Trang

Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2017

11-02-2017 : THỨ BẢY TUẦN V THƯỜNG NIÊN - ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC - Lễ Nhớ

11/02/2017
Thứ Bảy tuần 5 thường niên
Đức Mẹ Lộ Đức.
Ngày Quốc Tế các bệnh nhân.
Lễ nhớ.

* Năm 1858, Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội hiện ra với chị Bécnađét Xubiru ở hang Maxabien gần Lộ Đức. Qua người thôn nữ khiêm hạ này, Đức Maria kêu gọi những người tội lỗi ăn năn sám hối.
Biến cố này đã khơi dậy lòng nhiệt thành cầu nguyện và sống bác ái, nhất là công tác phục vụ các bệnh nhân và người nghèo. Các tín hữu đến cầu khẩn Đức Mẹ đã nhận thấy Người là hình ảnh của Hội Thánh ngày mai, hình ảnh tiên báo thành Giêrusalem mới luôn mở rộng đón nhận mọi dân tộc.

Bài Ðọc I: (Năm I) St 3,9-21
"Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng, để cày ruộng đất".
Bài trích sách Sáng Thế.
Thiên Chúa đã gọi Ađam và phán bảo ông rằng: "Ngươi ở đâu?"
Ông đã thưa: "Tôi đã nghe tiếng Ngài trong vườn địa đàng, nhưng tôi sợ hãi, vì tôi trần truồng và đang ẩn núp".
Chúa phán bảo ông rằng: "Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi không được ăn ư?"
Ađam thưa lại: "Người phụ nữ Chúa đã cho làm bạn với tôi, chính nàng đã cho tôi trái cây và tôi đã ăn".
Và Thiên Chúa phán bảo người phụ nữ rằng: "Tại sao ngươi đã làm điều đó?"
Người phụ nữ thưa: "Con rắn đã lừa dối tôi và tôi đã ăn".
Thiên Chúa phán bảo con rắn rằng: "Bởi vì mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu, mi sẽ bò đi bằng bụng và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân người".
Chúa phán bảo cùng người phụ nữ rằng: "Ta sẽ làm cho ngươi gặp nhiều khổ cực khi thai nghén và đau đớn khi sinh con; ngươi sẽ ở dưới quyền người chồng, và chồng sẽ trị ngươi".
Người lại phán bảo Ađam rằng: "Vì ngươi đã nghe lời vợ mà ăn trái Ta cấm, nên đất bị nguyền rủa vì tội của ngươi. Trọn đời, ngươi phải làm lụng vất vả mới có mà ăn. Ðất sẽ mọc cho ngươi đủ thứ gai góc, và ngươi sẽ ăn rau cỏ ngoài đồng. Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi ngươi trở về đất, vì ngươi từ đó mà ra. Ngươi là bụi đất, nên ngươi sẽ trở về bụi đất".
Và Ađam đã gọi tên vợ mình là Evà: vì lẽ bà là mẹ của chúng sinh.
Thiên Chúa cũng làm cho Ađam và vợ ông những chiếc áo da và mặc cho họ.
Và Người phán: "Nầy, Ađam đã trở thành như một trong chúng ta, biết thiện ác. Vậy bây giờ, đừng để hắn giơ tay hái trái cây trường sinh mà ăn và được sống đời đời".
Và Thiên Chúa đuổi ông ra khỏi vườn địa đàng, để cày ruộng đất, là nơi ông phát xuất ra.
Ðó là Lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv. 89, 2, 3-4, 5-6, 12-13
Ðáp: Thân lạy Chúa, Chúa là chỗ chúng tôi dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia. (1)
Xướng 1) Ôi Thiên Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này qua thuở kia, vẫn có Ngài. - Ðáp.
2) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm cạnh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Người phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người". - Ðáp.
3) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi; Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. - Ðáp.
4) Xin dạy chúng tôi biết đếm ngày giờ, để chúng tôi luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ, xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.

Alleluia: Tv. 94, 8ab
Alleluia, alleluia - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 8,1-10
"Họ ăn no nê".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo: "Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến".
Các môn đệ thưa: "Giữa nơi hoang địa nầy, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no".
Và người hỏi các ông: "Các con có bao nhiêu bánh?"
Các ông thưa: "Có bảy chiếc".
Người truyền dân chúng ngồi xuống đất, rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân phát.
Các ông chia cho dân chúng.
Các môn đệ còn có mấy con cá nhỏ.
Người cũng đọc lời chúc tụng và truyền cho các ông phân phát.
Dân chúng ăn no nê và người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng.
Số người ăn độ chừng bốn ngàn.
Rồi Người giải tán họ, kế đó Người cùng các môn đệ xuống thuyền đến miền Ðammanutha.
Ðó là Lời Chúa.


Suy Niệm: Lòng quảng đại của Chúa

Tin Mừng hôm nay nêu bật lòng quảng đại của Chúa Giêsu đối với con người. Sở dĩ Chúa Giêsu đã có thể nuôi sống được đám đông dân chúng, dù chỉ bắt đầu với bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, là vì Ngài đã chạnh lòng thương xót họ. Mọi sáng kiến bác ái từ thiện và mọi chính sách phân phối thực phẩm đều phải được khởi đi từ tấm lòng yêu thương, nếu không chúng ta sẽ dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn, trở ngại, hoặc không sớm thì muộn, những công việc ấy cũng bị chen vào những ý đồ ích kỷ, vụ lợi.
Một khía cạnh khác, đó là mọi hành vi của Chúa Giêsu đều bắt đầu từ sự thật của chính Ngài hay của những người khác. Chúa Giêsu đã không khởi sự phép lạ một cách mơ hồ, nhưng từ chính sự thật của con người, cho dù đó là sự thật yếu kém đến đâu đi nữa. Ngài đã làm phép lạ từ bảy chiếc bánh và mấy con cái và mấy con cá nhỏ. Hành vi của Chúa không phải là hành vi đột xuất, bởi vì Ngài vẫn tiếp tục phục vụ kẻ khác một cách quảng đại như thế ngay cả khi đã chết. Quả thật, các kiểu nói và từ ngữ trong Tin Mừng hôm nay, cũng chính là các kiểu nói và từ ngữ được áp dụng cho Bí tích Thánh Thể, như "cầm lấy bánh", "dâng lời tạ ơn", "bẻ ra, trao cho các môn đệ". Như vậy, phải hiểu Bí tích Thánh Thể là một hành vi cứu giúp người đói khát, là sự nối dài hành vi quảng đại của Chúa Giêsu hôm nào, khi từ bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, Chúa Giêsu đã cho đám đông ăn no nê chỉ vì Ngài yêu thương họ.
Ngày hôm nay, để nuôi sống nhân loại, Chúa Giêsu đã lấy chính Thịt Máu Ngài làm lương thực. Với lương thực này, Ngài tin chắc mọi người sẽ được no thỏa để phát triển đến mức tối đa. Tuy nhiên, để lương thực ấy đủ cho mọi người thuộc mọi thế hệ, Chúa Giêsu cần đến sự cộng tác của con người, đặc biệt của Giáo Hội, bằng cách phân phát, chia sẻ. Ðám đông sẽ vẫn tiếp tục đói khát, nếu hôm ấy, các Tông đồ không phân phát bánh và cá cho người khác, vì sợ thiếu hay sợ không còn phần cho mình. Nếu vậy, cảnh đói khát hiện nay vẫn còn, là vì người ta từ chối phân phát và chia sẻ cho người khác, mà chỉ bo bo giữ lấy cho mình.
Nếu không có tấm lòng yêu thương, thì chẳng những chúng ta không thể có sáng kiến trong việc cứu giúp người khác, mà còn biện hộ cho khả năng giới hạn của mình và đình hoãn việc trợ giúp. Những lúc ấy, Bí tích Thánh Thể chúng ta đón nhận mỗi ngày trở thành vô hiệu: thay vì là nguồn lương thực không bao giờ cạn thúc đẩy chúng ta quảng đại hiến tặng người khác, nó trở thành gia sản độc quyền và cằn cỗi của riêng chúng ta.
Xin cho chúng ta ngày càng có tấm lòng yêu thương của Chúa, để những người xung quanh chúng ta không còn bị đói khát vì sự ích kỷ của chúng ta.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần V TN2
Bài đọcGen 3:9-24; Mk 8:1-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Lợi ích và tai hại của thức ăn
Có những thức ăn nuôi dưỡng và làm cho con người được sống khỏe; có những thức ăn gây bệnh (cao đường, cao máu, cao mỡ) và làm con người phải chết. Một con người bình dân sẽ không biết những hậu quả của thức ăn, nếu không được những nhà chuyên môn cho biết hậu quả của nó. Để sống khỏe, con người cần tuân theo sự chỉ dẫn của các nhà chuyên môn. Nếu ngoan cố ăn bậy theo ý mình, con người sẽ phải lãnh hậu quả tai hại của nó.
Các Bài Đọc hôm nay liên quan đến những lợi ích và tai hại của thức ăn. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, cả ma quỉ và tổ tiên con người phải lãnh nhận các hậu quả trầm trọng, vì đã bất tuân sự chỉ dẫn của Thiên Chúa để ăn trái của Cây Biết Thiện Ác.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu làm phép lạ cho 4,000 người ăn no nê. Vì của ăn này, tất cả dân chúng trở nên mạnh khỏe và không bị ngất xỉu dọc đường.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I (năm lẻ)Hình phạt của tội lỗi
1.1/ Sự thật được tiết lộ: Mọi hành động của con người đều cho hậu quả tốt hoặc xấu. Hậu quả của việc bất tuân Thiên Chúa qua việc ăn trái cấm làm con người sợ hãi, xấu hổ, và trốn tránh sự thật. Sớm hay muộn, con người cũng phải đối diện với sự phán xét của Thiên Chúa.
Khi được hỏi vì lý do tại sao phạm tội, con người không dám nhận trách nhiệm, nhưng đổ lỗi vòng quanh cho người khác: Ông Adong đổ lỗi cho Bà Evà, và còn ám chỉ phần lỗi của Thiên Chúa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con.” Bà Evà đổ lỗi cho con rắn "Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn." Nếu Bà vâng lời Thiên Chúa, con rắn đâu cám dỗ được. Con người có tự do hành động; và vì thế, con người phải chịu trách nhiệm về hành động của mình.
1.2/ Thiên Chúa ra hình phạt cho tất cả:
(1) Hình phạt của Con Rắn: Đức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn: "Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó."” Mối thù giữa ma quỉ và con người, giữa dòng giống ma quỉ và dòng giống con người. Mối thù này được chiến thắng bởi Đức Mẹ và Chúa Giêsu.
(2) Hình phạt của Bà Evà: Với người đàn bà, Chúa phán: "Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi." Điều truyền này nói lên vai trò gia trưởng trong gia đình của người đàn ông.
(3) Hình phạt của Ông Adong: Đất đai bị nguyền rủa vì ngươi và sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi. Con người phải làm việc vất vả mọi ngày trong đời mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra; vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ đuổi con người ra khỏi vườn Eden. Hình phạt nặng nhất là sự chết: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.”
1.3/ Con người bị ngăn cản không cho đụng đến Cây Trường Sinh: Trình thuật hôm nay củng cố sự kiện có 2 cây Thiên Chúa đặt chính giữa vườn: Cây Trường Sinh và Cây Biết Thiện Ác. Vì con người đã ăn trái cây của Cây Biết Thiện Ác, nên họ biết điều thiện và điều ác. Nhiều người giả sử nếu Ông Bà ăn quả của Cây Trường Sinh, con người sẽ được sống mãi. Để ngăn cản không cho con người ăn trái cây này, Thiên Chúa phán: "Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái Cây Trường Sinh mà ăn và được sống mãi. Người trục xuất con người, và ở phía Đông vườn Eden, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến Cây Trường Sinh.”
3/ Phúc ÂmChúa làm phép lạ cho 4,000 người ăn no nê.
3.1/ Phản ứng của Chúa Giêsu và của các môn đệ:
(1) Chúa Giêsu biết mọi nhu cầu của con người: phần hồn cũng như phần xác. Những chi tiết của trình thuật nói lên sự quan tâm và lòng thương xót của Ngài: "Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn! Nếu Thầy giải tán, để họ nhịn đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có những người ở xa đến."
(2) Phản ứng của các tông-đồ rất thực tế: Trong nơi hoang vắng này, làm sao tìm được bánh cho bằng ấy người? Lấy tiền đâu mà mua nhiều bánh như vậy? Đó là trách nhiệm của họ, đâu phải là của chúng ta! Rất nhiều người lãnh đạo phần hồn dựa vào những lý do như thế để từ chối giúp đỡ giáo dân về phần xác; nhưng bổn phận bác ái là cho hết mọi người, đâu trừ những nhà rao giảng. Hơn nữa, nhiều người tin vào Chúa không do những lời giảng cao siêu, nhưng do tấm lòng thương xót của người rao giảng.
3.2/ Phép lạ hóa bánh ra nhiều: Cần lưu ý có hai phép lạ hóa bánh ra nhiều trong Tin Mừng của Marcô:
(1) Phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá để nuôi 5,000 người (Mk 6): Tất cả 4 Thánh-ký đều tường thuật phép lạ này (Mt 14:15-21, Mk 6:34-44, Lk 9:12-17, Jn 6:1-14).
(2) Phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 7 chiếc bánh và vài con cá để nuôi 4,000 người: Chỉ có trong Marcô trong trình thuật hôm nay, và được nhắc lại trong Mt 16:10.
- Những điều giống nhau trong 2 phép lạ: Công thức chúc lành như khi lập BT Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly: “Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho đám đông.” Lời thắc mắc của các tông-đồ: "Ở đây, trong nơi hoang vắng này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn no?"
- Những điều khác nhau trong 2 phép lạ: Số người hiện diện, số bánh, và số cá. Số bánh còn dư lại: 7 giỏ cho 4,000 và 12 giỏ cho 5,000. Địa điểm phép lạ xảy ra: gần Capernaum, vùng của Do-thái, cho 5,000; và vùng Decapolis, lãnh thổ của Dân Ngoại, cho 4,000.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần tuân theo sự chỉ dẫn của Thiên Chúa và các nhà chuyên môn, vì có rất nhiều điều chúng ta không biết, hay vượt quá sự hiểu biết của con người chúng ta.
- Vâng lời những lệnh truyền của Thiên Chúa không hạn chế sự tự do của chúng ta; nhưng giúp chúng ta đạt những hậu quả tốt, và vượt qua những cám dỗ của ma quỉ và thế gian.
- Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành và thấu suốt mọi sự. Chúng ta cần tin tưởng tuyệt đối và tuân giữ những gì Ngài truyền. Vì không một ai trên đời này khôn ngoan hơn Thiên Chúa, chúng ta phải tuân theo những Lời Ngài dạy hơn là những lời của người đời hay của chúng ta.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

11/02/17     TH BY TUN 5 TN
Đức Mẹ Lộ Đức                               Mc 8,1-10

CHÚA NUÔI SỐNG DÂN NGƯỜI

Đức Giê-su gọi các môn đệ lại và nói “Thầy chạnh lòng thương dân chúng, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn.”  (Mc 8,1b -2)

Suy niệm: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi… Ngài dọn sẵn cho tôi bữa tiệc…” Lời Thánh Vịnh 22 trên đây chẳng xa lạ gì đối với dân Ít-ra-en, diễn tả niềm tin vào một Thiên Chúa đầy tình yêu thương đối với dân riêng của Ngài, lời ấy giờ đây được hiện thực cụ thể, bằng xương bằng thịt nơi Đức Giê-su, Đấng Chúa Cha sai đến. Ngài đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi và đưa dẫn đến sự sống đời đời, nhưng không vì thế mà Ngài không cảm thương trước những nỗi cùng khổ nhọc nhằn của cuộc sống đời này. Ngài chạnh lòng thương đám đông vì “đã ba ngày họ không có gì ăn;” thế rồi, chỉ với vài chiếc bánh và một ít cá nhỏ Ngài cho đoàn dân đang đói được no thoả, và qua đó, Ngài báo trước tấm bánh trường sinh Ngài sẽ ban cho nhân loại sau này.

Mời Bạn: Để là môn đệ của Chúa Ki-tô, chúng ta mang trong mình trái tim của Chúa, một trái tim luôn biết chạnh lòng thương với mọi nỗi khổ cực của tha nhân: biết sẻ chia, cảm thông và góp phần làm vơi đi những khổ đau, khốn khó của anh em mình.

Chia sẻ: Bạn có nhạy bén để nhận thấy và cảm thông những nỗi khốn khó, ngặt nghèo của anh chị em mình không? Và bạn đã làm gì để giúp họ?

Sống Lời Chúa: Đọc kinh “Thương Người Mười Bốn Mối” và chọn một việc có thể làm ngay để làm theo kinh đó.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho ban con trái tim của Chúa, để con biết chạnh lòng thương như Chúa đã chạnh thương, và xin đổ tràn Thần Khí Chúa trên con, để con có nghị lực làm theo điều mà trái tim của Chúa mách bảo.


H hết rượu ri (11.2.2017 – Th by: Đc M L Đc)
Cn biết bao s hin din ca Chúa và M trong mi gia đình, gia lúc khó khăn bi ri. “Người bo gì, các con hãy làm”: Ðó vn là li M nhn nh chúng ta hôm nay. 


Suy nim:( Ga 2, 1-11)
Ðức Giêsu, Mẹ Ngài và các môn đệ
cùng có mặt trong một đám cưới ở làng quê Cana.
Ðám cưới là một cuộc vui kéo dài cả tuần.
Tiếc thay, tiệc nửa chừng thì hết rượu.
Ðức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên trong Tin Mừng Gioan.
Ngài đã biến nước thành rượu.
Ngài trả lại bầu khí vui tươi cho đám cưới.

Tin Mừng Gioan hay kể lại những dấu lạ có ý nghĩa.
Những dấu lạ vén mở con người Ðức Giêsu.
Làm bánh hóa nhiều cho thấy Ðức Giêsu là Bánh thật.
Chữa người mù bẩm sinh cho thấy Ðức Giêsu là Ánh Sáng.
Hoàn sinh Ladarô cho thấy Ðức Giêsu là sự Sống Lại.
Dấu lạ ở tiệc cưới Cana cũng cho ta biết Ngài.

Thứ nước dùng cho nghi thức tẩy uế của Do Thái giáo,
Ðức Giêsu biến nó thành rượu ngon,
một lượng rượu khổng lồ vượt quá mức đòi hỏi.
Ngài biến nước của Cựu Ước thành rượu của Tân Ước.
Như thế Ngài đã mở ra một thời đại mới
thời đại thiên sai, chan chứa niềm vui cứu độ.
Ðức Giêsu cho thấy mình chính là Ðấng Mêsia.
Ngài đến để thiết lập một trật tự mới
dồi dào và phong phú, như rượu vừa nhiều vừa ngon.
Cựu Ước không làm con người mãn nguyện.
Con người vẫn khát khao và tìm kiếm hạnh phúc.
Nhưng hạnh phúc vẫn là cái gì bèo bọt, mong manh.

Ðức Giêsu đã dự tiệc cưới ở Cana.
Ngài muốn dự mọi bữa tiệc liên hoan của con người.
Ngài muốn chia sẻ và bảo vệ niềm vui bé nhỏ nơi họ.
Ðừng để Ðức Giêsu đứng ngoài hạnh phúc của bạn.
Ðừng coi Ngài là người ganh ghét với niềm vui bạn có.
Nếu bạn nghe lời Ngài, đổ nước đầy các chum rỗng,
bạn sẽ gặp được hạnh phúc vững bền.

Dấu lạ Cana chủ yếu cho ta thấy Ðức Giêsu là ai,
nhưng Ðức Maria cũng có một vai trò đáng kể.
Mẹ hiện diện trong tiệc cưới như thân mẫu Ðức Giêsu.
Mẹ thấy rõ sự lúng túng lo âu của chàng rể.
“Họ hết rượu rồi”: Mẹ chỉ nói với Con như vậy.
Câu nói của Mẹ ẩn chứa một lời nài xin kín đáo.
Mẹ mong Con làm một điều gì đó mà Mẹ không rõ.
“Người bảo gì, các anh hãy làm.”
Quả thật Ðức Giêsu có bảo và các gia nhân có làm,
nhờ đó dấu lạ Cana được thực hiện.
Qua sự đóng góp của Mẹ trong dấu lạ mở màn này,
đức tin của các môn đệ được củng cố và lớn lên.

Hôm nay Mẹ vẫn nói nhỏ với Chúa: Họ hết rượu rồi!
Niềm vui chợt tắt, tình yêu nhạt phai, gia đình tan vỡ...
Cần biết bao sự hiện diện của Chúa và Mẹ
trong mỗi gia đình, giữa lúc khó khăn bối rối.
“Người bảo gì, các con hãy làm”:
Ðó vẫn là lời Mẹ nhắn nhủ chúng ta hôm nay.
Cầu nguyn:
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Ðức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Ðức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Ðức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.

Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.

Xin giữ chúng con luôn đi trên Ðường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG HAI
Âm Nhạc Phản Ảnh Mối Hòa Điệu Trong Tạo Vật
Âm nhạc là ngôn ngữ phổ quát của mọi con người. Âm nhạc có thể khơi trào cảm xúc sâu xa, có thể truyền đạt những tình cảm thanh cao, và có thể đánh thức mối đồng cảm đối với tâm tư của người nghệ sĩ. Loài người cần đến âm nhạc, vì âm nhạc chuyển tải chính tinh thần của người ta, nâng tâm hồn người ta lên cao, thăng hoa xúc cảm, và giúp người ta hân hoan hướng nhìn về Thiên Chúa. Chúng ta có thể nói rằng – một cách nào đó – con người trở thành ‘người’ hơn và trở thành ‘Kitôhữu’hơn nhờ âm nhạc.
Khẳng định những điều nói trên, tôi cũng nghĩ đến những giá trị độc đáo khác mà âm nhạc cống hiến. Sự hài hòa của giai điệu được tạo ra do sự kết hợp của các nốt nhạc; cũng thế, âm nhạc nếu được trình tấu bởi một nhóm sẽ sản sinh ra tình liên đới, mối đồng cảm và tình hữu nghị. Âm nhạc có thể được xem như một lời mời gọi người ta tham dự vào một công cuộc cao quí chung – công cuộc ấy sẽ thăng hoa và củng cố tình cảm.
Những điều nói trên càng được thấy rõ ràng hơn khi âm nhạc làm dâng trào niềm vui trong các dịp lễ mừng của cộng đoàn. Nhờ âm nhạc, người ta cảm nghiệm được niềm phấn khởi hân hoan, lòng sốt sắng cầu nguyện và nhiệt tâm dấn thân vào hành động. Quả thật, âm nhạc có năng lực thúc đẩy người ta phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
Vì thế, trong tư cách là một nghệ thuật, âm nhạc hướng lòng người ta chiêm ngắm vẻ đẹp vốn tuôn chảy từ chính Thiên Chúa, và âm nhạc cũng là một lời mời gọi người ta cảm thụ sự hòa điệu trong tạo vật. Uớc gì tất cả chúng ta biết dùng âm nhạc để ca ngợi Thiên Chúa.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II

Lời Chúa Trong Gia Đình
11-02 Thứ Bảy tuần 5 thường niên
Đức Mẹ Lộ-Đức, Ngày Quốc Tế Bệnh Nhân; St 3,9-21; Mc 8, 1-10.

LỜI SUY NIỆM: Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn! Nếu Thầy giải tán, để họ nhịn đói mà về, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có những người từ xa đến.” (Mc 8,2-3).
            Lòng thương cảm của Chúa Giêsu, chúng ta thấy rất nhiều lần và rất nhiều nơi, Chúa Giêsu chạnh lòng thương con người, đặc biệt đối với những con người đau khổ, bệnh tật và đang sống cuộc sống bị thiệt thòi, bị bỏ rơi. Trong hai câu này chúng ta thấy Chúa ân cần quan tâm đến đám đông: khi họ đã ba ngày liền, đi theo Chúa, không có gì ăn, sợ họ về xỉu dọc đường và trong đó có nhiều người từ xa đến. Trong đời sống đạo của mỗi chúng ta cũng phải tập cho được đức tính biết quan tâm đến mình và người khác cũng như những biến cố xãy ra cho chính mình hoặc những người chung quanh chúng ta. Nhất là quan tâm đến người khác. Khi chúng ta có quan tâm đến, chúng ta mới thấy được những hoàn cảnh của người anh em, mới đánh động, thúc bách tâm trí   chúng ta có hành động, đề chúng ta phải biết làm những gì và làm bằng cách nào cho người anh em.
Mạnh Phương

Gương Thánh Nhân
Ngày 11-02
ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC

Lộ Đức (Lourdes) là một tỉnh nhỏ khoảng 6000 dân nằm giữa thung lũng Pyrênê, gần suối Gave. Hôm ấy là ngày 11 tháng 2 năm 1858. Trời lạnh lẽo. Vào buổi trưa, Bernadetta, cô gái 14 tuổi vui tươi, thiếu ăn và quê mùa cùng với mấy người bạn đi lượm củi khô ở bờ suối Gave.
Bỗng một bà mặc đồ trắng hiện ra với cô, trên một tảng đá bao quát cả hang Massabielle. Vừa sợ lại vừa vui, cô lần chuỗi và không dám tới gần theo lời Bà mời.
Chẳng ai muốn tin cô. Bị rắc rối chính cha mẹ cô không muốn cho cô trở lại hang đá nữa. Nhưng có một sức hấp dẫn lạ kỳ nào đó. Cô trở lại hang đá. Các cuộc thị kiến vẫn tiếp diễn. Bà lạ nói chuyện và kêu gọi cầu nguyện, rước kiệu và xây dựng một đền thờ tại đây.
Các bậc khôn ngoan chống đối. Dân chúng lại xúc động. Công an thẩm vấn Bernadetta. Cô bình thản trả lời và không hề nao núng trước những lời đe dọa. Cô cũng không bị vướng mắc vào những tiểu xảo của người thẩm vấn. Các nữ tu dạy học cũng bất bình. Nhưng Bernadetta vẫn khiêm tốn lịch sự .
Ngày 25 tháng 2, một đoàn người cảm kích theo cô sau khi cầu nguyện, Bernadetta đứng dậy, ngập ngừng tiến tới gần hang đá rổi quì xuống. Theo lệnh bà lạ, cô cúi xuống lấy tay cào đất. Một dòng nước vọt lên. Cứ 24 tiếng đồng hồ là có khỏang 120.000 lít nước chảy ra.
Ông biện lý cho gọi Bernadetta tới. Ông chế giễu, tranh luận và đe dọa cô nữa. Cuối cùng ông kết luận: - Cô hứa với tôi là sẽ không tới hang đá nữa chứ ?
Nhưng Bernadetta bình tĩnh trả lời cách rõ ràng. - Thưa ông, cháu không hứa như vậy.
Cha sở lo âu, Ngài cấm các linh mục không được tới hang. Bernadetta tới gặp Ngài và nói: - Bà lạ nói: Ta muốn gặp người ta rước kiệu tới đây.
Ngài liền quở trách và gằn từng tiếng: - Con hãy nói với bà ấy rằng, đối với cha sở Lộ đức, phải nói cho rõ rệt. Bà muốn những buổi rước kiệu và một nhà nguyện à ? Trước hết bà phải cho biết tên là gì và làm một phép lạ đã chứ.
Làm xong nhiệm vụ, Bernadetta bình thản ra về.
Đã có những phép lạ nhãn tiền: một người thợ đẽo đá mù lòa đã thấy được ánh sáng, một phụ nữ bại tay sáu năm nay bình phục, báo chí công kích dữ dội và cho rằng: đó chỉ là ảo tưởng.
Nhưng dòng nước vẫn chảy thành suối. Dân chúng vẫn lũ lượt kéo nhau tới, những kẻ hoài nghi phải chùn bước. Một em bé hai tuổi bệnh hoạn đang hấp hối trước những cặp mắt thất vọng của cha mẹ. Họ nghèo lắm, bà hàng xóm đã dọn sẵn cho một một cái quách. Người cha thở dài: - Nó chết rồi.
Người mẹ chỗi dậy. Không nói một lời bào, bà ôm đứa trẻ chạy thẳng ra hang đá, dìm nó vào trong dòng nước giá lạnh. Dân chúng cho rằng bà đã điên lên vì buồn khổ. Tắm em bé trong 15 phút xong, bà ẵm em về nhà. Sáng hôm sau, em hết bệnh. Ba bác sĩ đã chứng thực chuyện lạ này.
Bernadetta vẫn giản dị vui tươi tự nhiên. Hàng ngày cô trở lại hang đá.
Ngày 25 tháng 3 cô quì cầu nguyện và khuôn mặt bỗng rỡ nên rạng rỡ. Rồi cô quay lại nói với vài người có mặt: - Bà nói: Ta là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội
Vài phút sau, lời Đức Trinh Nữ đã được truyền từ miệng người này sang người khác. Đám đông cất cao lời cầu khẩn: - Lạy Đức Mẹ Maria chẳng hề mắc tội tổ tông, xin cầu cho chúng con là kẻ chạy đến cùng Đức Mẹ.
Bernadetta hỏi một người chị bạn thân: - Vô nhiễm thai là gì nhỉ ?
Và cũng không bao giờ cô phát âm đúng chính xác từ ngữ này.
Luôn giữ mình khiêm tốn, Bernadetta đã ẩn mình trong một tu viện. Lúc 3 giờ chiều ngày 16 tháng năm 1879, cô từ trần, được 36 tuổi.
Dòng nước ở hang Massablle vẫn chảy. Người ta lũ lượt tuôn đến cầu nguyện và không biết bao nhiêu ơn lành Đức Mẹ đã ban cho các tâm hồn thiết tha cầu khẩn. Đức Giáo hoàng Leo XIII cho phép mừng việc Đức Mẹ hiện ra tại Lộ đức, vào ngày 11 tháng 2, để ghi nhớ 18 lần mẹ đã hiện ra với Bernadetta, kể từ ngày 11 tháng 2 tới ngày 16 tháng 7 năm 1858.
Năm 1907, Đức Piô X cho phép toàn thể Giáo hội mừng lễ này. Cùng với Giáo hội, chúng ta kính nhớ biến cố Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức và đừng quên chạy đến Mẹ là nguồn suối chảy tràn muôn ơn phúc.
(Daminhvn.com)

11 Tháng Hai
Ðức Mẹ Lộ Ðức


Buổi sáng ngày 11 tháng 2 năm 1858 tại Lộ Ðức, một thị trấn nhỏ nằm ở miền Nam nước Pháp, trời lạnh như cắt. Cô Bernadette Soubirous cùng với hai người em khác tự nguyện ra phía rừng cạnh bờ sông Gave để nhặt củi. Bernadette vừa lên 15 tuổi. Nhưng cô chưa biết đọc và biết viết. Cô vừa mới cắp sách đến trường của các sơ được một thời gian ngắn để học tiếng Pháp, bởi vì trong miền cô đang ở, mọi người đều nói một thứ thổ ngữ khác với tiếng Pháp. Hôm đó là ngày thứ năm, cô được nghỉ học. Mặc dù bệnh suyễn đang hoành hành, nhưng nghĩ đến cảnh nghèo túng của gia đình, nên Bernadette đã xin phép mẹ được đi nhặt củi.
Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều cành cây khô. Nhưng suốt buổi sáng thứ năm đó, dường như chị em của Bernadette không nhặt được bao nhiêu. Bernadette mới lần mò tiến về một hang động gần đó mà dân làng có thói quen gọi là Massabielle. Cô đang loay hoay với công việc nhặt củi, thì kìa từ trong hang: một thiếu nữ cực kỳ diễm lệ xuất hiện. Theo lời mô tả của Bernadette, thì người thiếu nữ chỉ trạc độ 16, 17 tuổi. Bernadette tưởng mình như đang mơ. Cô bước thêm bước nữa. Người thiếu nữ cực kỳ diễm lệ đó chỉ mỉm cười.
Trong cơn xúc động bồi hồi, như một cái máy, Bernadette đã lôi tràng hạt từ trong túi áo ra và cô bắt đầu đọc kinh Kính Mừng trong ngôn ngữ quen thuộc của cô. Trong ánh sáng chan hòa giữa mùa đông vẫn còn lạnh đó, người thiếu nữ chỉ mỉm cười. Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi mân côi, người thiếu nữ làm dấu cho cô tiến lại gần hơn. Nụ cười vẫn chưa tắt trên môi người thiếu nữ. Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến khi ánh sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn...
Ba ngày sau đó, sau khi đã có những tiếng xì xầm về hiện tượng lạ đó, bà mẹ của Bernadette nghiêm cấm không cho con gái mình trở lại hang Massabielle nữa. Nhưng do một sự thúc đẩy không thể cưỡng bách được, Bernadette đã trở lại chỗ cũ cùng với mấy chị em của cô. Lần này, khi người thiếu nữ mặc áo trắng xuất hiện Bernadette đã mạnh dạn hô lớn: "Nếu người đến từ Thiên Chúa, xin người hãy ở lại". Người thiếu nữ mỉm cười gật đầu. Ðây là lần thứ hai người áo trắng hiện ra với cô. Lần thứ ba cũng xảy ra như thế vào ngày 18 tháng 2 và liên tiếp trong vòng 15 ngày, Bernadette đã được diễm phúc gặp Ðức Maria hiện ra và tỏ lộ cho cô một danh tánh vô cùng kỳ lạ: "Ta là Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội".
Từ nơi cô đang quỳ cầu nguyện mỗi khi Ðức Mẹ hiện ra, một dòng suối nhỏ đã vọt lên có sức chữa trị mọi tật bệnh.
Ðó là nguồn gốc của hang Ðức Mẹ Lộ Ðức. Ngày nay, từng giờ từng phút, khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới tuôn đến để cầu nguyện và xin ơn. Ðến đó, dù tin hay không tin, mọi người đều cảm thấy có một sức mạnh lạ lùng lôi kéo để đốt lên một ngọn nến và quỳ gối cầu nguyện.
Hiện nay, khắp nơi trên thế giới, đều có những hang Lộ Ðức được thiết kế một cách tương tự để nhắc nhớ biến cố này cũng như kêu gọi lòng tôn sùng Mẫu Tâm.
Nhưng có lẽ ai trong chúng ta cũng có một lần mơ ước đến tận nơi để cầu nguyện. Mẹ Maria đã không hiện ra với tất cả mọi người. Phép lạ cũng không hiện ra một cách tỏ tường với tất cả mọi người đến cầu khấn. Ðiều quan trọng không phải là hành hương đến tận nơi Thánh, nhưng chính là sứ điệp mà Mẹ muốn nhắn gửi với chúng ta qua những người được diễm phúc thấy Mẹ hiện ra. Sứ điệp đó vẫn luôn luôn là hy sinh, là phục vụ và nhất là cầu nguyện.
(Lẽ Sống)

Lectio Divina: Đức Mẹ Lộ Đức, Máccô 8:1-10

Thứ Bảy, 11 Tháng 2, 2017


Tuần V Mùa Thường Niên




1.  Lời nguyện mở đầu



Lạy Cha, xin Cha hãy trông nom gia đình Cha

và gìn giữ chúng con bình an trong sự chăm sóc của Cha,

vì tất cả hy vọng của chúng con đều đặt ở nơi Cha.

Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, Con của Cha,

Đấng hằng sống và hằng trị cùng với Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần,

đến muôn thuở muôn đời.  Amen.



2.  Bài Đọc – Trích Tin Mừng theo Máccô 8:1-10



Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo:  “Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn.  Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến.”

Các môn đệ thưa:  “Giữa nơi hoang địa này, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no?”  Và Người hỏi các ông:  “Các con có bao nhiêu bánh?”  Các ông thưa:  “Có bảy chiếc!”

Người truyền dân chúng ngồi xuống đất, rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân phát.  Các ông chia cho dân chúng.  Các môn đệ còn có mấy con cá nhỏ.  Người cũng đọc lời chúc tụng và truyền cho các ông phân phát.  Dân chúng ăn no nê và người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng.

Số người ăn độ chừng bốn ngàn.  Rồi Người giải tán họ, kế đó Người cùng các môn đệ xuống thuyền đến miền Đan-ma-nutha.



3.  Suy Niệm



*  Bài Tin Mừng hôm nay nói về việc bánh hóa ra nhiều lần thứ hai.  Chủ đề nối kết những câu chuyện trong phần này của sách Tin Mừng Máccô là thức ăn, là bánh.  Sau bữa tiệc của sự chết (Mc 6:17-29), là đến bữa tiệc của sự sống (Mc 6:30-44).  Trong khi di chuyển ngang qua Biển hổ, các môn đệ đã sợ hãi, bởi vì các ông đã không hiểu gì về việc bánh hóa ra nhiều trong hoang địa (Mc 6:51-52).  Sau đó, Chúa Giêsu tuyên bố rằng tất cả các thức ăn đều tinh khiết (Mc 7:1-23).  Trong cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với người phụ nữ Canaan, dân ngoại đã được ăn các mảnh bánh vụn rơi từ bàn các trẻ con (Mc 7:24-30).  Và tại đây, trong bài Tin Mừng hôm nay, Máccô nói về việc bánh hóa ra nhiều lần thứ hai (Mc 8:1-10).    

*  Mc 8:1-3:  Tình trạng của đám đông và phản ứng của Chúa Giêsu.  Đám đông, tụ tập chung quanh Chúa Giêsu trong hoang địa, đã không có gì để ăn.  Chúa Giêsu cho gọi các môn đệ và trao cho các ông vấn nạn:  “Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn.  Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến!”   Trong mối quan tâm này của Chúa Giêsu có hai điểm quan trọng:  a) Đám đông rời nhà, quên mang theo thức ăn và theo Chúa Giêsu vào trong hoang địa!  Đây là dấu chỉ cho thấy rằng Chúa Giêsu đã làm dấy lên sự đồng cảm lớn lao, đến độ mà dân chúng đã theo Người vào trong sa mạc và đã ở lại với Người đến ba ngày!  b) Chúa Giêsu không đòi hỏi đám đông phải giải quyết vấn nạn.  Người chỉ nêu ra mối quan tâm của mình với các môn đệ.  Dường như đó là một vấn nạn mà không có phương cách giải quyết.      

*  Mc 8:4:  Phản ứng của các môn đệ:  Hiểu lầm đầu tiên.  Các môn đệ khi ấy nghĩ đến cách giải quyết, theo đó thì có một ai đó phải mang bánh đến cho đám đông.  Thậm chí các ông còn nghĩ rằng vấn đề phải được giải quyết từ chính đám đông.  Các ông thưa rằng: “Giữa nơi hoang địa này, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no?”  Nói cách khác, các ông nghĩ về cách giải quyết truyền thống.  Một ai đó phải đi kiếm tiền, mua bánh và phân phát cho đám đông.  Các ông cảm nhận được rằng, trong hoang địa, đi mua bánh là một giải pháp bất khả thi, nhưng các ông không thấy có cách nào khác để giải quyết vấn đề.  Có nghĩa là, nếu Chúa Giêsu cương quyết không giải tán đám đông để họ về nhà, thì sẽ không có cách nào nuôi sống họ! 

*  Mc 8:5-7:  Giải pháp được Chúa Giêsu đưa ra.  Trước hết, Người hỏi các ông có bao nhiêu bánh.  Các ông thưa:  “Có bảy chiếc!”  Rồi Người truyền cho dân chúng ngồi xuống đất. Sau đó, Người cầm lấy bảy cái bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ để phân phát, và các ông phân phát cho đám đông.  Và Người cũng làm như thế với các con cá.  Tương tự như lần bánh hóa ra đầu tiên (Mc 6:41), cách thức mà Máccô mô tả phong cách của Chúa Giêsu, gợi nhớ lại Nhiệm Tích Thánh Thể.  Đây là sứ điệp:  việc tham dự vào Nhiệm Tích Thánh Thể nên dẫn đến quà tặng và việc chia sẻ bánh với những ai không có bánh!  

*  Mc 8:8-10:  Kết quả.  Mọi người đã ăn, họ đã no nê và bánh vẫn còn dư!  Đây là một giải pháp thật bất ngờ, nó bắt đầu từ trong đám đông, với một ít ổ bánh mà họ đã đem theo!  Trong dịp bánh hóa nhiều lần thứ nhất, mười hai thúng bánh vụn đã được thu lại.  Lần này, được bảy thúng.  Trong lần đầu tiên, các ông phục vụ năm ngàn người.  Lần này, bốn ngàn người.  Trong lần đầu có năm chiếc bánh và hai con cá.  Ở đây, bày chiếc bánh và một ít cá.

*  Thời kỳ của ý thức hệ thống trị.  Các môn đệ đã nghĩ về một cách giải quyết, Chúa Giêsu lại nghĩ đến một cách khác.  Trong cách suy nghĩ của các môn đệ có ý thức hệ thống trị, cách suy nghĩ phổ biến của người ta.  Chúa Giêsu nghĩ theo một cách khác.  Không phải vì cùng đi chung với Chúa Giêsu và cùng sống trong một cộng đoàn mà một người có thể thành thánh và đổi mới.  Trong số các môn đệ, tâm lý cổ xưa luôn tái xuất hiện, bởi vì “men của Hêrôđê và men của người Pharisêu” (Mc 8:15), có nghĩa là, tư tưởng thống trị, đã có bắt rễ sâu xa trong cuộc sống của những người này.  Việc hoán cải theo lời đòi hỏi của Chúa Giêsu là sự hoán cải sâu xa.  Người muốn nhổ tận gốc rễ các loại “men” khác nhau.

*  “Men” của cộng đoàn sống đóng khung trong chính họ, không có một sự cởi mở nào.  Chúa Giêsu bảo các ông:  “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta!” (Mc 9:39-40).  Đối với Chúa Giêsu, điều quan trọng không phải là xem một người nào đó có là một thành phần của cộng đoàn hay không, mà là người ấy có lòng quảng đại hay không, có sẵn lòng để làm các việc lành phúc đức mà cộng đoàn phải làm hay không.

*  “Men” của nhóm coi mình trọng hơn kẻ khác.  Chúa Giêsu quở mắng các môn đệ và nói:  “Các ngươi không biết các ngươi ứng theo thần khí nào” (Lc 9:55).

*  “Men” của tâm lý giai cấp và ganh đua hơn kém, đó là đặc tính của xã hội thời Đế Chế La Mã và đã lan tràn vào cộng đoàn nhỏ bé tân lập.  Chúa Giêsu phản ứng lại:  “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết” (Mc 9:35).  Đây là điểm mà Chúa nhấn mạnh nhiều nhất và nó là điểm mạnh mẽ nhất cho lời chứng của Người:  “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10:45; Mt 20:28; Ga 13:1-16). 

*  “Men” của tâm lý của nền văn hóa vào thời đại mà Chúa Giêsu nói đến:  “Cứ để các trẻ nhỏ đến với Thầy!” là những kẻ bé mọn bị gạt ra ngoài lề, những trẻ em (Mc 10:14).  Người chỉ ra rằng những trẻ nhỏ là thầy cho các người lớn:  “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Lc 18:17).

Như đã xảy ra vào thời của Chúa Giêsu, ngày nay cũng thế, tâm lý tân-tự do đang phục hồi và phát sinh trong đời sống của cộng đoàn và của các gia đình.  Bài đọc Tin Mừng, được thực hiện trong cộng đoàn, có thể giúp chúng ta thay đổi cuộc sống, tầm nhìn và tiếp tục thay đổi bản thân và trung thành với chương trình của Chúa Giêsu.



4.  Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân



Chúng ta luôn có thể đối diện với những hiểu lầm đối với bạn bè và kẻ thù.  Sự hiểu lầm giữa Chúa Giêsu và các môn đệ vào dịp bánh hóa ra nhiều là gì?  Chúa Giêsu đối diện với sự hiểu lầm này như thế nào?  Trong nhà của bạn, với láng giềng của bạn hoặc trong cộng đoàn, đã có những hiểu lầm nào không?  Bạn đã phản ứng ra sao?  Cộng đoàn của các bạn đã có những hiều lầm hoặc xung đột với chính quyền dân sự hay những bậc có thẩm quyền trong giáo hội không?  Điều này xảy ra như thế nào?
Men mà ngày nay cản trở việc thực hiện Tin Mừng và cần phải loại bỏ là gì?


5.  Lời nguyện kết



Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ,

Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn.

Ngay cả khi đồi núi chưa được dựng nên,

địa cầu và vũ trụ chưa được tạo thành,

Ngài vẫn là Thiên Chúa, từ muôn thuở cho đến muôn đời.

(Tv 90:1-2)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét