18/07/2016
Thứ hai tuần 16 thường niên
Bài Ðọc
I: (Năm II) Mk 6, 1-4. 6-8
"Người hỡi, Ta sẽ chỉ cho ngươi việc phải làm,
và việc nào Chúa đòi hỏi nơi ngươi".
Trích sách Tiên tri Mikha.
Các ngươi hãy nghe Chúa phán: "Ngươi hãy đứng
lên, hãy trình bày lời tố cáo của ngươi trước núi non, và các đồi hãy nghe tiếng
của ngươi. Hỡi các núi và nền tảng kiên cố của địa cầu, hãy nghe Chúa tố cáo
dân Người và biện luận với Israel.
"Hỡi dân Ta, Ta đã làm gì cho ngươi? Hay là Ta
đã làm khổ ngươi điều gì? Hãy trả lời cho Ta biết. Chính Ta dẫn ngươi ra khỏi đất
Ai-cập, đã giải thoát ngươi khỏi nhà nô lệ, và sai Môsê, Aaron và Maria đi trước
mặt ngươi?"
Tôi sẽ hiến dâng vật gì lên Thiên Chúa cho xứng
đáng? Hay là tôi sấp mình trước Thiên Chúa Tối Cao? Tôi sẽ dâng lên Người của lễ
toàn thiêu và con bê một tuổi chăng? Chúa có hài lòng với hằng ngàn chiên đực,
hoặc hằng muôn vàn dê đực béo tốt chăng? Tôi sẽ dâng con đầu lòng để đền tội ác
của tôi, và dâng con cái tôi để đền chính tội tôi chăng?
Người hỡi, Ta sẽ chỉ cho ngươi việc phải làm, và việc
nào Chúa đòi hỏi nơi ngươi: tức là ngươi hãy thực hiện công bình, quý mến lòng
nhân lành, và khiêm tốn bước theo Thiên Chúa ngươi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 49, 5-6. 8-9. 16bc-17. 21 và 23
Ðáp: Ai đi đường
ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).
Xướng: 1) "Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký
lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ". Và trời cao sẽ loan truyền sự công
chính của Ngài, vì chính Ðức Thiên Chúa, Ngài là thẩm phán. - Ðáp.
2) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật,
vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận từ nhà ngươi
một con bò con, cũng không nhận từ đoàn chiên ngươi những con dê đực. - Ðáp.
3) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và
miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn,
và ném bỏ lời Ta lại sau lưng. - Ðáp.
4) Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng
rằng Ta cũng giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả.
Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta
chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta
thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 12, 38-42
"Nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy lên án thế hệ
này".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, có mấy luật sĩ và biệt phái thưa cùng Chúa
Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ". Người
trả lời: "Thế hệ hung ác gian dâm đòi một dấu lạ! Nhưng sẽ không cho dấu lạ
nào, trừ dấu lạ tiên tri Giona. Cũng như xưa tiên tri Giona ở trong bụng cá ba
đêm ngày thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba đêm ngày như vậy. Tới
ngày phán xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó,
vì họ đã nghe lời tiên tri Giona mà sám hối tội lỗi, nhưng đây có Ðấng cao trọng
hơn Giona. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ
này và lên án nó: vì bà từ biên thuỳ trái đất đã đến nghe lời khôn ngoan của
vua Salomon, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Salomon".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Dấu Chỉ Yêu Thương
Trong quyển tự thuật "Vì Danh Ta", một Mục
sư người Hungari đã kể lại kinh nghiệm của ông. Bị bắt và bị chuyển từ trại này
sang trại khác, vị Mục sư vẫn âm thầm rao giảng Lời Chúa cho các bạn tù. Trong
13 năm tù, ông đã giúp cho rất nhiều bạn tù được gặp gỡ Chúa. Ông đã kết thúc
quyển tự thuật cũng là bài ca tuyên xưng đức tin của ông như sau:
"Trong suốt thời gian bị tù đày, tôi đã hiểu được
rằng Lời Chúa đi vào tâm hồn con người dễ dàng hơn giữa những đau khổ và bách hại.
Ðó là lý do cho thấy mùa gặt thiêng liêng trong các ngục tù luôn luôn dồi dào.
Tôi không tự cho mình là người anh hùng, lại càng không phải là vị tử đạo.
Nhưng vào lúc sống tự do, nhìn lại đằng sau, tôi có thể nói với tất cả thành thật
rằng 13 năm bị tra tấn đánh đập, đói khát, 13 năm đau khổ và xa gia đình để làm
mục sư cho hàng ngàn tù nhân trong các trại giam, 13 năm như thế quả thật đáng
giá".
Những dòng trên đây quả là một phấn khởi cho tất cả
những ai đang vì niềm tin của mình mà phải chịu bách hại và đau khổ. Những đau
khổ thử thách mà các Kitô hữu phải trải qua thường là dấu chỉ cao đẹp nhất, qua
đó Thiên Chúa tỏ mình cho con người.
Chúa Giêsu như muốn nói đến điều đó, khi Ngài mượn
hình ảnh tiên tri Yôna để loan báo về chính cái chết của Ngài. Cũng như Yôna đã
vâng phục Thiên Chúa đến rao giảng sự sám hối cho dân thành Ninivê, thì Chúa
Giêsu cũng vâng phục Chúa Cha để sống kiếp con người và trở thành dấu chỉ của
tình yêu Thiên Chúa cho con người. Qua hình ảnh Yôna để loan báo sự vâng phục
cho đến chết của Ngài, Chúa Giêsu muốn nói đến con đường mạc khải của Thiên
Chúa, đó là con đường tình yêu. Ngài đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài,
nghĩa là có tự do và biết yêu thương, cho nên Thiên Chúa đã chọn con đường yêu
thương để đến với con người. Ngài đã hóa thân làm người, sống trọn vẹn kiếp người,
và cuối cùng chịu chết treo trên Thập giá, tất cả để trở thành lời mời gọi đối
thoại yêu thương.
Mãi mãi Thiên Chúa chỉ đến với con người qua dấu chỉ
của tình yêu. Người Kitô hữu luôn được mời gọi để nhận ra những dấu chỉ yêu
thương ấy trong cuộc sống của mình, không những qua những chúc lành và may mắn,
mà còn qua những mất mát, khổ đau thua thiệt nữa. Nhận ra những dấu chỉ yêu
thương của Thiên Chúa trong cuộc sống, người Kitô hữu cũng được mời gọi để trở
thành những dấu chỉ yêu thương của Ngài cho mọi người chung quanh. Trở thành dấu
chỉ yêu thương có nghĩa là chấp nhận sống vâng phục và vâng phục cho đến chết
như Chúa Giêsu. Trở thành dấu chỉ yêu thương giữa tăm tối của cuộc sống, giữa đọa
đày bách hại, người Kitô hữu vẫn tiếp tục chiếu sáng trong tín thác, yêu
thương, phục vụ, tha thứ.
Xin cho lý tưởng chứng nhân luôn bừng sáng trong
chúng ta, để dù sống trong đau khổ, thử thách, chúng ta vẫn trung thành với
tình yêu Chúa.
Veritas
Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 16 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Mic 6:1-4, 6-8; Mt 12:38-42
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bụt nhà không thiêng; gần nhà gọi bụt bằng
anh!
Trong
Cựu Ước, ngoài Sách tiên tri Jonah, ông cũng được đề cập đến trong 2 Kings
14:25: ông là con của Amittai, người Gathhepher. Ông hoạt động dưới triều Vua
Jeroboam II, đồng thời hay sớm hơn Hosea và Amos; vì thế ông được kể là tiên
tri sớm nhất trong các tiên tri. Trong Tân Ước, tiên tri Jonah được đề cập đến
trong Matthew 12:38-41 và Luke 11:29-32.
Một số học giả chủ trương chú giải sách của Jonah như một dụ ngôn hay so sánh
và loại ra ngoài tính lịch sử của sách vì 2 lý do: (1) phép lạ quá lớn không thể
xảy ra; và (2) thể loại của sách là tường thuật, không phải là tiên tri. Trong
phụng vụ của Do Thái, Sách Jonah được đọc trong ngày Yom Kippur (Ngày Xá Tội),
vào giờ nguyện ban trưa.
Một
trong những điều quan trọng nhất của thần học Do Thái là (Teshuva): họ có
khả năng ăn năn trở lại và được Thiên Chúa tha thứ. Và đây là điều chính yếu
trong sách của Jonah. Ông không muốn Thiên Chúa tha thứ cho kẻ thù, và vì thế
ông đã từ chối không kêu gọi dân thành Nineveh ăn năn trở lại; nhưng Thiên Chúa
lại muốn ngược lại: Ngài không muốn kẻ có tội phải chết, nhưng muốn nó ăn năn
thống hối và được sống.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Liên hệ giữa Chúa và
Israel
1.1/
Thiên Chúa kiện Israel: Thiên
Chúa truyền cho Micah đi nhắc lại cho Dân Chúa biết tình yêu chung thủy của
Ngài dành cho họ với sự chứng kiến của núi đồi. Tại sao cần núi đồi làm chứng?
Vì con người dễ thay đổi mau quên; nhưng núi đồi không thay đổi theo thời gian;
chúng đã chứng kiến từ đầu Chúa đã yêu và làm cho dân Chúa những gì: Ngài đã
mang dân từ đất nô lệ của Ai Cập vào vùng đất tự do đầy sữa và mật; Ngài đã gởi
đến cho dân những nhà lãnh đạo và tiên tri để điều hành và giáo dục dân chúng
như Moses, Aaron và Miram.
Thiên
Chúa chưa một lần bội hứa hay làm phiền lòng Israel, thế mà họ đã quay lưng lại
với Ngài. Họ đã đúc tượng con bê bằng vàng để thờ và nói với nó: Đây là đấng đã
cứu ngươi ra khỏi cảnh nô lệ của người Ai-cập!
1.2/
Israel đáp trả tình yêu Thiên Chúa thế nào? Họ chỉ chú trọng tới hình thức và các lễ nghi bên ngoài.
Họ nghĩ sẽ làm vui lòng Chúa bằng việc giữ các ngày lễ và dâng những của lễ
toàn thiêu như: con đầu lòng, trâu bò một tuổi, không tì vết … Họ nghĩ sẽ làm
vui lòng Chúa bằng ngàn chiên cừu hay vạn những con sông đầy dầu ôliu để Thiên
Chúa tha thứ cho những xúc phạm và tội lỗi của họ. Thiên Chúa không muốn những
điều này. Ngài không đòi Israel điều gì khác ngoài việc có lòng yêu mến nhân từ,
thực thi công chính, và ăn ở khiêm nhường.
2/
Phúc Âm: Một số biệt phái
và ký lục đòi Chúa làm một phép lạ để họ có thể tin vào Ngài.
2.1/ Dấu
lạ Jonah: Những người
này có thể đã chứng kiến hay ít nhất đã được nghe những lời Chúa dạy và về các
phép lạ Chúa đã làm trong Israel. Đất Israel không lớn lắm; chỉ cần
những tiếng đồn loan đi là mọi người đều biết. Hôm nay họ muốn thử thách Chúa để
họ thấy tận mắt dấu lạ thì họ mới tin. Chúa từ chối không thỏa mãn lời yêu cầu
của họ; nhưng Ngài hứa sẽ cho thấy một dấu lạ cả thể sau này.
Dấu lạ
Jonah: Ông đã từ chối không đi giảng dạy tại Nineveh. Thay vì đó, đáp tàu đi
Tarsus; và sau đó đã bị ném xuống biển và bị nuốt bởi một con cá voi. Ông ở
trong bụng cá 3 ngày đêm và sau đó cá đã nhả ông ra trên bờ biển. Phép lạ nữa
Chúa sẽ làm là họ sẽ chứng kiến Chúa cũng sẽ ở trong mồ 3 ngày 3 đêm và sau đó
sẽ sống lại và ra khỏi mồ: một phép lạ chưa từng xảy ra bao giờ. Đó là cái chết,
an táng, sống lại và lên trời của chính Ngài.
2.2/ Bụt
nhà không thiêng: Chúa
Giêsu, Con Thiên Chúa đã thân hành đến và sống giữa dân để mặc khải, dạy dỗ những
lời khôn ngoan chưa từng nghe của Thiên Chúa; đồng thời làm những phép lạ chưa
từng thấy xảy ra từ tạo thiên lập địa đến giờ. Thế mà họ vẫn coi thường và thử
thách Ngài như trong bài Phúc Âm hôm nay. Vì thế, Chúa cảnh cáo họ:
- Dân
thành Nineveh sẽ tố cáo những người này cứng lòng vì họ đă ăn năn trở lại khi
nghe Jonah giảng chỉ một lần; trong khi những người này đã được nghe và chứng
kiến bao nhiêu phép lạ Người đã làm và vẫn không tin!
- Nữ
Hoàng Phương Nam đã lặn lội từ xa và mang biết bao lễ vật đến triều công để được
nghe sự khôn ngoan của Vua Solomon; trong khi thế hệ này đã không phải lặn lội
đi xa; đã không phải trả một đồng, mà vẫn từ chối nghe lời khôn ngoan của Con
Thiên Chúa!
Tại
sao bụt nhà không thiêng? Có nhiều lý do; sau đây là một vài lý do chính:
(1)
Đã quá quen nên không cảm thấy quí nữa và nghĩ đó là chuyện tự nhiên phải đến.
Nghe Chúa giảng hay làm phép lạ lần đầu tiên, họ có thể sửng sốt và tin; nhưng
nếu nghe và chứng kiến nhiều lần, họ sẽ nhàm chán và mất đi niềm tin ban đầu.
(2)
Kiêu căng và vọng ngoại: Cái gì của người ngoài mới hay mới tốt; còn cái gì ở
trong gia đình, làng mạc, quốc gia thì xem thường (Nathanael nói: ở Nazareth
thì có gì hay? Những người Biệt phái tuy nhận ra sự khác thường nơi Chúa Giêsu;
nhưng vẫn gạt đi và nói: người này không phải con ông thợ mộc Giuse và bà
Maria; và anh em của ông không phải là người đồng hương với chúng ta sao? Và họ
vấp phạm vì Ngài).
(3) Dạy
và bắt thực hành những gì họ không thích; nhất là bắt phải từ bỏ những gì họ đã
quá quen thuộc; nhất là lại tố cáo những bất công tội lỗi của họ. Con người có
khuynh hướng chiều theo những gì dễ thực hành và lối sống dễ dãi hưởng thụ hơn.
Đức
tin nhờ phép lạ là đức tin nhất thời. Chúa Giêsu nói với Thánh Thomas: “Phúc
cho những ai đã không thấy mà tin.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải sống mối liên hệ mật thiết với Thiên Chúa, biểu tỏ qua cuộc sống
công chính và bác ái với tha nhân. Mọi lễ nghi bên ngoài sẽ vô ích nếu chúng ta
không sống những mối liên hệ này.
-
Trong cuộc đời, chỉ một mình Thiên Chúa là Người yêu chúng ta đích thực và các
vô vị lợi. Chúng ta đừng bao giờ phản bội tình yêu trung thành của Ngài.
-
Chúng ta cần phải luôn biết kính sợ Thiên Chúa. Ngài không phải như một con người
để rồi khi đã chán ngán chúng ta có thể gạt qua một bên. Ngài là Thiên Chúa duy
nhất của cuộc đời.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
18/07/16 THỨ HAI TUẦN 16 TN
Mt 12,38-42
Mt 12,38-42
Suy niệm: Người Do thái thích thế, thích một dấu lạ “từ trên trời rơi xuống”, trong khi có biết bao nhiêu phép lạ Chúa Giê-su đã làm trước mắt họ thì họ lại không tin. Cũng thế, họ thích một Thiên Chúa cứ ở tít trên núi Si-nai đằng sau những đám
mây, và phán dạy qua những tiếng “sấm nổ ầm ầm” chứ đừng tỏ vinh quang của Ngài dù chỉ là qua gương mặt của Môi-sê. Và nhất là đừng có dấu lạ một Đấng Em-ma-nu-en, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, một Đức Ki-tô đồng hành với họ trong cuộc đời thường này. Đức Giê-su từ chối lời yêu cầu của họ nhưng, trưng dẫn điển tích Gio-na lại hứa cho họ một dấu lạ còn vĩ đại hơn: đó là chính sự chết và phục sinh của Ngài.
Mời Bạn: Quả thật “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho những ai khiêm nhường” (1Pr 5,5). Cặp mắt tâm hồn bị bưng bít bởi thành kiến, kiêu căng, tự mãn không thể nhận ra những dấu lạ. Không cần tìm kiếm phép lạ đâu xa, Chúa vẫn thực hiện trong đời thường của bạn đấy thôi và chỉ những tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn mới nhận ra được.
Chia sẻ: Bạn hãy nhớ lại, chắc chắn trong đời bạn Chúa đã nói với bạn qua một sự việc lạ lùng nào đó.
Sống Lời Chúa: Khiêm tốn để khám phá ra bàn tay của Thiên Chúa quyền năng trong mọi sự, mọi biến cố và nhận ra ý muốn của Người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho con một tâm hồn đơn sơ, ngay thẳng và mẫn cảm để con nhận ra tình thương, quyền năng và lời mời gọi của Chúa trong từng dấu chỉ nhỏ của cuộc sống.
Đòi dấu lạ
Ơn hoán cải của Anh Charles de Foucauld không dựa trên những dấu lạ làm Anh ngất ngây, nhưng đến từ khiêm nhường tìm kiếm và quỳ xuống đón nhận.
Suy
niệm:
Sinh trong một gia đình người Pháp giàu có, quý phái
và đạo đức,
Anh Charles de Foucauld mất đức tin từ năm 16 tuổi.
Hai năm sau Anh học ở trường sĩ quan Saint-Cyr nổi
tiếng của Pháp,
đã đi thám hiểm nước Maroc ở châu Phi và được huy
chương vàng.
Sau thời gian đó anh đã muốn suy nghĩ về đời mình.
Đời sống đạo đức của người chị em họ đánh động Anh
nhiều.
Anh đi nhà thờ dù chẳng tin gì, chỉ thích lặp đi lặp
lại lời nguyện này:
“Lạy Chúa, nếu Chúa hiện hữu, thì xin làm cho con nhận
biết Chúa.”
Chúa đã làm cho Anh nhận biết Ngài vào một ngày cuối
tháng 10-1886.
Khi được chị họ giới thiệu với cha sở Huvelin ở Paris,
anh đã xin học đạo.
Nhưng cha lại bảo anh vào tòa giải tội và xưng tội.
Anh ngần ngại, nhưng đã chấp nhận quỳ xuống,
và bất ngờ nếm được niềm vui khôn tả của người con lưu
lạc trở về.
Đời Anh đã bắt đầu sang trang từ giây phút ấy.
Chúa đưa Anh trở lại không bằng những dấu lạ lùng,
nhưng qua bà chị họ đạo đức, qua cha sở Huvelin nhiều
kinh nghiệm.
Ơn hoán cải của Anh không dựa trên những dấu lạ làm
Anh ngất ngây,
nhưng đến từ khiêm nhường tìm kiếm và quỳ xuống đón
nhận.
Chỉ ai biết quỳ xuống mới nhận ra dấu bình thường là
dấu lạ.
Đức Giêsu không vui khi người Pharisêu và những người
đương thời
muốn thấy dấu lạ và tìm kiếm dấu lạ (cc. 38-39).
Họ chờ mong một dấu lạ làm họ lóa mắt, gây ấn tượng
mạnh,
khiến họ không thể chối cãi và buộc họ phải tin.
Tiếc rằng Đức Giêsu không bao giờ có ý muốn làm thứ
dấu lạ như vậy.
Ngài không làm dấu lạ để biểu diễn quyền năng của mình
trước con người.
Ngài chỉ làm dấu lạ để phục vụ nhu cầu con người và
loan báo Nước Chúa.
Dấu lạ là dấu chỉ mời gọi chứ không cưỡng bức người
xem phải tin.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, nhưng họ vẫn không tin,
vẫn đòi dấu lạ mới,
và còn bảo dấu lạ của Ngài là nhờ dựa vào tướng quỷ (Mt
12, 24).
Khăng khăng đòi dấu lạ cho thấy lòng họ dứt khoát từ
chối Đức Giêsu.
Chẳng có dấu lạ nào làm họ thay đổi được cái nhìn về
Ngài.
Đức Giêsu đã từng trách các thành vùng Galilê vì họ
không sám hối (Mt 11,20).
Nay Ngài cũng quở trách một số người Pharisêu như vậy.
Vào ngày phán xét, chính dân Ninivê và Nữ hoàng Phương
Nam sẽ kết án họ,
vì họ đã cứng lòng không tin Đức Giêsu (cc. 41-42).
Làm thế nào chúng ta nhận ra những dấu lạ Chúa vẫn làm
cho đời ta,
để ta không đòi hỏi thêm dấu lạ nữa,
nhưng mãn nguyện với những gì mình nhận được?
Làm thế nào để chúng ta hạnh phúc
vì vẫn được nghe giảng bởi chính Đấng còn hơn Giôna
nữa,
vẫn được tiếp xúc với Đấng còn khôn ngoan hơn vua
Salômôn nữa?
Cầu
nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những
ơn con thấy được,
và
những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con
đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết
bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha
không ban cho con,
và
quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha
cương quyết không ban
bởi
lẽ điều đó có hại cho con,
hay
vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
18
THÁNG BẢY
Tiếng
Nói Cuối Cùng Là Tiếng Nói Yêu Thương
“Ai
có thể giải thích sự tội?” – tác giả Thánh Vịnh đã thốt lên như thế (Tv19,13
theo bản La tinh). Sự quan phòng của Thiên Chúa soi rọi ánh sáng trên sự phản
nghịch bi đát của con người, để chúng ta có thể học biết tránh tội.
Con
người được tạo dựng trong tư cách là một hữu thể có lý trí và tự do trong một
thế giới mà sự tội không những có thể xảy ra mà còn được thấy như là một thực tại
ngay từ đầu. Tội lỗi là sự chống đối triệt để đối với Thiên Chúa. Nó là điều mà
Thiên Chúa dứt khoát không muốn. Tuy nhiên, Ngài vẫn cho phép nó xảy ra khi tạo
dựng con người có tự do. Ngài cho phép xảy ra sự tội – là kết quả của sự lạm dụng
tự do đã được Ngài ban cho.
Từ thực
tế không thể đảo ngược này (được chúng ta biết đến nhờ mạc khải và được chúng
ta kinh nghiệm trong thế giới đã sa ngã của chúng ta), chúng ta biết rằng rất cần
có sự tự do trong thế giới thụ tạo này, cho dù nó có thể bị lạm dụng, hơn là
chúng ta bị tước mất tự do – nhằm để khỏi có nguy cơ phạm tội. Đó là góc nhìn
thích đáng đối với sự khôn ngoan có tính quan phòng của Thiên Chúa – trong đó
Thiên Chúa nhìn thấy cứu cánh của mọi sự.
Đành
rằng Cha nhân lành của chúng ta cho phép tội xảy ra, nhưng Ngài đã nhìn thấy
trước từ đời đời con đường cứu độ bằng tình yêu của Ngài. Thật vậy, sự tự do được
ban cho con người là để con người có thể yêu thương. Người ta không thể yêu
thương nếu không có tự do đích thực. Và trong cuộc đấu tranh giữa thiện và ác,
giữa tội lỗi và ơn cứu độ, tình yêu luôn luôn là tiếng nói quyết định cuối
cùng.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
18 – 7
Mk
6,1-4.6-8; Mt 12,38-42.
Lời
suy niệm: “Bấy
giờ có mấy kinh sư và mấy người Pharisêu nói với Đức Giêsu rằng: Thưa Thầy,
chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ.”
Đối với
đám đông dân chúng họ nhìn vào Chúa Giêsu là cả một dấu lạ: “Ông này là người
thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh.” (Mt 8,27) “Các anh cứ về thuật lại
cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què được đi,
người phong hủi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được
nghe Tin Mừng.” (Mt 11,4-5). “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những
phép lạ như thế?” (Mt 13,54). “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì
Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.”
(Mc1,22). Nhưng với các kinh sư và người Pharisêu luôn chống đối Người muốn loại
bỏ Người nên họ đã không thấy những dấu lạ đang xãy ra trước mặt các ông. Nên họ
mới đòi nơi người một dấu lạ.
Lạy
Chúa Giêsu, nhờ chúng con tin vào Chúa mà chúng con đã nhận ra các tạo vật
chung quanh chúng con đều có sự hiện hữu của Chúa, và có sự liên đới với cuộc sống
của chúng con. Xin cho chúng con biết quý trọng và gìn giữ mọi sự với tâm tình
yêu thương.
Mạnh
Phương
18
Tháng Bảy
Tình Yêu Mời Gọi
Vua
Friedrich Wilhelm cai trị nước Phổ vào khoảng đầu thế kỷ thứ 18. Ông nổi tiếng
là người nóng nảy khó tính. Ông không thích những nghi thức rườm rà. Ông chỉ
thích đi dạo một mình giữa các đường phố Berlin. Thích sống đơn giản, nhưng ông
lại rất nhạy cảm với bất cứ một sự xúc phạm nào của thần dân. Nếu chẳng may có
người nào chạm đến ông giữa đám đông, ông sẽ không ngần ngại dùng gậy đập túi bụi
vào người đó. Thành ra, khi thấy đức vua đang đi đến, mọi người đều tìm cách lẩn
tránh.
Lần
kia, khi ông dang đi giữa phố Berlin, một người đàn ông đang đi tới, bỗng lẩn
tránh đi nơi khác. Vừa ngạc nhiên, vừa bực tức vì dân chúng lẩn tránh mình, vua
Friedrich mới chận người đàn ông lại và hỏi lý do tại sao ông ta lẩn tránh đi
nơi khác. Người đàn ông luống cuống mãi, cuối cùng đành phải thú nhận rằng sở
dĩ ông ta lẩn tránh nhà vua là vì sợ hãi. Nghe đến đó, vua Friedrich nổi tam
bành, ông túm lấy vai người đàn ông đáng thương, vừa lắc mạnh, vừa thét lên:
"Tại sao ngươi dám sợ ta. Ta là vua của ngươi. Ngươi phải yêu mến ta.
Ngươi phải yêu mến ta, ngươi có biết điều đó không?".
Chỉ
có con người mới biết yêu bởi vì chỉ có con người mới có tự do. Không ai có thể
cưỡng bách người khác phải yêu mình... Tạo dựng con người có tự do, Thiên Chúa
vẫn luôn tôn trọng tự do ấy. Ngài không cưỡng bách con người phải yêu mến Ngài,
nhưng chỉ mời gọi và tỏ tình. Bằng công cuộc tạo dựng, bằng cuộc sống và cái chết
của Con Một Ngài, Thiên Chúa đã tỏ tình với con người... Tình yêu luôn đi bước
trước. Bước trước ấy là một lời nói, một ánh mắt, một nụ cười, một món quà, một
nghĩa cử.
(Lẽ
Sống)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét