24/07/2016
Chúa Nhật tuần 17 thường niên năm C
(phần II)
Phụng
vụ Lời Chúa: Chúa Nhật XVII Thường
Niên - Năm C
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN C
St 18,20-32; Cl 2,12-14; Lc 11,1-13
KIÊN TRÌ CẦU KHẨN
“Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu
mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành,
phương chi Cha trên trời
lại không ban Thánh Thần
cho những kẻ kêu xin Người sao?”
(Lc 11,13)
mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành,
phương chi Cha trên trời
lại không ban Thánh Thần
cho những kẻ kêu xin Người sao?”
(Lc 11,13)
I. CÁC BÀI ĐỌC:
Dù cầu nguyện là một việc đạo đức truyền thống trong bất kỳ tôn giáo nào, nhưng không phải ai cũng biết cầu nguyện đúng cách. Các bài đọc lời Chúa hôm nay không những đề cao tầm quan trọng của cầu nguyện, mà còn dạy người ta cách cầu nguyện thế nào cho phải đạo.
1. Bài đọc 1:
Câu chuyện ông Ápraham “thương lượng” với Thiên Chúa để Ngài không giáng phạt tội lỗi của kẻ dữ cho thấy Thiên Chúa là Đấng dễ động lòng thương xót trước lời cầu khẩn chân thành và bền bỉ của người công chính.
Trước hết, sự bền bỉ khẩn cầu của ông Ápraham có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Dù biết mình “chỉ là thân tro bụi”, ông Ápraham không ngừng khẩn cầu xin Thiên Chúa bỏ ý định giáng phạt Xơđôm và Gômôra. Cuộc “thương lượng” của ông Ápraham với Thiên Chúa cho thấy rằng Thiên Chúa không phải là Đấng bất di bất dịch, cứng nhắc trong ý định của Ngài, nhưng vì lòng thương xót, Ngài có thể thay đổi. Trong sáu lần khẩn cầu với Thiên Chúa, ông Ápraham đều được Ngài chấp nhận. Quả thật, lời cầu khẩn của người công chính luôn có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngài thay đổi ý định giáng phạt vì lời khẩn cầu của Ápraham.
Sau nữa, Thiên Chúa là Đấng không muốn bỏ sót bất cứ người lành nào. Cuộc “thương lượng” của ông Ápraham với Thiên Chúa xoay quanh lý lẽ rằng “chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao?” (St 18,23). Phẩm giá của “người lành” luôn có giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa, đến nỗi Ngài không muốn bỏ sót bất cứ người nào. Dù cuộc thương lượng của ông Ápraham cuối cùng chỉ dừng lại ở con số “mười người lành”, nhưng có lẽ câu chuyện muốn cho thấy rằng Thiên Chúa không những không tiêu diệt người lành cùng với kẻ dữ, mà còn vì một số ít người lành mà sẵn sàng thứ tha và cứu vớt một số đông kẻ dữ.
Câu chuyện một mặt đề cao giá trị của lời khẩn cầu của người công chính trước mặt Thiên Chúa, mặt khác cho
thấy phẩm giá vô song của “người lành” đến nỗi Thiên Chúa không nỡ trừng phạt một số đông “kẻ dữ” chỉ vì thương một số ít “người lành”.
2. Bài đọc 2:
Qua đoạn thư gởi các tín hữu Côlôxê, thánh Phaolô cho thấy tầm quan trọng của phép rửa trong Đức Kitô.
Trước hết, nhờ phép rửa, con người được mai táng với Đức Kitô và được trỗi dậy với Người. Quả vậy, một khi được dìm vào trong nước qua phép rửa, con người như chết đi cho tội lỗi, được mai táng với Đức Kitô, để khi bước ra khỏi nước, con người như được trỗi dậy với Người, được mặc lấy sự sống mới của Người. Qua phép rửa, con người được biến đổi, từ tình trạng tội lỗi đến tình trạng được thánh hóa nhờ ân sủng; từ con người cũ thành con người mới trong Chúa Kitô, Đấng đã chết, nhưng đã sống lại để tha tội và ban sự sống cho những ai tin và chịu phép rửa nhân danh Người.
Sau nữa, nhờ phép rửa, con người được “xóa sổ nợ bất lợi” do các giới luật gây ra (x. Cl 2,14). Thật vậy, lề luật Môsê cố gắng ngăn cản người ta phạm tội, nhưng lại trở thành dịp tội khi người ta không thể giữ trọn vẹn lề luật, dẫn đến án phạt là sự chết (x. Rm 7,7-25). Lề luật trở nên như cuốn sổ ghi nợ những khi người ta không giữ trọn. Qua phép rửa, Đức Kitô “xoá sổ nợ bất lợi” và cho con người sống trong tình trạng tự do của con cái Thiên Chúa, thoát khỏi tình trạng nô lệ cho tội lỗi.
Như thế, phép rửa trong Đức Kitô vừa “xóa sổ nợ bất lợi” do các giới luật gây ra, giải thoát khỏi cái chết do tội, vừa cho tham dự vào sự sống mới của Đức Kitô, Đấng đã chiến thắng sự chết.
3. Bài Tin Mừng
Đoạn Tin Mừng vừa làm nổi bật sự cần thiết của việc cầu nguyện, vừa cho thấy thái độ cần có khi cầu nguyện và nội dung của việc cầu nguyện.
Trước hết, đoạn Tin Mừng cho thấy sự cần thiết của việc cầu nguyện. Cầu nguyện, theo
truyền thống Do thái, là một trong ba việc đạo đức truyền thống. Ông Gioan Tẩy Giả, một người sống nhiệm nhặt và đạo đức theo
truyền thống Do thái, hẳn rất đề cao việc cầu nguyện, đồng thời dạy các môn đệ cách thức cầu nguyện. Chúa Giêsu cũng là bậc thầy trong việc cầu nguyện. Người thường dành thời gian riêng để cầu nguyện với Chúa Cha. Hẳn các môn đệ đã nhìn thấy nơi Chúa Giêsu như là gương mẫu cầu nguyện và muốn học theo Người. Trong khi theo Tin Mừng Mátthêu, chúa Giêsu chủ động dạy các môn đệ cách thức cầu nguyện thì Tin Mừng Luca lại cho thấy các môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cầu nguyện.
Sau nữa, đoạn Tin Mừng cho thấy nội dung của lời cầu nguyện. Dù nội dung của lời cầu nguyện trong Tin Mừng Luca ngắn hơn so với Mátthêu nhưng vẫn cho thấy những điểm quan trọng thiết yếu.Cầu nguyện trước hết là hướng về Thiên Chúa là Cha mà thân thưa với Ngài, xin Ngài làm cho danh thánh của Ngài được mọi người nhận biết và tôn thờ; đồng thời, xin cho Triều Đại của Ngài được mau hiển trị. Sau đó lời cầu nguyện mới hướng đến các nhu cầu của con người về lương thực, về ơn tha thứ và được gìn giữ khỏi chước cám dỗ. Như thế, lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa phải là lời cầu nguyện ưu tiên trước hết cho việc tôn vinh Thiên Chúa, rồi mới đến những điều giúp con người sống tốt lành và bình an.
Cuối cùng, đoạn Tin Mừng nhấn mạnh thái độ cầu nguyện. Thái độ cầu nguyện cần có trước tiên phải là sự kiên trì. Như người bạn “cứ lì ra đó” cho đến khi nhận được điều mình mong muốn (Lc 11,8), thì Thiên Chúa đâu nỡ chối từ lời cầu xin tha thiết của con người. Điều Ngài chờ đợi nơi con người là sự kiên trì trong lời cầu xin. Thêm nữa, cần có thái độ tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha trên trời rằng những gì“xin thì sẽ được, tìm thì sẽ gặp, và gõ cửa thì sẽ mở cho”, vì Thiên Chúa là cha tốt lành, Đấng hằng “ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Ngài”(Lc 11,13).
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Câu chuyện ông Ápraham “thương lượng” với Thiên Chúa để xin Ngài hãy vì một số ít người lành mà đừng đánh phạt những kẻ dữ cho thấy lòng khoan
dung của một Thiên Chúa, Đấng sẵn sàng thay đổi quyết định trước lời khẩn cầu tha thiết của người công chính. Sự kiên trì cầu khẩn của ông Ápraham đã làm Thiên Chúa động lòng mà tha thứ cho kẻ tội lỗi. Tôi có đang kiên trì cầu khẩn với một Thiên Chúa giàu lòng khoan dung và sẵn sàng tha thứ?
2/ Thánh
Phaolô nhấn mạnh tầm quan trọng của phép rửa. Quả vậy, phép rửa trong Đức Kitô vừa “xóa sổ nợ bất lợi” do các giới luật gây ra mà giải thoát con người khỏi cái chết do tội, vừa cho con người tham dự vào sự sống mới của Đức Kitô, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Tôi có ý thức về sức mạnh của phép rửa trong Đức Kitô mà tôi đã lãnh nhận? Tôi có để cho sự sống mới của Đức Kitô biến đổi con người tội lỗi của tôi?
3/ Nhân cơ hội các môn đệ của Đức Giêsu xin Người dạy các ông cầu nguyện, Người đã cho các ông thấy tầm quan trọng của cầu nguyện, đồng thời dạy các ông rằng lời cầu nguyện xứng hợp nhất là lời cầu xin ưu tiên trước hết cho việc tôn vinh Thiên Chúa và sự hiển trị của Nước Trời, rồi mới đến những điều giúp con người sống tốt lành và bình an. Khi cầu nguyện, hai thái độ cần phải có là kiên trì và tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha nhân lành, Đấng hằng lắng nghe lời cầu xin tha thiết của con người. Tôi có đang cầu nguyện đúng cách?
Tôi có đang kiên trì cầu nguyện và hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa là Cha nhân lành?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải cầu nguyện kiên trì, vì cầu nguyện là phương thế giúp ta duy
trì tương quan thân tình Cha–con với Thiên Chúa. Xác tín vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa là Cha, chúng ta hãy thành tâm dâng lời cầu xin:
1. Một môn đệ thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện.” Chúng ta
cùng cầu xin cho
mọi thành phần trong Hội Thánh luôn ý thức giá trị của việc cầu nguyện, trong khi thực thi sứ mạng làm vinh danh Thiên Chúa giữa thế giới hôm nay.
2. “Xin làm
cho Danh thánh
Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến.” Chúng ta
cùng cầu xin cho
lời rao giảng của Hội Thánh được nhiều người đón nhận và thực thi, để Danh Chúa được cả sáng và ý Chúa ngày càng được thể hiện trong mọi môi trường xã hội.
3. “Hãy xin
thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho.” Chúng ta
cùng cầu xin cho
mọi Kitô hữu luôn xác tín và siêng năng chạy đến với Chúa trong mọi hoàn cảnh và với trọn niềm phó thác nơi lòng thương xót của Người, để được Chúa ủi an nâng đỡ.
4. “Cha các
con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người.” Chúng ta
cùng cầu xin cho
mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, tận tụy thi hành thánh ý Chúa với tâm tình của người con thảo.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha hằng yêu thương chăm sóc chúng con, xin thương nhận những ước nguyện của chúng con dâng lên Chúa, và ban ơn trợ giúp để chúng con biết sống ngày càng xứng đáng hơn với tư cách là con cái Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Chủ đề : Cầu xin
"Thưa
Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện" (Lc 11,1)
Sợi
chỉ đỏ :
- Bài
đọc I : Abraham cầu xin Chúa cho thành Sôđôma
- Đáp
ca : Ca tụng Chúa đã nhậm lời cầu xin
- Tin
Mừng : Chúa Giêsu dạy các môn đệ cầu xin.
I.
Dẫn vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo "Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì gặp,
ai gõ cửa thì sẽ được mở cho". Chúa nói thế để khuyến khích chúng ta khi cần
điều gì thì hãy cầu xin cùng Thiên Chúa một cách mạnh dạn, tin tưởng và kiên
trì.
Trước
hết chúng ta hãy xin Chúa tha thứ những tội lỗi của chúng ta, để chúng ta xứng
đáng dâng Thánh lễ này lên Chúa.
II.
Gợi ý sám hối
- Xin
Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng con đã không kính mến Chúa cho đủ.
- Xin
Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng ta đã nhiều lần lỗi đức bác ái với người
khác.
- Xin
Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng con chưa chu toàn bổn phận của chúng
con.
III.
Lời Chúa
1.
Bài đọc I (St 18,20-32)
Vì
dân thành Sôđôma phạm tội quá nhiều, Thiên Chúa cho Abraham biết Ngài sẽ cho lửa
từ trời xuống thiêu huỷ thành này. Abraham đã mặc cả với Chúa rằng nếu trong
thành có một số người công chính thì xin Chúa tha cho cả thành. Chúa đồng ý, và
Abraham đã hạ dần con số những người công chính : từ 50 xuống 45, rồi 40,
30, 20 và 10. Rất tiếc là Abraham đã dừng lại ở đó, không dám xuống nữa.
Câu
chuyện cho ta thấy 2 điều quan trọng : a/ Lòng thương xót của Chúa vì những
người công chính mà sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi ; b/ Thiên
Chúa sẵn sàng nghe lời cầu xin của con người.
2.
Đáp ca (Tv 137)
Ca tụng
Thiên Chúa đã nghe lời cầu xin của con người.
3.
Tin Mừng (Lc 11,1-13)
Chúa
Giêsu dạy về cầu nguyện :
1.
Nội dung phải cầu nguyện : Kinh Lạy Cha : Thời Chúa Giêsu, mỗi nhóm tín ngưỡng
có một bài kinh riêng, đặc trưng của nhóm mình. Bài kinh mà Chúa Giêsu sắp dạy
cũng là đặc trưng của Kitô giáo. Nét đặc trưng rõ nhất được thấy trong một từ
chìa khoá lắp đi lặp lại rất nhiều lần, từ "Cha" : kitô hữu được
làm con Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha.
Vì là
một bài kinh rất ngắn gọn cho nên những điều được nói trong đó đều là những điều
then chốt nhất. Nói cách khác, những lời xin trong bài kinh này cho ta biết những
điều mà kitô hữu cần quan tâm nhất là gì :
a/ Đối
với Chúa : sao cho người ta được biết Chúa ("Xin làm cho danh Cha
vinh hiển") ; sao cho nhiều người gia nhập Nước Chúa ("triều đại
Cha mau đến")
b/ Đối
với chính bản thân mình : có lương thực hằng ngày, được Cha tha thứ và
mình cũng biết tha thứ cho người khác, đừng sa chước cám dỗ.
2.
Thái độ khi cầu nguyện : Phải kiên trì
Để
minh họa cho thái độ kiên trì, Chúa Giêsu đưa dụ ngôn về "người bạn quấy rầy"
-
"Quấy rầy" vì đến gõ cửa ban đêm để vay bánh : việc này khiến chủ
nhà bị mất ngủ. Và nếu chủ nhà thức dậy thắp đèn lên, rồi lấy bánh, rồi mở cửa,
rồi nói chuyện... thì sẽ làm cho vợ con của ông cũng mất ngủ luôn. Bởi thế, chủ
nhà đã nói vọng ra lời từ chối. Nhưng người bên ngoài cứ vừa gõ cửa vừa kêu
mãi.
-
Nhưng người đứng bên ngoài ấy lại là một "người bạn". Bạn bè thì phải
thương yêu nhau và tương thân tương trợ nhau, nhất là trong những khi gặp khó
như trường hợp này.
Việc
chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do :
cho để khỏi bị quấy rầy nữa ; cho vì tình bạn. Theo cách diễn tả của dụ
ngôn thì người đó đã làm vì lý do thứ nhất. Nếu làm vì lý do thứ hai thì việc
cho sẽ có ý nghĩa hơn. Nhưng dù sao thì cuối cùng anh bạn đứng ngoài đã đạt được
điều mình xin, và lý do là nhờ anh kiên trì.
Sau
khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu lý luận theo kiểu a fortiori (huống chi) : người
đời dù quen hành động theo lý do ích kỷ (để khỏi bị quấy rầy) thế mà cũng phải
chịu thua sự kiên trì của người xin. Huống chi Thiên Chúa vốn tốt lành quen đối
xử với chúng ta theo tình thương. Bởi thế nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì
chắc chắn sẽ được nhậm lời.
4.
Bài đọc II (Cl 2,12-14) (Chủ đề phụ)
Thánh
Phaolô giải thích những hiệu quả của bí tích Rửa tội :
-
Giúp chúng ta chết đi cho con người cũ yếu hèn để sống lại thành con người mới
kết hợp với Đức Kitô.
- Tha
thứ mọi tội lỗi trước đây của chúng ta.
IV.
Gợi ý giảng
*
1. Lời cầu xin của Abraham
Lời cầu
xin của Abraham có nhiều điểm hay đáng chúng ta bắt chước :
- Ông
không cầu xin cho bản thân mình, mà cho người khác, những người không phải là
bà con hay bạn bè thân thích gì của ông cả.
- Ông
không cầu xin cho những người đạo đức công chính, mà xin cho những người tội lỗi.
- Ông
đã nại vào lòng thương xót của Chúa và vào "uy tín" của một số người
công chính.
Nhưng
có một điểm mà Abraham chưa làm gương cho chúng ta được. Đó là xem ra ông chưa
tin tưởng hoàn toàn vào Chúa cho nên đã dừng lại ở con số 10 người công chính
chứ không dám tiến xa hơn vào lòng thương xót vô biên của Chúa.
*
2. Xin, tìm và gõ
Chúa
Giêsu khuyến khích chúng ta hãy xin, hãy tìm và hãy gõ cửa. Nghĩa là đức tin của
chúng ta phải là một hành động tích cực chứ không phải là một thái độ thụ động
chỉ biết đợi chờ.
Tuy
nhiên lắm khi vì tự phụ mà chúng ta không xin, nên chúng ta không nhận được ;
lắm khi vì chúng ta lười biếng mà không tìm, nên chúng ta không gặp ; lắm
khi vì chúng ta nhút nhát mà không gõ cửa nên không được mở cho.
Đừng
thụ động ngồi chờ ơn Chúa như những quả sung từ trời rụng xuống. Hãy khiêm tốn,
siêng năng và bạo dạn mà xin, mà tìm và gõ cửa. Nếu điều đó tốt cho chúng ta
thì chắc chắn Thiên Chúa là Cha nhân hậu sẽ ban cho chúng ta.
*
3. Tại sao phải cầu xin cách kiên trì ?
Phải
kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng
thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì
không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không
mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một
ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay
không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu
thương của một người Cha đầy tình nhân ái.
*
4. Và chúa nói không
- Tôi
xin Người lấy niềm kiêu hãnh của tôi đi. Và Người nói "không". Người
nói việc lấy đi không phải do Người mà là tôi phải từ bỏ nó.
- Tôi
xin Người làm cho đứa bé tật nguyền của tôi được lành lặn. Và Người nói không.
Người nói tinh thần của tôi mới là tất cả, còn thể xác chỉ là nhất thời thôi.
- Tôi
xin Người ban cho tôi sự kiên nhẫn. Và Người nói không. Người nói kiên nhẫn là
một phó sản của nỗi gian nan khổ cực, không ban được mà phải tự kếm lấy.
- Tôi
xin Người ban cho tôi hạnh phúc. Và Người nói không. Người nói Người ban cho
tôi những lời chúc lành, hạnh phúc tuỳ thuộc nơi tôi.
- Tôi
xin Người vứt bỏ nỗi đớn đau. Và Người nói không. Người nói khổ đau sẽ đưa con
ra khỏi những lo toan trần thế và đưa con lại gần Ta hơn.
- Tôi
xin Người làm cho tinh thần tôi phát triển. Và Người nói không. Người nói sẽ
cho tôi sự sống để tôi vui hưởng tất cả mọi thứ.
- Tôi
xin Người giúp tôi yêu thương những người khác nhiều như Người yêu tôi. Và Người
nói : À, cuối cùng thì con cũng có một ý tưởng hay. (Tài liệu nước ngoài.
Hải Lý dịch. Đăng trong tuần báo CgvDt, số 1147, ngày 1.3.1998)
*
5. Xin điều này được điều khác
Tôi
xin Chúa cho tôi sức khoẻ để tôi có thể làm được những việc lớn lao - Ngài lại
ban cho tôi sự yếu đuối để tôi làm mọi việc cách tốt hơn.
Tôi
xin Chúa cho tôi giàu sang để tôi có thể sống hạnh phúc hơn - Ngài lại ban cho
tôi sự nghèo nàn để tôi sống khôn ngoan hơn.
Tôi
xin Chúa ban cho tôi quyền lực để được người đời xưng tụng - Ngài lại ban cho
tôi sự mọn hèn để tôi ý thức cần đến Ngài hơn.
Tôi
xin Chúa ban cho tôi mọi sự, nhờ đó tôi tận hưởng thú vui cuộc sống - Ngài lại
ban cho tôi cuộc sống để nhờ đó tôi tận hưởng mọi sự.
Tuy
tôi chẳng được tất cả những điều tôi xin, nhưng lại nhận được mọi thứ tôi cần.
(Anon)
6.
Chuyện minh họa
a/
Kiên trì
Một
người đưa tin đến một lâu đài cũ kỹ và anh lấy búa gõ cửa. Không ai trả lời.
Anh lại gõ và chỉ có tiếng vang dội lại. Nhưng anh biết có người trong nhà, anh
nhìn thấy họ qua cửa sổ. Giận sôi lên, anh cầm búa và lấy hết sức giáng mạnh
vào cửa hai ba chục lần.
Một
khuôn mặt cau có ngó qua lỗ then cửa và lịch sự hỏi xem người khách muốn vào
không.
Vị
khách nói như mê sảng : "Này ông, tôi vào được không ? Chẳng lẽ
ai muốn vào cũng phải gõ như tôi ?".
- Ồ,
ông biết đấy : Có nhiều trẻ ở xung quanh đến đây, chúng gõ cửa một vài lần
rồi bỏ chạy, nên chúng tôi biết là không cần để ý đến chúng. Nhưng khi nghe ông
gõ cửa, tôi thực sự thấy ông muốn vào. Vì thế tôi ra mở cửa.
b/
Khiêm tốn
Ngày
kia, thánh Clément Hofbauer đi xin đồ viện trợ cho các cô nhi. Ngài vào một
quán ăn, có ba người đang đánh bạc, xin họ góp phần vào công việc từ thiện. Một
người chửi bới, rồi nhổ vào mặt ngài.
Thánh
nhân lặng lẽ rút khăn tay lau mặt và nhẹ nhàng nói : "Đó là phần ông
cho tôi. Còn phần cho các cô nhi của tôi đâu ?"
Tay cờ bạc kinh ngạc đến thẹn
thùng, rồi dốc túi đưa hết cho ngài.
V.
Lời nguyện cho mọi người
Chủ
tế : Anh chị em
thân mến, cầu nguyện là hơi thở, là sức sống, là linh hồn của đời sống người
Kitô hữu. Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết cầu nguyện
như Chúa đã dạy :
1.
Hội thánh luôn khuyên nhủ con cái mình siêng năng cầu nguyện / Chúng ta hiệp
lời cầu xin cho các tín hữu biết chăm chỉ lắng nghe / và cố gắng thực hiện
lời mời gọi tha thiết của Hội thánh / trong đời sống đức tin thường ngày.
2.
Ngày nay / có một số Kitô hữu / đặc biệt là các Kitô hữu trẻ /
cho rằng cầu nguyện không còn cần thiết nữa / Chúng ta hiệp lời cầu xin
cho hết thảy mọi tín hữu hiểu rằng / cầu nguyện cần thiết cho đời sống đức
tin / như dầu cần cho đèn.
3.
Cầu nguyện trong gia đình rất quan trọng cho cuộc sống đức tin của người tín hữu /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết mọi gia đình Công giáo / biết trung
thành đọc kinh tối sáng mỗi ngày.
4.
Chúa Giêsu dạy ta kinh Lạy Cha để cầu nguyện cùng Chúa Cha / Chúng ta hiệp
lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / vừa đọc vừa suy niệm /
và sống theo tinh thần của lời kinh nguyện tuyệt vời này.
Chủ
tế : Lạy Chúa, xin
cho chúng con biết luôn cảm tạ Chúa là Đấng đã dựng nên chúng con và gìn giữ
chúng con khỏi mọi sự dữ trong cuộc sống thường ngày. Chúng con cầu xin
VI.
Trong Thánh Lễ
- Trước
kinh Lạy Cha : Khi các môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cầu nguyện, Ngài đã dạy
họ Kinh Lạy Cha. Chúng ta hãy kết hợp tâm tình với các môn đệ mà cầu nguyện bằng
chính lời kinh Chúa dạy.
VII.
Giải tán
Trong
tuần này, mỗi khi có điều gì cần, chúng ta hãy cầu xin với Chúa cách khiêm tốn,
kiên trì và tin tưởng, bởi vì chính Ngài đã hứa : "Ai xin thì sẽ được,
ai tìm thì gặp, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho".
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật XVII Thường Niên (C)
Chúa Nhật,
24 Tháng 7, 2016
Lời
cầu nguyện của Thầy
Lời
cầu nguyện của các môn đệ
Lc
11:1 – 13
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy
Chúa Cha là Đấng hay thương xót,
Nhân
danh Chúa Kitô con Cha, chúng con khẩn cầu cùng Cha,
Xin
Cha hãy ban Ân Huệ xuống cho chúng con,
Xin
hãy tuôn đổ Thần Khí Chúa trên chúng con!
Lạy
Chúa Thánh Thần, Đấng Phù Trợ
Xin
hãy dạy cho chúng con cầu nguyện trong chân lý,
trong
Đền Thờ mới
chính
là Chúa Kitô.
Lạy
Chúa Thánh Thần, Đấng trung tín với Chúa Cha và với chúng con,
như
chim có tổ,
xin
hãy bàu chữa liên lỉ với Chúa Cha cho chúng con,
Bởi
vì chúng con không biết cầu nguyện như thế nào.
Thần
Khí của Chúa Kitô,
Quà tặng
đầu tiên dành cho chúng con là những người tin Chúa,
xin
hãy cầu nguyện trong chúng con không ngừng nghỉ với Chúa Cha,
như
Con Người đã dạy cho chúng con. Amen.
2.
Bài Đọc
a)
Để trợ giúp chúng ta hiểu đoạn Tin Mừng:
Bài
Tin Mừng được chia thành ba đoạn:
Lc
11:1-4: Lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã dạy
Lc
11:5-8: Dụ ngôn người bạn quấy rầy
Lc 11:9-13: Giáo
huấn về hiệu quả của lời cầu nguyện
b)
Tin Mừng:
1 Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở
nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy,
xin dạy chúng con cầu nguyện, như ông Gioan đã dạy môn đệ của
ông." 2 Người bảo các ông: "Khi các con cầu
nguyện, hãy nói:
"Lạy Cha, nguyện xin danh thánh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến.
3 xin Cha cho chúng con hôm nay
lương thực hằng ngày;
4 và tha nợ chúng con, như chúng con
cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con;
và
xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ."
5 Và Người còn bảo các ông rằng:
"Nếu ai trong các con có người bạn, nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói:
"Anh ơi, xin cho tôi vay ba cái bánh; 6 vì tôi có anh
bạn đi đường ghé lại nhà tôi, và tôi không có gì thiết đãi anh ấy"; 7 và
từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: "Xin anh đừng quấy rầy tôi; vì cửa đã
đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi; tôi không thể chỗi dậy lấy bánh
cho anh được? 8 Thầy bảo các con, dẫu người đó không
dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự
quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.
9 "Và Thầy bảo các con: Các con
hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. 10 Vì
hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. 11 Người
cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó
xin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá sao? 12 Hay nó xin
quả trứng lại cho nó con bò cạp ư? 13 Vậy nếu các con là
những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các
con trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao? "
3.
Giây phút thinh lặng cầu nguyện
-
Giống như các môn đệ, chúng ta cũng hãy cùng nhau tề tựu chung quanh Chúa Giêsu
đang cầu nguyện một mình. Chúng ta quây quần chung quanh Người và trong
Người với tất cả sức lực của chúng ta, mọi ý nghĩ, mọi lời cam kết và mối bận
tâm, niềm hy vọng và nỗi đau khổ của chúng ta…
-
Ngày nay, chính chúng ta là những môn đệ trông thấy Thầy mình đang cầu nguyện
và tự cho phép mình được tham gia vào việc cầu nguyện của Người, mà một cách rõ
ràng, là khá đặc biệt.
-
Hôm nay, lời của Người đang nói với chúng ta, lời mời gọi tin tưởng vào tình
yêu của Chúa Cha gửi đến cho chúng ta. Chúng ta đã mải mê với những thứ vật
chất, rất nhiều kiếm tìm với “tất cả và ngay lập tức”, vì thế say mê bởi một
ngàn thứ, rồi sau đó (và chỉ “sau đó”, sau một vài biến cố làm chúng ta bàng
hoàng sửng sốt) chúng ta mới khám phá ra rằng tất cả những thứ đó chỉ là phù
phiếm …
-
Hôm nay, tùy chúng ta có cất tiếng để dâng lên lời cầu nguyện của Thầy Chí
Thánh: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả
sáng…
4.
Một vài câu hỏi
Chúng
ta hãy dùng cơ hội này để kiểm điểm lại cách cầu nguyện của chúng ta:qua
*
Việc cầu nguyện mang ý nghĩa gì đối với tôi: Đó có phải là một bổn phận
không? Có phải là một sự tạm dừng trong việc tìm kiếm bản ngã
không? Đó có phải là việc dâng lên Thiên Chúa với một danh sách các lời cầu
xin không? Có phải là một lúc tạm dừng cùng với Đức Chúa Cha không?
Đó có phải là một cuộc đối thoại tin tưởng và đơn sơ với Đấng hết lòng yêu
thương tôi không?
*
Tôi đã dành ra bao nhiêu thời gian cho việc cầu nguyện: một ít phút mỗi ngày?
hay mỗi tuần một lần hay là mỗi tháng một lần? Hay là thỉnh thoảng?
Tôi có cầu nguyện đều đặn thường xuyên không? Tôi có chờ cho đến lúc “cảm
thấy có nhu cầu” thì mới cầu nguyện hay không?
*
Điểm khởi đầu cho lời cầu nguyện của tôi là gì: Đó có phải là Lời Chúa
không? Có phải là ngày lễ của một vị thánh hay là ngày của nghi lễ phụng
vụ không? Đó có phải là do lòng sùng kính Đức Mẹ không? Đó có phải
là một bức tượng hay bức hình không? Có phải là từ các sự kiện quan trọng
trong đời sống của tôi hoặc trong lịch cử của thế giới không?
*
Tôi gặp gỡ ai khi cầu nguyện: Nhìn sâu vào bản thân mình, khi cầu nguyện,
tôi đã cầu nguyện với người mà tôi cảm thấy là quan tòa phê phán tôi hay là tôi
cầu nguyện với một người bạn? Tôi có cảm thấy Chúa là một người “bằng
vai” với tôi hay là một “Đấng Thánh”, Đấng cao siêu hay là không thể đến gần được?
Chúa có gần bên tôi không hay là xa vời và lãnh đạm? Người là Chúa
Cha của tôi hay là Thầy tôi? Chúa có quan tâm tới tôi không hay là “Chúa
quá bận rộn với các việc của Người không”?
*
Tôi cầu nguyện như thế nào: tôi có cầu nguyện một cách máy móc không, có dùng
những khuôn sáo có sẵn không? Tôi có cầu nguyện bằng các đoạn Thánh Vịnh
hoặc các đoạn Kinh Thánh khác không? Có cầu nguyện bằng các lời của bài đọc
Phụng Vụ không? Tôi có chọn cầu nguyện bằng những lời tự phát không? Tôi
có đi tìm các văn bản với lời lẽ văn hoa không hay tôi thích lặp lại những lời
nguyện ngắn? Tôi đã xử dụng “lời cầu nguyện của Chúa” như thế nào? Tôi có
thường xuyên cầu khẩn Thiên Chúa vì những nhu cầu hay vì muốn ca ngợi Người
trong những lời phụng vụ hoặc chiêm niệm Người trong thinh lặng không?
Tôi có khả năng cầu nguyện trong lúc làm việc không, hoặc tại bất cứ nơi nào hoặc
chỉ khi trong nhà thờ mà thôi? Tôi có khả năng tự mình soạn ra lời cầu
nguyện phụng vụ của riêng tôi không? Mẹ Thiên Chúa có chỗ đứng nào trong
những lời cầu nguyện của tôi không?
5.
Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Bài
Tin Mừng này trình bày lời cầu nguyện như là một trong các nhu cầu căn bản và
là một điểm quan trọng trong đời sống của người môn đệ của Chúa Giêsu và của cộng
đoàn các môn đệ.
Các
câu 1–4: Chúa
Giêsu, giống như những bậc đại tôn sư trong thời đại của Người, dạy các môn đệ
mình một lời cầu nguyện sẽ xác định căn tính của họ: “Kinh Lạy Cha”.
a) Có
một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn
đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện: Chúa Giêsu cầu nguyện riêng
một nơi. Theo Phúc Âm của Luca, Chúa làm điều này thường xuyên (5:16), nhất
là trước những biến cố quan trọng: trước khi tuyển chọn Nhóm Mười Hai
(6:12-13), trước khi kêu mời Phêrô tuyên xưng đức tin của mình (9:18-20), trước
khi Chúa biến hình (9:28-29), và sau cùng, trước cuộc thương khó (22:40-45).
Khi
Chúa Giêsu cầu nguyện, Người đã gợi lên trong lòng các môn đệ một niềm ước ao cầu
nguyện giống như Người. Một cách rõ ràng, lời cầu nguyện tự nó đã cho thấy
bên ngoài trong một phương thức rất đặc biệt và chắc chắn đã ảnh hưởng đến sự
rao giảng của Người. Các môn đệ hiểu rằng lời cầu nguyện như thế thật là
hoàn toàn khác so với những gì đã họ được dạy bởi các bậc tôn sư tại Israel hay
thậm chí ngay cả những người đi trước Chúa Giêsu. Đó là lý do tại sao các
ông xin Chúa dạy cho các ông cầu nguyện. Do đó, lời cầu nguyện mà Chúa
Giêsu truyền cho các môn đệ mình trở thành lời diễn đạt đặc trưng của lý tưởng
và căn tính của họ, trong cách các ông liên quan với Thiên Chúa và với nhau.
b)
Chúa Cha: Điều đầu
tiên mà Chúa Giêsu dạy về cầu nguyện là gọi Thiên Chúa là “Cha”. Không giống
như Luca, tác giả Mátthêu đã không thêm vào đại danh từ sở hữu chủ “của chúng
tôi”, ông ít nhấn mạnh hơn về khía cạnh cộng đoàn của kinh nguyện Kitô hữu.
Mặt khác, sự việc mà gọi Chúa Cha, là yếu tố tạo thành chất kết hợp tốt nhất của
cộng đoàn các môn đệ.
Đối với
người Do Thái vào thế kỷ thứ nhất, mối quan hệ với cha là một trong những mối
quan hệ thân mật, mà cũng là một sự thừa nhận thẩm quyền của người cha trên mỗi
thành viên của gia đình. Điều này được phản ảnh trong phong tục người
Kitô hữu gọi Thiên Chúa là “Chúa Cha”, trong khi đó không có một bằng chứng cụ
thể nào cho rằng người Do Thái thời bấy giờ đã quen gọi Thiên Chúa với một chữ
thân mật“abba”. Chữ này không có gì khác hơn là hình thức nhấn mạnh
của tiếng Aram “’ab”, một từ ngữ quen thuộc và kính trọng được dùng cho
những người cha trần thế.
Sự việc
mà Chúa Giêsu đã hướng về Thiên Chúa và gọi Ngài là abba, cho thấy
một mối quan hệ mới mà Người, và do đó các môn đệ của Người, đã thiết lập với
Thiên Chúa: Một mối quan hệ thân thiết, quen thuộc và tín thác.
Trong
giản đồ hệ thống cổ điển của lời cầu nguyện Kinh Thánh, phần đầu của “kinh Lạy
Cha” là thưa chuyện trực tiếp với Thiên Chúa, trong khi phần thứ hai đề cập đến
các nhu cầu của con người trong cuộc sống trần gian này.
c) Lạy
Cha, nguyện xin danh thánh Cha cả sáng: trong lời mặc khải của các tiên tri Israel, chính
Thiên Chúa là Đấng đã “tự thánh hóa Danh của Người” (có nghĩa là, chính Chúa:
“danh tức là người”) can thiệp với quyền năng trong lịch sử nhân loại, ấy thế
mà dân Israel và các dân khác đã xúc phạm đến Chúa. Trong sách Edêkien chúng
ta đọc thấy: “Chúng đã làm cho danh Ta bị xúc phạm giữa các dân
mà chúng đi đến, khiến người ta nói về chúng rằng: ‘Đó là dân của ĐỨC CHÚA,
chúng đã phải ra khỏi xứ của Người.’ Nhưng Ta ái ngại cho
thánh danh Ta đã bị nhà Ít-ra-en xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến. Vì
thế, ngươi hãy nói với nhà Ít-ra-en: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế
này: Hỡi nhà Ít-ra-en, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, mà vì danh
thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến. Ta
sẽ biểu dương danh thánh thiện vĩ đại của Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh
mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa chúng. Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là
ĐỨC CHÚA - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng - khi Ta biểu dương sự thánh
thiện của Ta nơi các ngươi ngay trước mắt chúng. Bấy giờ,
Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi lại từ khắp các nước,
và sẽ dẫn các ngươi về đất của các ngươi.” (36:20-24). Trong cùng một
đề tài chúng ta cũng có thể đọc: Đnl 32:51; Is 29:22; Ed 28:22-25).
Chủ đề
của động từ “thánh thiêng”, trong Lc 11:2, chính là Thiên Chúa: chúng ta
đang phải đối diện với “thần học thụ động”. Điều này có nghĩa là lời khẩn cầu
thứ nhất của lời cầu nguyện này không liên quan gì đến loài người và bổn phận
không thể chối cãi của họ là phải tôn vinh và kính trọng Thiên Chúa, mà chính
Chúa Cha là Đấng phải được biết đến với tất cả mọi loài. Vì vậy, chúng ta
khẩn cầu cùng Thiên Chúa để Người mặc khải cho chúng ta trong quyền năng tối
thượng của Người: đây là một lời khẩn cầu với ý nghĩa cánh chung, được nối
kết chặt chẽ với lời khẩn cầu sau đây.
d) Nước
Cha trị đến: sự
kiện vĩ đại được công bố bởi Chúa Giêsu là việc khẳng định Nước Trời sắp đến giữa
chúng ta: “Hãy chắc chắn điều này: Triều đại của Thiên Chúa đã đến
gần” (Lc 10:11; và xem Mt 10:7). Lời
cầu nguyện của Chúa Giêsu và của các Kitô hữu, khi ấy, là sự hòa hợp chặt chẽ với
lời công bố này. Việc cầu xin trong lời cầu nguyện này là Triều Đại Thiên
Chúa đã và đang hiện diện rõ ràng hơn bao giờ hết, trên thực tế, có hai hiệu quả:
người đang cầu nguyện phải đến mặt đối mặt với kế hoạch ngày cánh chung của
Thiên Chúa, mà cũng còn đối mặt với bổn phận sẵn lòng nhiệt thành phục vụ cho ý
muốn cứu rỗi của Chúa Cha. Vì thế, nếu đúng là chúng ta có thể và phải
thưa với Đức Chúa Cha về các nhu cầu của chúng ta, thì cũng đúng là lời cầu
nguyện của người Kitô hữu không bao giờ có loài người trong lời kết của nó, nó
cũng không bao giờ là một lời cầu xin vị kỷ, nhưng kết thúc sau rốt của nó là để
vinh danh Thiên Chúa, cầu khẩn sự gần gũi trọn vẹn của Người, sự khải hiện hoàn
toàn của Người: “Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia,
Người sẽ thêm cho” (Lc 12:31).
e)
Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày: chúng ta đã tiến đến phần thứ hai
của lời cầu nguyện của Chúa. Người cầu nguyện bây giờ đã đưa vào áp dụng
mối quan hệ mật thiết và chính xác với Thiên Chúa, và hiện đang sống trong sự mật
thiết hợp lẽ với Thiên Chúa là Chúa Cha và những lời cầu xin của người ấy xuôi
chảy từ cách sống này.
Trong
thời đại của Chúa Giêsu, cũng (gần giống) như thời đại của chúng ta, bánh là
lương thực thiết yếu nhất, là chất dinh dưỡng chính. Tuy nhiên, trong trường
hợp này, “bánh” tượng trưng cho thực phẩm nói chung, và hơn thế nữa, tất cả các
nhu cầu vật chất của các môn đệ.
Danh
từ “bánh” là bản dịch từ chữ Hy-Lạp “epiousion”, cũng được thấy
trong Phúc Âm Mátthêu nhưng không thấy trong bất kỳ bản kinh thánh Hy-Lạp hoặc
văn bản ngoài kinh thánh nào khác. Điều này đã khiến cho khó có thể mà
đưa ra một phiên bản thực sự đáng tin cậy, vì thế mà chúng ta bị hạn chế trong
việc phiên dịch danh từ này một cách chuẩn xác theo bối cảnh.
Tuy
nhiên, có điều rõ ràng là người môn đệ khi cầu nguyện theo ý này thì hiểu rằng
sẽ không có nhiều của cải vật chất trong tương lai, thậm chí ngay cả thức ăn hằng
ngày: người ấy đã thực sự “từ bỏ tất cả mọi sự” để đi theo Đức Kitô (xem Lc
5:11). Ở đây chúng ta đang bàn luận tới tình trạng đặc trưng của thế hệ
tiên khởi của những Kitô hữu. Điều này không có nghĩa là lời cầu nguyện
xin “bánh” không còn thiết thực với các Kitô hữu ngày nay nữa: Tất cả
chúng ta được kêu gọi để nhận lãnh tất cả mọi thứ từ Thượng Đế, như một món quà
cho không từ Thiên Chúa, ngay cả khi những thứ này có được từ sức lao động bởi
đôi tay chúng ta. Việc dâng của lễ Thánh Thể nhắc nhở chúng ta điều này
trong mọi lúc: chúng ta dâng lên Thiên Chúa những gì chúng ta biết rõ là
đã được nhận lãnh từ Thiên Chúa để chúng ta có thể nhận lãnh trở lại từ tay Người.
Điều này cũng có nghĩa là người Kitô hữu thuộc mọi thời đại không nên quá bận
tâm với tình trạng vật chất của mình, bởi vì Chúa Cha sẽ chăm sóc người ấy: "Vì
vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng
lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì
hơn áo mặc” (Lc 12:22-23).
f)
Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con: Người Kitô hữu, được đắm mình
trong sự cứu rỗi ban cho bởi Đức Chúa Cha với Triều Đại sắp đến của Người, biết
rằng tất cả mọi tội lỗi của người ấy đã được tha thứ. Điều này đặt để người
Kitô hữu trong điều kiện và bổn phận phải tha thứ cho những người khác, do đó
cho phép Thiên Chúa cũng có thể dứt khoát tha thứ cho người Kitô hữu giống như
họ đã tha thứ cho anh em mình (xem Mt 18:23-25).
Chúng
ta luôn chần chừ giữa vương quốc “đã” hiện hữu và vương quốc “chưa” đạt được.
Một người Kitô hữu cư xử trái với ơn cứu độ đã nhận được từ Thiên Chúa qua Đức
Kitô, làm cho sự tha thứ mà người ấy đã nhận được trở nên vô dụng. Đó là
lý do tại sao Luca đã nói: “như chính chúng con tha thứ”. Luca
không muốn đặt để loài người chúng ta ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng chỉ để
cho chúng ta biết rằng chúng ta có thể làm hỏng công cuộc cứu rỗi của Thiên
Chúa, trong đó Đức Chúa Cha đã sẵn lòng bao gồm cả chúng ta như là một nhân tố
tích cực, để mở rộng ơn tha thứ nhưng không của Người đến tất cả mọi người.
Các
câu 5-8: không
chỉ là một dụ ngôn, đây là một sự so sánh, bởi vì nó minh họa một thái độ điển
hình gợi lên trong những người nghe một câu trả lời tự phát và duy nhất.
Trong trường hợp này, sẽ khó mà tìm ra được bất cứ ai có thể trả lời một cách
nhanh nhảu “không có ai!” cho câu hỏi “Ai trong các con…? (Câu
5). Như vậy, đoạn Tin Mừng này muốn chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa hành
động như thế nào qua cung cách cư xử gạn lọc của loài người, tức là một bản sao
chép nghèo nàn của cung cách cư xử của Đức Chúa Cha.
Cảnh
được diễn ra trong một vùng đất Paléstine. Thông thường, bất cứ ai đi
trên một cuộc hành trình dài sẽ bắt đầu vào lúc hoàng hôn để tránh nhiệt độ rất
nóng của ban ngày. Trong nhà của người Paléstine vào thời ấy, chỉ có một
gian phòng và cả gia đình xử dụng nó cho tất cả các sinh hoạt trong ngày cũng
như dùng để ngủ vào ban đêm bằng cách chỉ cần trải chiếu dưới sàn nhà.
Lời
yêu cầu của người đàn ông mà bất chợt có một người khách viếng thăm giữa đêm
khuya, phản ảnh một cảm giác đặc thù về sự hiếu khách của những người xưa, và lời
giải thích về sự yêu cầu của “ba chiếc bánh” (câu 5) đó là một bữa ăn bình thường
cho một người lớn.
Người
đàn ông đã tin tưởng người bạn mình vào ban đêm là hình ảnh người môn đệ của
Chúa Kitô, được mời gọi để cầu nguyện cùng Thiên Chúa liên lỉ mọi nơi và mọi
lúc, một sự tin tưởng hoàn toàn rằng người ấy sẽ được lắng nghe, không phải bởi
vì người ấy đã quấy rầy Thiên Chúa, nhưng bởi vì Ngài là Chúa Cha giàu lòng
thương xót và là Đấng trung tín với mọi giao ước của Người. Do đó, dụ
ngôn cho chúng ta thấy một người môn đệ nên phải cầu nguyện “kinh Lạy Cha chúng
con” như thế nào: với một lòng trông cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa, Chúa
Cha yêu thương và công bằng, một lòng trông cậy mà ngay cả những việc táo gan
nhất là “quấy rầy Người” vào bất cứ lúc nào và nài nỉ với Người trong mọi việc,
chắc chắn là sẽ được trả lời.
Cầu
nguyện, được xem như là một thái độ căn bản của mỗi người Kitô hữu muốn thực sự
là môn đệ của Chúa Giêsu, được diễn đạt rành mạch bởi thánh Phaolô tông đồ:“Anh
em hãy cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi
hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô
Giêsu” (1Tx 5:17-18);“Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em
hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như
vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh” (Ep 6:18).
Các
câu 9-13: phần
cuối bài Tin Mừng của chúng ta đúng ra được gọi là phần hướng dẫn kiến thức.
Nó tóm tắt lại chủ đề của các câu trước, nhấn mạnh đến lòng tin tưởng phải được
biểu thị bằng lời cầu nguyện của người Kitô hữu, dựa trên một đức tin vững
vàng. Chính đức tin của người cầu nguyện sẽ mở rộng cánh cửa đến trái tim
của Chúa Cha, và đó là bản sắc của Chúa Cha, Đấng luôn sẵn lòng che chở
con cái Người trong vòng tay và an ủi chúng với sự
trìu mến của một người mẹ (xem Is 66:12-13), là phải nuôi dưỡng
đức tin của các Kitô hữu.
Thiên
Chúa là một người Cha thích được nhận những lời cầu xin của các người con, bởi
vì điều này cho thấy rằng họ đã đặt lòng trông cậy vào nơi Người; để cầu xin, họ
phải tiến đến Người với tấm lòng rộng mở; vì cầu xin đã thúc đẩy họ phải nhìn đến
gương mặt nhân hậu và yêu thương của Người, vì bằng sự cầu xin (kể cả cầu xin
gián tiếp) họ cho thấy là họ tin tưởng rằng Người đích thực là Chúa của mọi thời
đại và của hết thảy thế giới, và hơn hết cả, bởi vì lời cầu xin của họ đã tạo
cơ hội cho Người sẵn sàng công khai tỏ ra tình yêu cho không, ân cần, và tinh tế
của Người chỉ vì lợi ích của con cái Người. Điều làm phiền lòng Chúa Cha
không phải là những lời cầu xin khăng khăng hoặc thiếu cân nhắc của con cái Người,
mà đó là họ không cầu xin một cách đầy đủ, giữ im lặng và hầu như thờ ơ với Người,
là họ lánh xa với một ngàn lý do bào chữa khách sáo, chẳng hạn như “Chúa đã biết
tất cả mọi việc”, v.v. Thiên Chúa chắc chắn là một người Cha, Đấng cung cấp
tất cả mọi sự và chăm sóc cuộc sống hằng ngày của con cái Người, nhưng, đồng thời
Người cũng biết điều gì tốt đẹp nhất cho họ, thậm chí còn biết rõ hơn họ nữa.
Đó là lý do tại sao Chúa tuôn đổ trên các Kitô hữu những điều tốt đẹp, và hơn hết
cả, món quà tuyệt hảo: Chúa Thánh Thần, món quà duy nhất thật
sự không thể thiếu cho đời sống của họ, món quà mà nếu được phép làm, Đấng sẽ
khiến họ trở nên con cái đích thực trong Đức Chúa Con
6.
Đáp Ca: Thánh Vịnh 104
Lạy
Thiên Chúa thương xót và quan phòng, Đấng đã tạo ra sự hài hòa kỳ diệu của vũ
trụ và Đấng đã đặt để loài người trong ấy như “vị đại diện” của Người, chúng ta
hãy ca tụng Người với bài Thánh Vịnh:
Chúc
tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!
Áo Ngài mặc: toàn oai phong lẫm liệt,
cẩm bào Ngài khoác: muôn vạn ánh hào quang!
Tầng trời thẳm, Chúa căng như màn trướng,
điện cao vời, dựng trên khối nước cõi thanh không.
Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió.
Sứ giả Ngài: làm gió bốn phương,
nô bộc Chúa: lửa hồng muôn ngọn.
Chúa lập địa cầu trên nền vững,
khôn chuyển lay muôn thuở muôn đời!
Áo vực thẳm choàng lên trái đất,
khối nước nguồn tụ lại đỉnh non cao.
Nghe tiếng Ngài doạ nạt, chúng đồng loạt chạy dài;
sấm Ngài mới rền vang, chúng kinh hoàng trốn thoát,
băng qua núi qua đồi, chảy xuôi ra đồng nội
về nơi Chúa đặt cho.
Ngài vạch đường ranh giới ngăn cản chúng vượt qua,
không còn cho trở lại dâng lên ngập địa cầu.
Chúa khơi nguồn: suối tuôn thác đổ,
giữa núi đồi, lượn khúc quanh co,
đem nước uống cho loài dã thú,
bầy ngựa hoang đang khát được thoả thuê.
Bên dòng suối, chim trời làm tổ,
dưới lá cành cất giọng líu lo.
Từ cao thẳm, Chúa đổ mưa xuống núi,
đất chứa chan phước lộc của Ngài.
Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc,
làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng.
Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh,
chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người,
xức dầu thơm cho gương mặt sáng tươi,
nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ.
Hương bá Li-băng, những cây CHÚA đã trồng,
được tràn trề nhựa sống.
Bầy chim tước rủ nhau làm ổ,
hạc bay về xây tổ ngọn cao.
Núi chon von, loài sơn dương tìm đến,
hốc đá sâu, giống ngân thử ẩn mình.
Chúa đặt vầng trăng để đo thời tiết,
dạy mặt trời biết lặn đúng thời gian.
Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối,
chốn rừng sâu, muông thú tung hoành.
Tiếng sư tử gầm lên vang dội,
chúng săn mồi, gào xin Chúa cho ăn.
Ánh dương lên, chúng bảo nhau về,
tìm hang hốc, chui vào nằm nghỉ.
Đến lượt con người ra đi làm lụng,
những mải mê tới lúc chiều tà.
Công trình Ngài, lạy CHÚA, quả thiên hình vạn trạng,
Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan!
Những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.
Này đại dương bát ngát mênh mông,
nơi muôn vàn sinh vật to lẫn nhỏ vẫy vùng,
nơi tàu bè cỡi sóng và thủy quái tung tăng,
là vật Chúa tạo thành để làm trò tiêu khiển.
Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa
đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn.
Ngài ban xuống, chúng lượm về,
Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn phước.
Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi;
lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi.
Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới,
là chúng được dựng nên,
và Ngài đổi mới mặt đất này.
Vinh hiển CHÚA, nguyện muôn năm tồn tại,
công trình CHÚA làm Chúa được hân hoan!
Chúa nhìn đất thấp, đất sợ run lẩy bẩy,
Người chạm núi cao, núi toả khói mịt mù.
Suốt cuộc đời, tôi sẽ ca mừng CHÚA,
sống ngày nào, xin đàn hát kính Thiên Chúa của tôi.
Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả,
đối với tôi, niềm vui là chính CHÚA.
Ước gì tội nhân phải biệt tích cõi đời,
bọn bất lương sạch bóng chẳng còn ai.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!
Áo Ngài mặc: toàn oai phong lẫm liệt,
cẩm bào Ngài khoác: muôn vạn ánh hào quang!
Tầng trời thẳm, Chúa căng như màn trướng,
điện cao vời, dựng trên khối nước cõi thanh không.
Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió.
Sứ giả Ngài: làm gió bốn phương,
nô bộc Chúa: lửa hồng muôn ngọn.
Chúa lập địa cầu trên nền vững,
khôn chuyển lay muôn thuở muôn đời!
Áo vực thẳm choàng lên trái đất,
khối nước nguồn tụ lại đỉnh non cao.
Nghe tiếng Ngài doạ nạt, chúng đồng loạt chạy dài;
sấm Ngài mới rền vang, chúng kinh hoàng trốn thoát,
băng qua núi qua đồi, chảy xuôi ra đồng nội
về nơi Chúa đặt cho.
Ngài vạch đường ranh giới ngăn cản chúng vượt qua,
không còn cho trở lại dâng lên ngập địa cầu.
Chúa khơi nguồn: suối tuôn thác đổ,
giữa núi đồi, lượn khúc quanh co,
đem nước uống cho loài dã thú,
bầy ngựa hoang đang khát được thoả thuê.
Bên dòng suối, chim trời làm tổ,
dưới lá cành cất giọng líu lo.
Từ cao thẳm, Chúa đổ mưa xuống núi,
đất chứa chan phước lộc của Ngài.
Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc,
làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng.
Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh,
chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người,
xức dầu thơm cho gương mặt sáng tươi,
nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ.
Hương bá Li-băng, những cây CHÚA đã trồng,
được tràn trề nhựa sống.
Bầy chim tước rủ nhau làm ổ,
hạc bay về xây tổ ngọn cao.
Núi chon von, loài sơn dương tìm đến,
hốc đá sâu, giống ngân thử ẩn mình.
Chúa đặt vầng trăng để đo thời tiết,
dạy mặt trời biết lặn đúng thời gian.
Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối,
chốn rừng sâu, muông thú tung hoành.
Tiếng sư tử gầm lên vang dội,
chúng săn mồi, gào xin Chúa cho ăn.
Ánh dương lên, chúng bảo nhau về,
tìm hang hốc, chui vào nằm nghỉ.
Đến lượt con người ra đi làm lụng,
những mải mê tới lúc chiều tà.
Công trình Ngài, lạy CHÚA, quả thiên hình vạn trạng,
Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan!
Những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.
Này đại dương bát ngát mênh mông,
nơi muôn vàn sinh vật to lẫn nhỏ vẫy vùng,
nơi tàu bè cỡi sóng và thủy quái tung tăng,
là vật Chúa tạo thành để làm trò tiêu khiển.
Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa
đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn.
Ngài ban xuống, chúng lượm về,
Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn phước.
Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi;
lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi.
Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới,
là chúng được dựng nên,
và Ngài đổi mới mặt đất này.
Vinh hiển CHÚA, nguyện muôn năm tồn tại,
công trình CHÚA làm Chúa được hân hoan!
Chúa nhìn đất thấp, đất sợ run lẩy bẩy,
Người chạm núi cao, núi toả khói mịt mù.
Suốt cuộc đời, tôi sẽ ca mừng CHÚA,
sống ngày nào, xin đàn hát kính Thiên Chúa của tôi.
Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả,
đối với tôi, niềm vui là chính CHÚA.
Ước gì tội nhân phải biệt tích cõi đời,
bọn bất lương sạch bóng chẳng còn ai.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
7. Lời nguyện kết
Lạy
Chúa Cha tốt lành và thánh thiện, tình yêu của Cha đã làm cho chúng con trở
thành anh chị em và thúc giục chúng con đến quây quần trong Hội Thánh của Cha để
ca tụng với đời sống mầu nhiệm của sự hiệp thông. Chúa kêu gọi chúng con
chia sẻ chiếc bánh, hằng sống và muôn đời, đã ban cho chúng con từ trời.
Xin Chúa hãy giúp chúng con cũng biết cách bẻ bánh, trong tình yêu của Đức
Kitô, chiếc bánh trần thế của chúng con, để cơn đói cơ thể và tinh thần của
chúng con có thể được no thỏa. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét