.
“Nếu
bạn hành động như thế, thì bạn sẽ chịu hậu quả như thế.
Nếu bạn
không hành động như thế, thì bạn cũng chẳng chịu hậu quả như thế.
Vậy
rõ ràng nguyên lý nhân quả nằm ở trong giáo huấn của các Mối Phúc.”
Thật
ra các Mối Phúc của Kitô giáo lại không bắt nguồn từ nguyên lý nhân quả,
dù mới
đọc ta có cảm tưởng như vậy.
Các Mối
Phúc bắt đầu bằng chữ “Phúc thay”,
kế đến
nói lên ai là người được hưởng phúc ấy,
cuối
cùng nêu lên lý do hay nền tảng của hạnh phúc ấy bằng chữ “vì”.
Hạnh
phúc đích thật của người Kitô hữu không phải là “quả” tự nhiên
do
“nhân” là việc lành phúc đức của họ.
Dù sống
tốt đến mấy đi nữa, thì “nhân” ấy cũng không thể sinh “quả” ấy được.
“Quả”
hạnh phúc của Kitô giáo là quà tặng lớn của Thiên Chúa cho con người.
Điều
này được diễn tả qua những lối dùng động từ ở thể thụ động:
“sẽ
được ủi an, sẽ được no thỏa, sẽ được xót thương, sẽ được gọi.”
Trước
khi giảng về các Mối Phúc, Đức Giêsu đã loan báo:
“Hãy
hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt 4, 17).
Nước
Trời người Do thái mong đợi đã đến với sự hiện diện của Đức Giêsu.
Quà tặng
nhưng không của Thiên Chúa đã được trao ban,
chẳng
phải do công sức của con người.
Hãy mở
lòng ra đón lấy Nước ấy bằng cách hối cải, bỏ đời sống cũ.
Nhưng
hơn thế nữa, còn phải đón nhận một lối sống mới cho phù hợp.
Bài
giảng trên Núi, và các Mối Phúc, cho thấy hướng sống
của
những ai muốn đón nhận quà tặng Nước Trời với bao hạnh phúc kèm theo.
Để nhận
được quà tặng vô giá ấy, để được hưởng hạnh phúc vô bờ ấy,
cần
cung kính đưa hai tay để đón lấy với lòng khiêm hạ và biết ơn.
Sống
theo các Mối Phúc là có thái độ trân trọng cung kính ấy.
Không
đưa tay thì cũng chẳng được quà.
Nhưng
không phải cứ đưa tay là có quà,
nếu
Thiên Chúa không muốn cho trước khi ta xin.
Kitô
giáo không dựa trên nguyên lý nhân quả.
Cung
kính đưa tay là sống nghèo khó, cậy dựa vào Thiên Chúa,
là hiền
lành, là chịu sầu khổ, chịu bách hại vì Đức Kitô.
Cung
kính đưa tay là có lòng thương xót, có tinh thần xây dựng hòa bình,
là
làm tất cả mọi sự với quả tim trong sáng, không chút vẩn đục.
Khi
làm như thế chúng ta hy vọng được chạm đến Thiên Chúa,
thậm
chí được nếm biết Nước Trời ngay từ đời này (cc. 3. 10).
Chúng
ta có thể viết thêm những mối phúc mới
qua
những kinh nghiệm trong cuộc đời Kitô hữu.
Có
bao niềm vui lớn nhỏ mỗi ngày mà ta cảm nhận khi sống lời dạy của Giêsu.
Chỉ
khi ấy ta mói thấy thật sự lời của Ngài là Tin Mừng.
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin
ban cho chúng con
tỏa
lan hương thơm của Chúa
đến
mọi nơi chúng con đi.
Xin
Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng
Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin
Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để
chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin
Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để
những người chúng con tiếp xúc
cảm
nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin
cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không
phải bằng lời nói suông,
nhưng
bằng cuộc sống chứng tá,
và
bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ
Têrêxa Calcutta)
Lm
Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
6
THÁNG SÁU
Những
Hữu Thể Siêu Việt
Công
Đồng Vatican II nói về nguồn gốc con người trong công cuộc sáng tạo: “Con người
duy nhất với xác và hồn. Xét về thể xác, con người là một tổng hợp những yếu tố
thuộc thế giới vật chất. Vì thế nhờ con người mà những yếu tố ấy đạt tới tuyệt
đỉnh của chúng” (MV 14).
Rồi
sau đó, các Nghị Phụ của Công Đồng tuyên bố: “Thực vậy, con người không lầm lẫn
khi họ nhận biết mình cao cả hơn vũ trụ vật chất và không coi mình chỉ như một
mảnh vụn của thiên nhiên… Bởi vì, nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật.”
Như vậy.
ta thấy rằng sự thật về duy nhất tính và lưỡng diện tính của bản tính con người
có thể được trình bày bằng một ngôn ngữ có thể hiểu được đối với thế giới ngày
nay.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
06 – 6
Thánh
Norbertô, giám mục
1V
17,1-6; Mt 5,1-12.
Lời
suy niệm: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước
Trời là của họ.”
Chúa
Giêsu lên núi, ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên, Người mở miệng day. Đây là dấu
chỉ của vị bậc Thầy, và Chúa Giêsu đã dạy một giáo lý mới về những mối phúc thật
sự, để được hưởng Phúc Nước Trời. Những cái phúc này có cái gì đó đi ngược với
quan niệm của Thế gian, nhưng nó lại được nằm trọn vẹn trong tình yêu của Thiên
Chúa và thực hiện ý muốn của Người mang lấy “hình ảnh của Người”. Những cái
phúc này hoàn toàn mang tính từ bỏ chính mình, đặc trọn cuộc đời mình vào bàn
tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúa đang chúc phúc cho những ai: có tâm hồn nghèo khó – hiền lành
– sầu khổ - khao khát nên người công chính – xót thương người – có tâm hồn
trong sạch – xây dựng hòa bình – bị bách hại vì Thầy. Xin cho mỗi người trong
chúng con được lãnh nhận một trong tám lời chúc phúc của Chúa. Để chúng con
cùng vui hưởng hạnh phúc trong Nước Trời.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
06-06: Thánh NÔBERTÔ
Giám
Mục (1080 - 1134)
Thánh
Noberto sinh khoảng năm 1080 tại Xanten, Ngài là con út trong một gia đình
vương giả và có họ với nhà vua. Theo truyền thống cao thượng, Ngài đã được dự
tính cho làm linh mục. Nhưng thời còn niên thiếu, Noberto đã sống quá xa lý tưởng.
Giàu có của cải cũng như dồi dào sinh hư, lại có bản chất dễ dãi, Noberto cho
mình vào những buổi lễ linh đình và những cuộc vui chơi thế gian. Không bao giờ
một ý tưởng đứng đắn lại có thể xóa tan được những ảo tưởng Ngài nuôi dưỡng
trong lòng.
Điều
may mắn là khi ham vui như vậy, Ngài vẫn không sao nhãng việc học hành. Nhờ vậy,
Noberto thông hiểu mọi khoa học, vua Henty mến chuộng Noberto và thâu dụng vào
triều đình. Tuy nhiên Noberto vẫn tiếp tục nếp sống xưa. Biết rằng: chỉ có nhân
đức mới mang lại hạnh phúc cho tâm hồn, nhưng Noberto lại yêu chuộng "xiềng
xích" và không can đảm bẻ gãy được.
Một
ngày kia Noberto cỡi ngựa đến một làng ở miền Wesphale. Ngài dẫn theo một giai
nhân đi tìm thú vui. Khi đến giữa một đồng cỏ thì một cơn giông tố nổi lên sấm
chớp dữ dằn. Khó tìm được một nơi trú ngụ, nên Ngài phi ngựa nước rút mong sớm
tới đích. Nhưng một cú sét đánh ngay vào chân ngựa. Con vật hoảng hốt hất tung
Kỵ sĩ xuống đất. Noberto nằm bất tỉnh tại chỗ như chết trong một giờ. Tỉnh dậy
Noberto kêu lên như thánh Phaolô ngày trước: - Lạy Chuá, Chúa muốn con làm gì ?
Một
tiếng nói bên trong đáp lại: - Hãy tránh sự dữ và làm điều lành.
Noberto
chỗi dậy và quyết đền bù đời sống đã qua. Khi trở lại triều đình , Ngài trở về
Xanten, sống những thinh lặng nội tâm, mặc áo nhặm và dành trọn thời gian cho
viêc suy gẫm cầu nguyện. Từ đó, Ngài đã không còn đặt một giới hạn nào cho bậc
trọn lành nữa, Ngài đã dành hai năm sám hối để dọn mình chịu chức linh mục và
chỉ dâng thánh lễ đầu tiên sau 40 ngày chuẩn bị trực tiếp, Ngài bán hết mọi của
cải, phân phát cho người nghèo rồi đi chân không đến xin Đức giáo hoàng ban quyền
cho đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Những bài giảng nhất là chính đời sống
gương mẫu của Ngài đã tạo nên được nhiều cuộc hối cải là lùng. Chính trong khi
thực hiện nỗ lực tông đồ này mà thánh Noberto đã thiết lập tu viện ở Premontré,
thường được gọi là dòng áo trắng.
Năm
1126, Noberto được đặt làm Tổng giám mục tại Magdburg. Đức tân giám mục vẫn
không giảm bớt khắc khổ đi chân không, Ngài nỗ lực đổi mới giáo phận với nhiệt
tâm của một thánh nhân bậc nhất. Trong nỗ lực ấy, Ngài phải chịu dựng biết bao
là khó khăn, người ta tìm cách cản trở đến độ muốn mưu sát Ngài, nhưng lòng quả
cảm và sự nhẫn nại đã đưa Ngài tới thành công. Trong một ít năm, Ngài đã sửa lại
được những lạm dụng và làm cho mọi chỗ nên đạo đức hơn. Ngài thường nói: - Tôi
đã ở trong triều đình đã rút vào đơn độc, đã được dặt nhiều chức vụ, nhưng tôi
đã không tìm thấy được điều gì đẹp hơn là được phụng sự Chúa và thuộc trọn về
Ngài.
Ở vào
địa vị tổng giám mục, thánh Noberto từ đây cũng ảnh hưởng tới Giáo hội ngày
càng nhiều hơn. Ngài là bạn của thánh Bernadô và đã giúp đỡ thánh nhân chống lại
giáo hoàng giả Anacletus, Ngài cũng đã thành công trong việc chống lại lạc thuyết
của Chúa trong bí tích Thánh Thể.
Sau
bao nhiêu nỗ lực để đổi mới lòng đạo đức trong giáo phận thánh Noberto qua đời
vì kiệt sức vào năm 1134.
(daminhvn.net)
06
Tháng Sáu
Tuần Hành Chống Lại Sợ Hãi
Buổi
sáng ngày 06 tháng 6 năm 1966. Trương cao biểu ngữ với tựa đề: Tuần Hành Chống
Lại Sợ Hãi, một người da đen 32 tuổi đã bước xuống quốc lộ thứ 51 của thành phố
Memphis thuộc tiểu bang Mississipi bên Hoa Kỳ. Tiểu bang Mississipi có tất cả một
triệu người da đen. Mặc dù luật pháp Hoa kỳ bảo đảm cho mọi người công dân,
không phân biệt chủng tộc và địa vị xã hội, quyền được bỏ phiếu, trong thực tế
chỉ có 100 ngàn người da đen đủ can đảm thi hành quyền này. Con số còn lại, vì
sợ hãi bởi nhiều sức ép khác nhau đã không dám đi bỏ phiếu.
James
Meredith, người thanh niên da đen nói trên, đã tuyên bố: "Chúng ta cần phải
giải thoát khỏi những sợ hãi do người da trắng tạo ra. Tôi sẽ tuần hành từ
Memphis đến thủ phủ của tiểu bang để chứng tỏ cho mọi người thấy rằng một người
da đen có quyền sống và đi lại, tôi muốn thắng vượt nỗi sợ hãi và những đe dọa
do những người phân biệt chủng tộc tạo nên".
Trong
phút chốc, nhiều người, kể cả những người da trắng, đã ra khỏi nhà và tuần hành
bên cạnh Meredith. Meredith tâm sự với một vị mục sư đi bên cạnh như sau:
"Thoạt tiên, tôi định mang theo một khẩu súng. Nhưng cuối cùng, tôi quyết
định mang theo một khí giới duy nhất: đó là quyển Kinh Thánh".
Meredith
dự định băng qua 350 cây số để đến tiểu phủ của tiểu bang, nhưng chưa đầy một
ngày đường, anh đã bị một người da trắng quá khíh bắn ngã gục. Phát súng định mệnh
đó làm rung động toàn thể nước Mỹ.
Giữa
lúc Meredith đang nằm điều trị tại một nhà thương, từng đoàn người đến thăm và ủng
hộ sáng kiến của anh. Sự sợ hãi giờ đây nhường chỗ cho một phong trào đang vươn
lên với đầy khí thế...
Mục
sư Martin Luther King, giải thưởng Nobel về Hòa Bình và là thủ lãnh của phong
trào tranh đấu bất bạo động của người da đen tại Hoa Kỳ, đã ngỏ lời với từng
trăm ngàn người đang đứng trước cửa bệnh viện Memphis như sau: "Cuộc tuần
hành chống lại sợ hãi sẽ không bao giờ chấm dứt. Chúng ta sẽ xuống đường lại
ngay mà nơi Meredith đã bị bắn gục. Con đường từ Memphis đến Jackson chỉ dài độ
350 cây số. Nhưng xiềng xích của sợ hãi và đe dọa mà chúng ta muốn bẻ gãy lại
còn dài gấp bội".
Những
người da đen bên Hoa Kỳ đã phải trải qua những năm tháng dài dưới sự đe dọa và
sợ hãi. Sợ hãi là tâm trạng thường tình của những ai đang sống trong đe dọa, bất
an.
Không
biết mình sẽ bị bắt giữ lúc nào, không biết mình sẽ được phóng thích lúc nào,
không biết mình có đủ cơm ăn áo mặc cho ngày mai không, không biết tương lai của
con em mình sẽ như thế nào, không biết niềm tin của mình rồi ra có còn đứng vững
trước những đe dọa không. Từng nỗi hoang mang ấy khiến ai trong chúng ta cũng
đã một lần trải qua sợ hãi.
Chúa
Giêsu, trong những giây phút nguy ngập nhất đã trấn an các môn đệ của Ngài:
"Các con đừng sợ hãi, vì Ta đã thắng thế gian". Nghĩ đến cuộc khổ nạn
đang chờ đợi ở trước mắt, Chúa Giêsu đã run rẩy sợ hãi đến độ toát mồ hôi máu.
Nhưng cuối cùng, Ngài đã thắng vượt tất cả bằng khí giới của Tình Thương. Tình
Thương là sức mạnh của Ngài trong bao thử thách... Meredith đã không mang theo
súng đạn để trấn an chính mình, anh chỉ mang theo một quyển Kinh Thánh. Phải, bởi
vì Kinh Thánh là biểu hiện của Tình Thương.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét