12/02/2015
Chúa Nhật tuần 6 thường niên năm A
(phần I)
Bài Ðọc I: Sir 15,16-21
"Người không truyền dạy
cho một ai làm điều gian ác"
Bài trích sách Ðức Huấn ca.
Nếu người muốn tuân giữ các giới
răn:
việc trung thành giữ các giới
răn là tùy ở ngươi.
Người đặt trước mặt ngươi nước
và lửa,
ngươi muốn cái gì, thì giơ tay
ra trên đó.
Trước mặt con người là sự sống
và sự chết, sự lành và sự dữ,
họ thích thứ nào, thì được thứ ấy.
Bởi chưng, Thiên Chúa đầy khôn
ngoan, hùng dũng và toàn năng.
Người luôn luôn nhìn thấy mọi
loài.
Chúa nhìn đến những kẻ kính sợ
Người,
và thấu suốt mọi hành động của
con người.
Người không truyền dạy cho một
ai làm điều gian ác,
và không cho phép một ai phạm tội.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv. 118,1-2, 4-5, 17-18,
33-34
Ðáp: Phước đức những ai tiến thân trong luật pháp của
Chúa.
Xướng 1) Phước đức những ai có
đường lối tinh tuyền, họ tiến thân trong luật pháp của Chúa. Phước đức những ai
giữ lời Chúa răn bảo, những người đó tận tâm tìm kiếm Chúa. - Ðáp.
2) Phần Chúa, Chúa ban bố huấn lệnh,
để chúng được tuân giữ hết sức ân cần. Nguyện cho đường nẻo tôi vững chắc, để
tuân giữ thánh chỉ của Chúa. - Ðáp.
3) Xin gia ân cho tôi tớ Chúa được
sống, để tuân giữ những lời Chúa răn. Xin mở rộng tâm hồn con mắt của tôi, để
quân chiêm những điều kỳ diệu trong Luật Chúa. - Ðáp.
4) Lạy Chúa, xin tỏ cho tôi biết
đường lối thánh chỉ Ngài, để cho tôi được hoàn toàn tuân giữ. Xin giáo huấn
tôi, để tôi tuân cứ luật pháp của Ngài, và để tôi hết lòng vâng theo luật đó. -
Ðáp.
Bài Ðọc II: 1Cor 2,6-10
"Thiên Chúa đã tiền định
từ trước muôn thuở, để làm nên sự hiển vinh của chúng ta".
Bài trích thư thứ nhất của Thánh
Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Corintô.
Anh em than mến, chúng tôi có
bàn giải sự khôn ngoan
với những người toàn thiện, mà
đó không phải là sự khôn ngoan của thế gian,'
cũng không phải của những bậc
vua chúa thế trần,
hạng người đã bị dồn vào chỗ hư
vong.
Nhưng chúng tôi thuyết sự khôn
ngoan đầy nhiệm mầu của Thiên Chúa,
vẫn được giấu kín, mà Thiên Chúa
đã tiền định từ trước muôn thuở,
để làm nên sự hiển vinh của
chúng tôi.
Sự khôn ngoan đó, không một ai
trong các vua chúa thế trần đã biết tới:
vì giả thử nhận biết, hẳn họ đã
không đóng đinh Chúa sự hiển vinh.
Nhưng chúng tôi rao giảng như lời
đã chép:
"Sự mắt chưa từng thấy và
tai chưa từng nghe,
và lòng người cũng chưa từng mơ
ước tới,
đó là tất cả những điều Thiên
Chúa đã làm ra cho những ai yêu mến Người".
Bởi chưng Thiên Chúa đã mạc khải
điều đó cho chúng tôi,
do Thánh Thần của Người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Joan 1,14 và 12b
Alleluia! Alleluia! Lạy Chúa,
xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời.
Alleluia!
Phúc Âm: Mt 5, 17-37
"Người xưa đã bảo như thế,
còn Ta, Ta bảo thật các con thế này".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng:
"Các con đừng tưởng Ta đến
để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri:
Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để
kiện toàn. Vì Ta bảo thật các con:
Cho dù trời đất có qua đi, thì một
chấm một phẩy trong bộ luật
cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi
sự hoàn thành.
Bởi vậy, ai hủy bỏ một trong những
điều luật nhỏ mọn nhất,
và dạy người khác làm như vậy, sẽ
kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời;
Trái lại, ai giữ và dạy người ta
giữ những điều đó,
sẽ được kể là người cao cả trong
Nước Trời.
Nếu các con không công chính hơn
các luật sĩ và biệt phái,
thì các con chẳng được vào Nước
Trời đâu.
Các con đã nghe dạy người xưa rằng:
Không được giết người.
Ai giết người, sẽ bị luận phạt
nơi toà án.
Còn Ta, Ta bảo các con: Bất cứ
ai phẩn nộ với anh em mình,
thì sẽ bị toà án luận phạt.
Ai bảo anh em là ngốc, thì bị phạt
trước công nghị.
Ai rủa anh em là
"khùng", thì sẽ bị vạ lửa địa ngục.
Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi
bàn thờ
mà sực nhớ người anh em đang có
điều bất bình với ngươi,
thì ngươi hãy để của lễ lại trước
bàn thờ,
đi làm hòa với người anh em
ngươi trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ.
Hãy liệu làm hòa với kẻ thù ngay
lúc còn đi dọc đường với nó,
kẻo kẻ thù sẽ đưa ngươi ra trước
mặt quan tòa,
quan tòa lại trao ngươi cho tên
lính canh và ngươi sẽ bị tống ngục.
Ta bảo thật cho ngươi biết:
"Ngươi sẽ không thoát khỏi
nơi ấy cho đến khi trả hết đồng bạc cuối cùng!"
Các con đã nghe nói với người
xưa rằng:
"Chớ ngoại tình". Còn
Ta, Ta bảo các con:
"Hễ ai nhìn xem phụ nữ mà ước
ao phạm tội với họ,
thì đã ngoại tình với họ trong
lòng rồi.
Nếu con mắt phải của con nên dịp
tội cho con,
thì hãy móc nó mà ném xa con; vì
thà mất một chi thể
còn lợi hơn là toàn thân bị ném
vào hỏa ngục.
Và nếu tay phải con nên dịp tội
cho con, thì hãy chặt mà ném nó xa con;
vì thà mất một chi thể còn hơn
là toàn thân bị ném vào hỏa ngục".
Cũng có lời dạy rằng: "Ai
ly dị vợi mình,
trừ trường hợp tà dâm, thì làm cớ
cho vợ ngoại tình;
và ai cưới người vợ đã ly dị,
cũng phạm tội ngoại tình".
Các con cũng đã nghe có lời bảo
người xưa rằng:
"Chớ thề gian, nhưng hãy giữ
trọn lời mình thề với Chúa".
Còn Ta, Ta bảo các con:
"Ðừng thề chi cả; đừng lấy
trời mà thề,
vì trời là ngai Thiên Chúa; đừng
lấy đất mà thề, vì đất là bệ chân Người;
đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì
là thành của Vua cao cả.
Cũng đừng chỉ đầu ngươi mà thề,
vì ngươi không thể làm cho một sợi
tóc ra trắng hay đen được.
Nhưng lời nói của các con phải
là: Có thì nói có,
không thì nói không, thêm điều đặt
chuyện là bởi ma quỷ mà ra".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Giáo huấn chung của Tân Ước
Phụng vụ Mùa Thường niên không đề
cao một mầu nhiệm nào đặc biệt, nhưng chỉ trình bày giáo huấn thông thường của
Hội Thánh liên quan đến đời sống hàng ngày của tín hữu. Hôm nay chúng ta vừa được
nghe một đoạn sách Huấn ca, một khúc thơ Phaolô và một số lời Tin Mừng theo
thánh Mátthêô. Nếu được phép tổng hợp, chúng ta có thể nói Lời Chúa hôm nay
khuyên chúng ta hãy lựa chọn đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa và đến với Ðức
Yêsu Kitô là Ðấng đang rao giảng sự khôn ngoan của Thiên Chúa cho loài người.
A. Chúng Ta Hãy Lựa Chọn Ðường Lối
Khôn Ngoan
Huấn ca là một tác phẩm trong loại
sách khôn ngoan của Thánh Kinh Cựu Ước. Ngay trong đoạn trích đọc vắn tắt hôm
nay, người ta đã có thể nhận ra mấy sắc thái chính yếu của tác phẩm cũng như của
loại sách khôn ngoan này. Tác giả kêu gọi sự tự do lựa chọn của con người.
Không có sự tự do, không thể nói đến triết học và khôn ngoan. Do đó các sách
khôn ngoan không có tính cách giáo điều. Luôn luôn độc giả được kêu mời tự do lựa
chọn. Hơn nữa, hạnh phúc mà người ta tìm kiếm nằm ngay ở tầm tay của họ. Giơ
tay nắm lấy cái gì, hạnh phúc hay bất hạnh, thì người ta sẽ được ngay cái đó.
Như vậy, tư tưởng của Thánh Kinh
không có gì là "định mệnh" cả. Chính con người làm chủ vận mạng của
mình. Và điều này, ngay trang đầu của bộ Kinh Thánh cũng đã khẳng định. Thiên
Chúa bấy giờ dựng nên Ađam-Evà. Người đặt họ trong "vườn địa đàng" có
đủ mọi thứ cây ngon lành có thể thỏa mãn sự thèm khát của con người. Nhưng giữa
vườn cũng có một cây "lành dữ", mà nếu giơ tay bất quả nó mà ăn, con
người sẽ có kinh nghiệm mất mát tất cả những gì đang có và bắt được những gì
ngược hẳn với nếp sống hiện nay. Lúc này họ đang sống trong tình giao hữu hạnh
phúc với Thiên Chúa là nguồn mọi sự sống. Bứt quả cây trái cấm mà ăn, họ sẽ rơi
vào tình trạng thù địch với Người và nếm biết sự chết đời đời. Ađam-Evà đã được
đặt trong tình trạng tự do để lựa chọn tương lai cho mình và con cháu. Trái cây
hạnh phúc và bất hạnh ở ngay tầm tay của họ. Họ có thể lựa chọn giữa sự sống và
sự chết, giữa "lửa và nước" như lời sách Huấn ca hôm nay viết, bởi vì
"lửa" là hình ảnh về sức mạnh tiêu diệt, tàn phá và chết chóc, còn
"nước" lại nói lên nguồn mạch sinh ra sự sống và sự sống dồi dào. Con
người muốn lựa chọn đàng nào cũng được.
Ađam-Evà đã lựa chọn thế nào thì
chúng ta ai cũng đã biết. Chúng ta có thể tức vì tại hai ông bà đã chọn điều dữ,
nên loài người chúng ta ngày nay đang sống trong tình trạng sa đọa. Nhưng ngay
trong tình trạng này, con người chúng ta vẫn có sự tự do lựa chọn. Mặc nhiên, mọi
người đều tin như vậy. Chỉ mấy triết gia suy đi tính lại tỉ mỉ quá mức mới dám
hoài nghi: không biết cuối cùng con người có còn tự do hay không? Hay là họ đã
nằm trong bàn tay của một "con tạo đa đoan" và định mệnh của họ đã được
ghi khắc một lần thay vì tất cả ngay cả từ trước khi họ sinh ra ở đời. Hai câu
cuối của bài sách Huấn ca hôm nay phi bác mọi luận điệu như thế. Tác giả viết:
Thiên Chúa không truyền cho ai phạm tội; Người không ủy lạo kẻ dối trá. Ngược lại
truyền thống Thánh Kinh luôn khẳng định: vì là Ðấng tốt lành, Thiên Chúa không
muốn ai phải chết: Người luôn ra tay cứu độ; tất cả những gì Người làm chỉ là
hướng dẫn con người về đường ngay nẻo chính để họ được sống và được sống dồi
dào. Lựa chọn sự dữ và bất hạnh là quyền lợi - nói đúng hơn, là quyền hạn - của
con người. Ðúng hơn nữa, đó là lạm dụng quyền tự do mà Thiên Chúa đã ban cho
mình.
Chúng ta có nhiều kinh nghiệm về
thái độ của nhiều người khác. Rõ ràng họ được tự do hoàn toàn để lựa chọn điều
hay, hay là điều dở, đặc biệt trong các quan hệ với chính chúng ta. Chúng ta tạo
mọi điều kiện để giữa họ và ta có những tương quan thuận lợi. Thế mà dường như
có một cái gì như cố chấp ở nơi họ. Mối tình giữa họ và ta chẳng sao xây dựng
được và khả quan hơn. Tất cả, theo quan điểm của ta, chỉ vì họ không muốn.
Có lẽ bài sách Huấn ca đã đi từ
kinh nghiệm ấy. Tác giả mở đầu bằng mấy chữ "nếu muốn". Nếu muốn thì
con người sẽ giữ lệnh truyền của Chúa; và như vậy họ sẽ được sống. Bằng không họ
sẽ tra tay vào lửa và lựa chọn sự chết. Tư tưởng của Thánh Kinh vì thế đề cao sự
tự do của con người . "Từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên họ và trao họ cho tâm
thuật của họ" (Hc 15,14), tức là để cho họ được tự do làm theo ý mình. Tuy
nhiên "Người biết hết mọi sự và toàn năng". Mắt Người nhìn xuống những
kẻ kính sợ Người�
Thế nên sự khôn ngoan của sách
Huấn ca cũng như của tư tưởng Kinh Thánh là con người hãy đi theo đường lối của
Thiên Chúa. Chính đó là sự khôn ngoan. Con người giữ lệnh truyền của Thiên Chúa
sẽ chắc chắn đi trong đường lối khôn ngoan dẫn đến sự sống, vì sự "khôn
ngoan của Thiên Chúa thật vạn năng".
Chân lý này, người tín hữu nào
cũng công nhận. Khó khăn nằm ở chỗ thực hành. Trong đời sống thực tế, không phải
lúc nào cũng dễ tuân giữ lệnh truyền của Thiên Chúa. Chính dân Israel ngày xưa
cũng vậy. Mặc cho các tiên tri kêu gọi họ trở về đường lối mà Chúa đã vạch ra
trong Luật pháp, họ vẫn đi theo đường lối của họ. Nói đúng hơn, họ muốn sống
như mọi dân tộc khác và khước từ cố gắng chu toàn ơn gọi làm Dân Riêng của
Chúa. Chúng ta, những kẻ ở trong Dân Mới của Người, cũng không hơn gì họ. Chính
vì vậy mà chúng ta cần lắng nghe lời khuyên bảo của thánh Phaolô.
B. Sự Khôn Ngoan Của Thiên Chúa
Thư 1 Côrinthô quen được coi như
thư riêng của người Công giáo, theo nghĩa những người này thích đọc nó như người
Tin lành thường thích đọc thư Rôma. Và quả thật, thư 1 Côrinthô có nhiều yếu tố
để nói với các cộng đồng Công giáo. Nó có cả những đề tài, như lời mở đầu đoạn
trích đọc hôm nay cho biết, dành cho những "người thành toàn", tức là
những người đã tiến bộ trong đức tin và đời sống tín hữu. Trong số đó có đề tài
về sự khôn ngoan mà bài đọc I hôm nay đã đề cập.
Sự khôn ngoan của đạo chúng ta,
kể từ lời mạc khải đầu tiên cho đến lời Kinh Thánh cuối cùng, không phải là sự
khôn ngoan của đời tạm này. Càng không phải là sự khôn ngoan của những đầu mục
của đời tạm này. Nó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, sự khôn ngoan mà các sách
khôn ngoan trong Thánh Kinh Cựu Ước thường đem ra bàn. Tác giả sách Huấn ca đã
thấy nó nằm trong các lệnh truyền của Thiên Chúa. Và những tác giả khác cũng đồng
ý bảo nó nằm nơi Luật pháp mà Chúa đã ban cho Dân Riêng của Người.
Tuy nhiên Luật pháp thì dài và lệnh
truyền thì nhiều. Hơn nữa dù vẫn nghe Luật pháp và Tiên tri trong các ngày Hưu
lễ nơi Hội đường, người dân Israel ngày xưa vẫn không nhận ra sự khôn ngoan của
Thiên Chúa. Dường như vẫn còn có một tấm màn che mắt họ, khiến họ nghe đọc mà
chẳng hiểu, xem thấy mà chẳng nhận ra. Mãi đến khi tấm màn trong Ðền thờ rách
toang ra vào Giờ Chúa Yêsu chịu chết trên Thập giá, sự khôn ngoan của Thiên
Chúa mới tỏ hiện. Người ta mới biết Ðức Yêsu là ai. Người là Ðấng Cứu thế! Và
Thiên Chúa đã muốn tỏ hiện sự khôn ngoan của Người ở nơi Ngài: "Ngài là
Con Chí Ái của Ta, các ngươi hãy nghe Ngài".
Chính vì vậy mà thánh Phaolô viết
rằng, sự khôn ngoan của Thiên Chúa vẫn giữ kín từ đời đời cho đến lúc bấy giờ.
Trước đó người ta đã được nghe nói về đường lối khôn ngoan cứu độ của Thiên
Chúa. Người ta cũng đã thấy rất nhiều kỳ công mà Người đã làm. Tuy nhiên tất cả
như còn là tiền ảnh và biểu tượng và như còn được nói bằng "dụ ngôn".
Nhưng mọi sự đã trở nên sáng tỏ và mới hẳn trong mầu nhiệm của Ðức Yêsu Kitô,
cách riêng trong biến cố Tử nạn - Phục sinh của Người. Ðứng trước mạc khải này,
những người được ơn khôn ngoan nhất, cũng bàng hoàng như thể trong mơ. Không vậy
thì người Dothái đã không đóng đanh Ðức Yêsu; và ngay các Tông đồ đã không lấy
việc sống lại làm khó hiểu. Chỉ khi đã chắc chắn về biến cố Phục sinh, các môn
đệ mới thấy Ðức Yêsu là "Chúa"; họ mới tuyên xưng Người là sự Khôn
ngoan của Thiên Chúa; họ mới thấy Luật pháp và Tiên tri trước kia đã chỉ nói về
Người.
Như vậy, sự khôn ngoan của Thiên
Chúa, sự khôn ngoan mang lại sự sống và hạnh phúc đời đời cho con người, không
phải là Luật pháp và các Tiên tri, nhưng là Ðức Yêsu Kitô; mà cũng không phải
là Ðức Yêsu Kitô như xác thịt cho biết, nhưng là "Chúa" Yêsu Kitô
trong ánh sáng đức tin mà mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh của Người đã ban cho. Nhờ
ánh sáng tỏa ra từ mầu nhiệm này, Luật pháp và Tiên tri mới minh bạch. Sự khôn
ngoan của Thiên Chúa giữ kín ở đó mới bộc lộ ra. Từ nay đọc lên người ta mới hiểu
rõ vì họ đã nhận được Thánh Thần, Ðấng dò thấu mọi sự, cả những chiều sâu thẳm
nơi Thiên Chúa. Và Thánh Thần chỉ được ban cho người ta sau khi Ðức Yêsu đã tử
nạn-phục sinh lên ngự bên hữu Thiên Chúa để tuôn đổ xuống cho những kẻ có lòng
tin.
Thế mà có những tín hữu cứ muốn
luận lý với những người chưa có đức tin về đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa!
Họ còn lầm hơn khi dám so sánh đường lối của Thiên Chúa với đường lối của thế
gian. Lẽ ra họ đã phải cầu xin trước cho người ta được ơn đức tin. Họ phải lựa
chọn Chúa trước rồi mới thấy được sự khôn ngoan của Người. Chính điều này cũng
cần phải có để nhận ra ý nghiã của những lời Tin Mừng hôm nay mà Chúa Yêsu, sự
Khôn ngoan của Thiên Chúa, đang nói với chúng ta. Người đang rao giảng sự khôn
ngoan của Thiên Chúa ở trong Hội Thánh. Chúng ta hãy nghe Người.
C. Thiên Chúa Nói Sự Khôn Ngoan
Của Người Với Chúng Ta
Chắc chắn không nên tìm trong đoạn
này một bố cục chặt chẽ. Vì đây không phải là một bài luân lý; nhưng chỉ là mớ
những lời dạy dỗ, có thể đã được nói trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, mà tác giả
sách Tin Mừng đã lấy đặt đứng bên nhau để làm thành một "bài giảng".
Chúng ta có thể nhận ra một số
câu mở đầu. Ðức Yêsu tuyên bố: "Ðừng tưởng Ta đến để bãi bỏ Lề Luật hay
các Tiên tri; Ta đến không phải để bãi bỏ mà để làm trọn". Lời nói hết sức
quan trọng. Lập tức, Chúa Yêsu đã khẳng định Người là Ðấng phải đến trong thế
gian, tức là Vị Cứu thế mà Cựu Ước loan báo phải trông đợi. Uy quyền của Người
át cả Lề luật và các Tiên tri. Tuy nhiên Người không phủ nhận và bãi bỏ họ. Người
kiện toàn họ. Thế nên không được coi nhẹ một nét nhỏ nào trong Luật pháp. Câu
này không có ý nói lên bất cứ một chút xíu nào trong khuynh hướng bảo thủ và vụ
luật. Nó muốn tăng cường sức mạnh cho câu khẳng định ở trên: Ta đến không phải
để bãi bỏ mà để làm nên trọn. Và cũng chính vì vậy mà người trong Dân Mới phải
công chính hơn các Ký lục và Biệt phái trong Ðạo cũ. Những người này nổi tiếng
là những người giữ Luật, thì những ai theo Ðấng đến làm cho Luật pháp nên trọn
phải công chính hơn.
Chẳng han Luật xưa bảo: Chớ giết
người! Thì nay, Ðấng đến làm trọn Lề luật truyền lệnh không được tức giận anh
em mình. Người đòi hỏi một sự công chính lớn và sâu xa hơn. Người làm "trọn"
luật chớ giết người, khi cấm ngay cả sự tức tối trong tâm hồn. Hễ bất hòa với
ai, người ta phải mau mau hòa giải để có khả năng thờ phượng, tức là để xứng
đáng ở lại trong Dân Mới của Thiên Chúa là Dân có bản chất tư tế. Ðàng khác người
ta luôn phải sợ có tâm hồn bất hòa như thế mà phải gặp mặt Ðấng Chí Công phán
xét khi Người bất thần kêu gọi họ ra khỏi đời này. Người muốn môn đệ của Người
luôn sống trong trạng thái yêu mến, như Thiên Chúa là Ðấng Mến Yêu.
Một thí dụ khác, Luật xưa dạy:
Chớ ngoại tình! Nay Ðấng kiện toàn Lề luật đến, Người tuyên bố: phàm ai nhìn
người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng. Và Người truyền:
con mắt nào có những cái nhìn như thế, thì tốt hơn nên móc mà quăng nó đi. Vì
thà mất một chi thể còn lợi hơn là có cả toàn thân mà bị xô vào hỏa ngục. Ý của
Người muốn người ta phải tiêu diệt tội lỗi ngay từ trong lòng và nơi các nguyên
nhân, điều kiện dẫn đến tội lỗi.
Nhưng đã nói đến ngoại tình, Người
không thể mau lẹ bỏ qua một thắc mắc đang sôi nổi ở thời bấy giờ và có lẽ ở mọi
thời, đặc biệt ở thời đại chúng ta. Luật xưa nói: ai rẫy vợ thì hãy cho vợ ly
thư. Và ở nhiều nơi luật đời hiện nay cũng cho ly dị. Còn Chúa Yêsu, Ðấng đến
kiện toàn Lề luật nghĩ thế nào?
Có lần Người đã khẳng định: Xưa
Môsê nói như vậy là vì sự yếu đuối của con cái Israel, chứ tự nguyên thủy không
như vậy và những gì Thiên Chúa đã kết hiệp, loài người không được phân rẽ. Ở
đây, trong đoạn văn này, lập trường trên vẫn không thay đổi, vì ai cưới người vợ
ly dị là phạm tội ngoại tình. Nhưng cũng vì con người yếu đuối, và cũng để tôn
trọng chứ không phải bãi bỏ Luật xưa đã cho phép, sách Tin Mừng Matthêô hôm nay
viết: mọi kẻ rẫy vợ - trừ phi là nố dâm bôn - là làm cho vợ ngoại tình. Tác giả
cho phép có một nố trừ. Các nhà chú giải mặc sức tìm hiểu sự thật nố trừ này là
gì. Ðiều chắc chắn là ngoài tác giả Matthêô ra, không một tác giả Tân Ước nào
khác cho phép có luật trừ trong việc cấm ly dị. Sự kiện này cho phép chúng ta
nghĩ rằng: trong toàn thể Hội Thánh thời các Tông đồ, đâu đâu cũng rao giảng
giáo lý của Chúa tuyệt đối cấm ly dị. Nhưng ở những môi trường người Dothái theo
đạo, người ta còn bám vào Luật Môsê; người ta nại đến việc Chúa không đến để
bãi bỏ Lề luật; người ta muốn được áp dụng Luật mới một cách nhẹ nhàng... Có lẽ
vì vậy tác giả Matthêô viết sách cho những môi trường này, đã đề cập tới một nố
trừ nhưng vẫn khẳng định tính cách vĩnh viễn của hôn nhân. Nói theo danh từ của
Giáo hội hiện nay, có những trường hợp được ly thân nhưng không được ly hôn vì
ai cưới người vợ ly dị là phạm tội ngoại tình. Tuy nhiên muốn nói cho hết lẽ,
chẳng bao giờ được phép tựa vào một câu để đi ngược lại với toàn bộ giáo huấn
chung của Tân Ước và giáo lý sống động của Hội Thánh. Và điều này chúng ta cũng
phải áp dụng ở đây.
Chúa Yêsu đang dạy dỗ dân chúng
một cách sống động. Người là sự khôn ngoan của Thiên Chúa đến với loài người.
Dân chúng không thấy Người nói như các Luật sĩ và Biệt phái. Người có giáo lý mới
"mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe". Người kêu gọi lòng tin. Người
ta được tự do lựa chọn. Và bắt đầu người ta phải tin Người. Ðó chính là điều mới
lạ. Và cũng là điều tồn tại mãi mãi trong đạo của Người, đạo của chúng ta.
Ngay trong giờ phút này và ở
đây, chúng ta cử hành Thánh lễ. Ðây là mầu nhiệm đức tin. Chúng ta tự do lựa chọn
thái độ. Mầu nhiệm nằm ở tầm tay chúng ta, theo nghĩa chúng ta có thể đón nhận
với niềm tin hay không. Và tùy đó, chúng ta sẽ lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa
hay không. Chẳng sự khôn ngoan nào của loài người giúp chúng ta làm được công
việc này. Chỉ có Lời của Chúa Yêsu Kitô, chỉ có uy tín của Người là sự khôn
ngoan của Thiên Chúa khiến được chúng ta tin vào sự biến đổi của bánh rượu. Và
khi chúng ta đã lãnh nhận Bí tích với niềm tin như thế, chúng ta sẽ được gia
tăng đức tin, đức cậy và đức mến để thay đổi cuộc đời hàng ngày của chúng ta,
không theo sự khôn ngoan của thế gian nữa, nhưng theo sự khôn ngoan của Thiên
Chúa đã được biểu lộ cho chúng ta trong Lời Chúa và Mình Thánh Chúa mà chúng ta
đón nhận trong Thánh lễ này.
(Trích dẫn từ tập sách Giải
Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật VI Thường Niên, Năm A
Bài đọc: Sir
15:16-21; 1 Cor 2:6-10; Mt 5:17-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy
tìm học và thực thi đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa.
Nếu con người biết khiêm nhường
học hỏi và quan sát những điều xảy ra trong vũ trụ, họ sẽ nhận thấy trí khôn của
con người rất hạn hẹp và nhiều giới hạn, không thể nào so với sự khôn ngoan vô
biên của Thiên Chúa. Một thái độ như thế sẽ giúp con người đặt niềm tin nơi
Thiên Chúa và làm theo những gì Ngài dạy, và sẽ gặt hái rất nhiều kết quả tốt
lành trong cuộc đời.
Cả ba bài đọc hôm nay đều nhấn mạnh
đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa vượt xa sự khôn ngoan của con người, và con
người phải học hỏi để sống theo đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa. Trong bài
đọc I, tác giả Sách Huấn Ca đưa ra lý do tại sao con người phải chọn để sống
theo đường lối của Thiên Chúa, vì Ngài nắm giữ vận mạng của loài người. Trong
bài đọc II, thánh Phaolô phân biệt sự khôn ngoan của Thiên Chúa với sự khôn
ngoan của con người. Thiên Chúa ban khôn ngoan của Ngài cho những ai yêu mến và
tìm nó. Trong Phúc Âm, sau khi đã loan báo Hiến Chương Nước Trời (Mt 5:1-12) và
cho hai ví dụ về muối và ánh sáng, Chúa Giêsu đi thẳng vào trọng tâm của Lề Luật.
Ngài vạch rõ những hiểu biết sai lầm về Luật và lối sống vụ Luật; đồng thời dạy
dỗ dân chúng lối sống mang lại hiệu quả theo Luật của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được
cái đó.
Sách Huấn Ca là một trong bảy
Sách Khôn Ngoan, chú trọng đến việc dạy dỗ con người biết sống mối liên hệ với
Thiên Chúa và với tha nhân: cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn hữu, kẻ thù... Sách
rất nhiều lần nhấn mạnh đến chân lý nền tảng: “Kính sợ Thiên Chúa là nguồn mạch
mọi khôn ngoan.”
Tại sao phải học hỏi và tuân
theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa? Câu trả lời đơn giản là vì uy quyền của
Thiên Chúa vượt xa con người giới hạn. Tác giả Sách Khôn Ngoan viết: “Vì trí
khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao, Người mạnh mẽ uy quyền và trông thấy tất
cả. Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và biết rõ tất cả những gì người
ta thực hiện.” Dĩ nhiên, con người có tự do chọn để sống nghịch ý với Thiên
Chúa, nhưng làm như vậy có lợi gì đâu, con người chỉ chuốc lấy đau khổ và thiệt
hại, cả đời này lẫn đời sau. Tác giả cho một ví dụ chọn lựa: “Trước mặt con,
Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người
là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó.” Ngay cả sự tự do của con người
cũng là của Thiên Chúa ban, nhưng không phải là để cho con người muốn chọn sao
thì chọn; nhưng phải chọn sao cho hợp với ý của Thiên Chúa, thì mới mang lại kết
quả tốt đẹp và hạnh phúc cho con người.
2/ Bài đọc II: Chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Sự khác biệt giữa khôn ngoan của
Thiên Chúa và của con người: Thánh Phaolô ý thức rất rõ những gì ngài rao giảng
về Đức Kitô vượt xa giới hạn hiểu biết của con người, nhất là Đức Kitô chết
trên Thập Giá là điều mà con người thường không thể hiểu được. Ngài nói: “Thật
thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư
mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh
của Thiên Chúa” (1 Cor 1:18). Thánh Phaolô cũng biết nếu những người liên hệ đến
cái chết của Đức Kitô biết Ngài thực sự là Con Thiên Chúa, họ sẽ không bao giờ
dám tham dự vào việc giết Ngài; và như vậy, kế hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa sẽ
không thành công! Chính điều này nói cho con người biết họ khôn ngoan của họ
không thể nào sánh kịp khôn ngoan của Thiên Chúa, họ đang thi hành kế hoạch của
Thiên Chúa mà họ vẫn tưởng đang làm theo sự khôn ngoan của mình.
Nhưng tại sao Thiên Chúa lại
không mặc khải cho tất cả mọi người được biết? Ngoài lý do kể trên, Đức Kitô vẫn
không ngừng mặc khải cho họ biết Ngài là Con Thiên Chúa, nhưng họ vẫn bưng tai
bịt mắt không chịu nghe Ngài, phần vì họ quá dựa vào sự khôn ngoan của họ, phần
vì họ sợ sẽ mất những lợi nhuận vật chất. Nhưng đối với những ai khiêm nhường
và yêu mến sự thật, Thiên Chúa vẫn cho mọi người ở mọi nơi và mọi thời có cơ hội
để nhận ra và tin vào Đức Kitô, như Phaolô xác nhận: “Điều mắt chẳng hề thấy,
tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn
sẵn cho những ai mến yêu Người. Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc
khải cho, nhờ Thần Khí.”
3/ Phúc Âm: Luật trọn lành của Chúa Giêsu
3.1/ Chúa Giêsu giải thích Lề Luật:
Trước tiên, chúng ta cần xác định đâu là ý
nghĩa của Luật mà Chúa Giêsu muốn đề cập đến ở đây. Truyền thống Do-thái có ít
nhất 4 cách cắt nghĩa: (1) Thập Giới; (2) 5 cuốn Sách đầu tiên của Kinh Thánh,
Ngũ Thư; (3) Sách Luật và Sách Ngôn Sứ; và (4) không chỉ 3 điều trên, mà còn cả
Luật theo truyền thống của tổ tiên nữa, như luật rửa tay và thanh sạch, như
phái Pharisees hay tranh luận với Chúa Giêsu. Chắc chắn, Chúa Giêsu không muốn
nói tới luật lệ của con người (4), vì chúng bất toàn và hay thay đổi. Ngài cũng
không muốn nói tới cách giải thích Luật theo sự hiểu biết của con người (2) và
(3), vì nhiều khi chúng đi quá xa nguyên tắc căn bản và trở thành gánh nặng cho
con người; tuy nhiên, lời các ngôn sứ về việc Chúa đến chắc chắn Ngài sẽ kiện
toàn. Thập Giới có lẽ là điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ ở đây, vì nó đến trực tiếp
từ Thiên Chúa và không bao giờ thay đổi. Ba áp dụng của Luật Chúa muốn nói tới ở
đây.
(1) Thi hành Luật chứ không phải
chỉ biết Luật: Nhiều người nghĩ có thể trở nên công chính bằng việc biết Luật
hay biết Đức Kitô, Chúa Giêsu nhấn mạnh việc thực thi Lề Luật. Biết mà không
thi hành, có ích lợi gì cho người biết đâu, Satan và bè lũ của chúng biết còn
hơn con người. Chúa cũng nhấn mạnh đến việc dạy dỗ con người làm theo những gì
Luật dạy: “Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước
Trời.”
(2) Không được khinh thường và tức
giận với anh em: Nhiều người trong chúng ta chỉ để ý tới tội giết người, mà ít
khi chịu để ý tới tội khinh thường và chửi rủa anh em. Dĩ nhiên, Chúa không kết
tội nóng giận tự nhiên khi tha nhân làm điều gì cho mình buồn lòng; nhưng không
được phản ứng đến độ khinh thường và lăng nhục tha nhân.
(3) Sống hòa thuận với tha nhân:
Truyền thống Do-thái không xa lạ với lời dạy của Chúa, vì trong Cựu Ước, tội chỉ
có thể được tha khi hội đủ 3 điều: làm hòa, thú tội với Thiên Chúa, và dâng lễ
vật đền tội. Tội không thể được tha cho dù đã thú tội và dâng lễ vật. Vì thế,
“nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có
chuyện bất bình với anh, hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người
anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” Chúa cũng dạy một điều rất
khôn ngoan là hãy biết sống hòa thuận với tha nhân, và tìm cách giải quyết với
nhau khi có vấn đề: chuyện bé đừng xé ra to; chuyện có thể giải quyết với nhau
được đừng đưa nhau đến cửa quan để cả hai đều chịu thiệt hại.
3.2/ Sống theo sự thật: Hễ "có" thì phải nói "có;"
"không" thì phải nói "không."
Nguyên tắc căn bản trong cuộc đời
là con người phải biết sống theo sự thật, và tuyệt đối không sống theo sự sai
trái; dẫu biết sự thật mất lòng, con người vẫn phải nói, sống, và làm chứng cho
sự thật. Sống theo sự thật không dễ vì nó đòi hy sinh và ngay cả có thể phải chết
để làm chứng cho sự thật. Không ai có thể vỗ ngực tự nhận mình luôn sống theo sự
thật; nhưng điều quan trọng là sau khi đã lỡ sống theo sự gian trá, con người
phải có can đảm tự nhận và thú lỗi: mình đã không sống theo sự thật Thiên Chúa
dạy. Đừng biện hộ với hết lý do này đến lý do kia, để rồi dần dần giải thích sự
gian trá theo lý luận quanh co của mình; nhất là để biến sự gian trá thành sự
thật. Chúa Giêsu đưa ra 4 áp dụng về việc sống theo sự thật.
(1) Việc ngoại tình: Sự thật
không phải chỉ biểu lộ trong việc làm nhưng còn bắt nguồn trong tư tưởng. Chúng
ta cần phân biệt ở đây giữa thèm muốn tự nhiên với cố ý thèm muốn. Nếu một người
nam nhìn người nữ với sự rung động tự nhiên, rồi gạt bỏ đi ngay, điều đó không
có tội. Điều Chúa Giêsu muốn đề cập đến ở đây là trường hợp cố tình nhìn để
khơi động tình dục. Hiểu như thế, điều phải tránh không chỉ nhìn phụ nữ nhãn tiền,
mà còn bao gồm cả phụ nữ trong phim, ảnh, internet... để kích thích tình dục nữa;
khi làm như thế cũng là đang khao khát con người của họ dẫu họ không biết.
Điều Chúa Giêsu dạy: “Nếu mắt phải
của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân
thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho
anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là
toàn thân phải sa hoả ngục” không thể hiểu theo nghĩa đen, dẫu đã có vài người
đã làm như vậy. Với sự yếu đuối của con người, nếu cứ làm như thế, không biết
trên thân thể còn gì để móc và cắt! Điều Chúa muốn nêu bật là sự trầm trọng của
tội, chúng ta phải cố gắng hết sức để đừng làm nô lệ cho tội lỗi, vì nó sẽ giam
hãm chúng ta trong hỏa ngục.
(2) Việc ly dị: Căn bản là sự
trung thành với lời mình đã thề hứa với Thiên Chúa và với nhau. Giao ước hôn
nhân không bao giờ có thể xóa bỏ được vì “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài
người không được phân ly.” Con người có thể vịn vào hàng trăm thứ lý do để xin
ly dị; nhưng đơn giản là vì con người đã không thật lòng với Thiên Chúa và với
nhau, ngay từ ban đầu hay trong cuộc sống lứa đôi. Giáo Hội có cho phép ly dị
cũng chỉ vì những yếu đuối không sống theo sự thật được của người xin; chứ Giáo
Hội chẳng bao giờ xé được hôn nhân mà Thiên Chúa đã liên kết.
(3) Việc thề hứa: Nguyên tắc căn
bản Chúa Giêsu dạy là sống theo sự thật. Nếu con người luôn sống theo sự thật,
thề hứa là chuyện thừa. Người ta có thể tin lời của một người luôn sống theo sự
thật mà không cần thề hứa gì cả; nhưng nếu một người đã không sống theo sự thật,
có thề hứa bao nhiêu cũng chẳng bảo đảm được lời người ấy hứa. Trong lịch sử,
đã có những bộ tộc cấm tuyệt đối chuyện thề hứa như Essenes và Quakers. Chúa
Giêsu vạch ra những gian manh của con người trong việc thề hứa để khỏi phải giữ,
và Ngài dạy: “đừng thề chi cả.”
(4) Sống theo sự gian trá là sống
theo ác quỉ: Lời của Thiên Chúa là sự thật, và Đức Kitô đã cầu xin Cha Ngài
thánh hóa các môn đệ trong sự thật (Jn 17). Mục đích của việc thánh hóa này là
vì các môn đệ còn phải sống trong thế gian, dưới ảnh hưởng của ác thần. Lời
Chúa và sự thật không thể tách rời nhau, con người sống theo sự gian trá có thể
vì không biết sự thật. Một người luôn học hỏi, suy niệm, và nắm vững Lời Chúa,
khó lòng cho ma quỉ cám dỗ theo đường gian ác.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn biết học hỏi
và sống theo đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa. Một thái độ như thế sẽ giúp
chúng ta tránh được khổ đau và sống hạnh phúc trong cuộc đời.
- Sự khôn ngoan và đường lối của
Thiên Chúa nhiều khi hoàn toàn ngược lại sự khôn ngoan và đường lối con của con
người. Chúng ta cần cầu nguyện và xin ơn khôn ngoan của Thánh Thần trợ giúp khi
phải đương đầu với những trường hợp này.
- Chúng ta đừng chỉ tìm hiểu sơ
sài và sống hời hợt bên ngoài; nhưng hãy dành thời giờ học hỏi, suy niệm, và cầu
nguyện để nhận ra những nguyên lý sâu xa bên trong.
Linh mục Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
12/02/2017 - CHÚA NHẬT TUẦN 6 TN – A
Mt 5,17-37
CÔNG CHÍNH HƠN
“Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người
Pha-ri-sêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” (Mt 5,20)
Suy niệm: Các kinh sư và
biệt phái là những người giữ luật rất đúng, và cũng rất kiên định tới mức trở
thành câu nệ hình thức cứng nhắc, khắt khe. Là bậc thầy trong dân, thay vì dạy
dân sống tinh thần của Giao Ước thì, qua cách sống của mình, họ làm cho mọi người
nghĩ rằng đức công chính chỉ gói gọn trong việc chu toàn lề luật. Chúa Giê-su
đòi hỏi các môn đệ không dừng lại ở những việc làm vụ hình thức mà phải “công
chính hơn” tới mức hoàn thiện “như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt
5,48); cụ thể là:
- sâu hơn, không chỉ bề ngoài mà
tận trong tâm hồn: có lòng giận ghét đã là đã giết người, có ý muốn ngoại tình
đã là ngoại tình trong tư tưởng rồi.
- bao dung hơn: không còn “mắt đền
mắt, răng đền răng,” nhưng đưa cả má phải khi bị vả má trái.
- triệt để hơn: nếu mắt, tay nên
dịp tội cho mình thì hãy chặt nó đi.
Mời Bạn: Quan niệm
sai lầm và hẹp hòi về đức công chính vẫn tiếp tục trong chúng ta, nếu bạn và
tôi vẫn cứ coi việc sống đạo chỉ là đi nhà thờ, xem lễ và giữ những việc luật
buộc. Đức công chính của người môn đệ Chúa Ki-tô đòi hỏi chúng ta vượt qua những
hình thức bên ngoài để đạt đến điều cốt lõi là “Mến Chúa yêu người.”
Chia sẻ: Hành
vi, cử chỉ nào của bạn và cộng đoàn đang cần “công chính hơn”?
Sống Lời Chúa: Làm việc bổn phận
hoặc việc bác ái với lòng yêu mến chứ không vì bắt buộc hoặc vì lý do gì khác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin đừng
để con tự mãn vì đã giữ những gì luật buộc, nhưng xin giúp con biết làm mọi việc
chỉ vì mến Chúa và yêu người.
(5 Phút Lời Chúa)
THẦY BẢO CHO ANH EM BIẾT (12.2.2017 – Chúa nhật 6 Thường niên, Năm A)
Luật Môsê là một tiến bộ lớn trong nền luân lý, nhưng vẫn chỉ là bước chuẩn bị cho luật của Ðức Giêsu. Luật mới này không phá bỏ, nhưng kiện toàn luật cũ.
Suy niệm:
Thiên Chúa là một nhà
giáo đầy kinh nghiệm.
Ngài đòi hỏi con người
phải vươn lên, vươn cao lên mãi,
nhưng Ngài không đòi hỏi
điều vượt quá khả năng của họ.
Khi ban Mười Ðiều Răn cho
dân Ítraen, qua ông Môsê,
Ngài đưa họ ra khỏi tình
trạng sống theo luật rừng.
Luật Môsê là một tiến bộ
lớn trong nền luân lý,
nhưng vẫn chỉ là bước
chuẩn bị cho luật của Ðức Giêsu.
Luật mới này không phá
bỏ, nhưng kiện toàn luật cũ.
Kitô hữu không chỉ xét
mình theo Mười Ðiều Răn,
mà hơn nữa còn xét mình
theo tinh thần Bài giảng Trên núi.
Lời của Chúa Giêsu phải
là thước đo để ta xét mình
Có khi nào bạn tự kiểm
dựa trên một đoạn Tin Mừng không?
Ðoạn Tin Mừng hôm nay mời
ta nhìn lại miệng và mắt,
hai giác quan dễ được
dùng để phạm tội.
Miệng là nơi phát xuất
những lời lăng mạ, dối trá.
Lời nói biểu lộ tâm hồn
con người:
lòng có đầy mới tràn ra
miệng (x. Mt 12,34).
Khi đêm về, nhìn lại
những gì mình đã nói,
ta thường thấy có rất ít
yêu thương và sự thật,
nhưng lại đầy ắp cái tôi
ích kỷ, lọc lừa.
“Ai không vấp ngã về lời
nói, ấy là người hoàn hảo,
có khả năng làm chủ được
toàn thân” (Gc 3,26).
Mắt là cơ quan tiếp thu
thế giới bên ngoài.
Mắt không chỉ là cửa sổ,
mà là cửa chính của tâm hồn.
Các cơn cám dỗ thường qua
cửa đó mà đến với ta.
Mắt thích nhìn cái đẹp.
Eva nhìn trái cấm, Ðavít
thấy người phụ nữ khỏa thân.
Cái nhìn đem lại khoái
lạc
và thổi bùng lên ngọn lửa
thèm muốn,
khiến người ta dám làm chuyện
trái luân thường đạo lý.
Chúng ta đang bị bao vây
trong một thế giới đầy hình ảnh.
Tivi, phim ảnh, sách báo,
video, thời trang, quảng cáo...
tất cả tìm cách lôi cuốn
cái nhìn của ta,
kích thích khoái lạc nơi
con mắt và cả thân xác.
Những điều cao quý và
thiêng liêng
như thân xác, như đời
sống thầm kín vợ chồng
lại bị trở thành tầm
thường, dung tục.
Tình yêu chỉ còn là vội
vã chiếm đoạt thân xác nhau
trong cơn mê say nhất
thời,
chứ không phải là sự trân
trọng hiến dâng chính mình
trong một quyết định chín
chắn và đầy trách nhiệm.
Ðức Giêsu nói đến thứ
ngoại tình do cái nhìn thèm muốn.
Làm sao tôi giữ được đôi
mắt trong suốt của trẻ thơ?
Làm sao để trí tưởng
tượng và trí nhớ không bị vẩn đục?
Làm sao để tôi nhìn người
phụ nữ như chị, em của tôi?
Làm sao để chính người
phụ nữ không tự biến mình
thành đồ chơi để người
khác ngắm nghía?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng
con.
Mỗi lần con nghe lời
Chúa,
xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn
sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu
có bộ mặt chán nản và
thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
12 THÁNG HAI
Hồn Lành Trong Xác Mạnh
Tập luyện thể dục thể thao, đó
là chúng ta trân trọng thân xác của mình. Chúng ta đạt được tình trạng khỏe mạnh
thể lý hết sức có thể, với hoa quả của nó là niềm khoan khoái lớn lao. Trong
nhãn giới đức tin, chúng ta biết rằng nhờ phép Rửa, trọn vẹn con người – cả hồn
lẫn xác – đã trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần: “Anh em không biết thân xác
anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em sao… và vì thế anh em không
còn thuộc về chính mình nữa? Anh em đã được trả giá để chuộc lại. Vậy anh em
hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (ICr 6, 19 – 20).
Thể thao gắn liền với việc phấn
đấu để thắng một cuộc thi đấu hay đạt được một mục tiêu nào đó. Nhưng với đức
tin, chúng ta biết rằng “triều thiên không thể hư nát” của cuộc sống vĩnh cửu
thì giá trị hơn nhiều so với bất cứ giải thưởng nào trên trần gian. Triều thiên
đó là ân huệ của Thiên Chúa, song đó cũng là kết quả của việc chuyên cần đào
luyện nhân đức hằng ngày. Và, theo Thánh Phao-lô, đây là một cuộc thi đấu thực
sự quan trọng. Ngài nói: “Anh em hãy tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất”
(1Cr 12, 31). Thánh Phao-lô muốn nhắc nhở chúng ta hãy hướng lòng trí về những
ân huệ góp phần tăng triển Nước Thiên Chúa. Nếu chúng ta kiên trì trong cuộc chạy
đua này, những ân huệ ấy sẽ đem lại một giải thưởng sinh ích lợi vĩnh cửu cho
chúng ta.
- suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope
John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 12 -2
Chúa Nhật VI Thường niên
Hc 15, 16-21; 1Cr 2, 6-10; Mt
5, 17-37.
Lời Suy Niệm: “Anh em đừng tưởng
Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc các lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để
bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.”
Trong ngày 15/2/2015 Đức Thánh
Cha Phanxicô có chia sẻ với chúng ta trong vấn đề luận lý của Thiên Chúa và của
Giáo Hội có đoạn như sau khi Chúa Giêsu chữa người mắc bệnh phong: “Luật Môshê
khai trừ họ để cứu người lành mạnh và che chở các người công chính khỏi mọi
nguy hiểm bằng cách đối xử với họ không thương xót. Nhưng Chúa Giêsu cách mạng
và mạnh mẽ lay động não trạng khép kín trong sự sợ hãi và tự hạn chế bởi các
thành kiến ấy. Ngài không hủy bỏ Luật Môsê, nhưng kiện toàn nó, bằng cách tuyên
bố sự không hữu hiệu của luật báo oán, cho biết Thiên Chúa không khấng nhận việc
tuân giữ luật ngày lễ nghỉ sabát mà khinh rẻ con người và kết án con người.
Chúa Giêsu cứu người đàn bà tội lỗi khỏi sự nhiệt thành mù quáng của những người
sẵn sàng ném đá bà nhân danh Luật Môsê. Chúa Giêsu cách mạng cả lương tâm con
người nữa, bằng cách mở ra cho nhân loại các chân trời mới, và vén mở tràn đầy
cái luận lý của Thiên Chúa: cái luận lý của tình yêu thương, không dựa trên sự
sợ hãi, nhưng trên sự tự do, trên tình bác ái, trên lòng nhiệt thành và ước muốn
cứu độ của Thiên Chúa.”
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người
trong chúng con nhận ra đâu là: tình yêu và lòng thương xót trong suy nghĩ, lời
nói và việc làm của chúng con đối với bản thân , gia đình và mọi người chung
quanh chúng con. Để trong cuộc sống tạo được sự vui tươi và bình an cho nhau.
Mạnh Phương
12 tháng Hai
Những Kho Tàng Quý Giá
Giá trị của những đồ cổ thường
gia tăng với thời gian.
Dạo tháng 5 năm 1990, một chiếc
xe Rolls Royce do Anh Quốc chế tạo năm 1907 đã được bán đấu giá là 2,860,000 đô
la tại bang Florida bên Hoa Kỳ. Ðây là giá bán một chiếc xe cổ cao nhất từ trước
tới nay. Chiếc xe này đã từng được gia đình cự phú Rochefeller sử dụng.
Nhưng đáng kể hơn cả vẫn là
giá bán một bức tranh của danh họa người Hòa Lan là Vincent Van Gogh. Bức tranh
họa lại chân dung của một người bạn thân cuqả danh họa là bác sĩ Gachet, được
thực hiện năm 1890, tức là cách đây đúng hơn 100 năm. Trong một cuộc đấu giá tại
phòng triển lãm ở New York bên Hoa Kỳ, bức tranh đã được bán đấu giá là
82,500,000 đô la. Ðây là giá bán cao nhất từ trước tới nay đối với một tác phẩm
nghệ thuật.
Cũng dạo đó, tại Tây Ðức, người
ta đã đem bán đấu giá cả những tác phẩm của nhà độc tài Hitler. Một bức tranh
sơn nước của ông đã được bán với giá là 6,134 đô la. Ngay cả một ấn bản của tác
phẩm Mein Kampf, trong đó Hitler đã vạch ra chương trình hành động gian ác của
ông và các cộng sự viên của ông cũng được đem bán đấu giá. Người mua có lẽ
không nghĩ đến giá trị nghệ thuật cho bằng muốn giữ làm kỷ niệm di tích có liên
quan đến tội ác và một trong những thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử nhân loại.
Tất cả những người môn hạ đích
thực của Ðức Kitô cũng là những nhà nghệ sĩ mà các tác phẩm đều vượt thời gian.
Tác phẩm mà các ngài để lại chính là cả cuộc sống được họa lại theo khuôn mẫu của
Ðức Kitô. Những tác phẩm ấy không bao giờ được đem bán đấu giá, bởi vì chúng vô
giá. Không có tiền bạc nào có thể mua được công đức và các hy sinh của các
Thánh. Người ta chỉ có thể chiêm ngắm bằng đôi mắt của đức tin. Có những cuộc sống
xả thân quên mìnhmà mọi người đều biết đến, có những cuộc sống âm thầm trong
gian lao thử thách mà chie mình Thiên Chúa mới chân nhận giá trị. Hiển hách hay
âm thầm, cuộc đời của những vị thánh là những tác phẩm mà giá trị vẫn muôn tồn
tại qua muôn thế hệ.
Mỗi một người Kitô chúng ta,
trong cố gắng mô phỏng Ðức Kitô, cũng là những nghệ sĩ cách này hay cách khác đều
để lại những tác phẩm cho hậu thế. Chúng ta không để lại tài sản, chúng ta
không để lại những tác phẩm nghệ thuật, mà chính là cả cuộc sống của chúng ta.
Trong âm thầm theo Chúa, phục vụ tha nhân, chịu đựng vì đức tin, làm chứng tá
cho Tin Mừng: chúng ta luôn được mời gọi để lại cho hậu thế kho tàng vô giá nhất:
đó là Niềm Tin. Âm thầm hay rực sáng, Niềm Tin đó phải là kho tàng quý giá nhất
mà mọi người chúng ta đều được mời gọi để sống, để bồi đắp, để vun trồng và
truyền lại cho các thế hệ mai sau.
(Lẽ Sống)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét