24-12-2012 : LỄ VỌNG VÀ LỄ ĐÊM GIÁNG SINH
Lễ Vọng Giáng Sinh
BÀI ĐỌC I: Is 62, 1-5
"Ngươi đẹp lòng
Chúa".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng,
và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi Đấng công chính xuất hiện
như ánh sáng, Đấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời.
Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Đấng
công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt
cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và
vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi. ngươi sẽ không còn gọi là kẻ
bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi
là "kẻ Ta ưa thích", và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì
ngươi đẹp lòng Thiên Chúa và đất ngươi sẽ có dân cư.
(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh
nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên
Chúa ngươi cũng sẽ vui mừng vì ngươi. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 88, 4-5. 16-17. 27 và 29
Đáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi
tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).
Xướng: 1) Ta đã ký minh ước cùng
người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Đavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới
muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn
thế hệ". - Đáp.
2) Phúc thay dân tộc biết hân
hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì
danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài. - Đáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta:
"Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Đá Tảng cứu độ của con". Đời đời
Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi
duy trì. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Cv 13, 16-17. 22-25
"Thánh Phaolô làm chứng
về Chúa Kitô, con vua Đavít".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Phaolô đến Antiôkia thuộc
Pisiđia, vào hội đường, đứng lên, giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng rồi
nói: "Hỡi người Israel và những kẻ kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây. Thiên
Chúa Israel đã chọn Tổ phụ chúng ta, Người đã thăng tiến dân Người khi họ còn
cư ngụ trong nước Ai-cập, và Người ra tay mạnh mẽ đưa cha ông chúng ta ra khỏi
nước ấy.
"Sau khi loại bỏ Saolê,
Chúa đã đặt Đavít lên làm vua dân Người, để chứng nhận điều đó, chính Người đã
phán: 'Ta đã gặp được Đavít, con của Giêsê, người vừa ý Ta, người sẽ thi hành mọi
ý muốn của Ta'.
"Bởi dòng dõi Đavít, theo lời
hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Đức Giêsu làm Đấng Cứu Độ, Đấng mà Gioan đã báo
trước, khi ông đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi Gioan
hoàn tất hành trình, ông tuyên bố: 'Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng;
nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người'".
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA:
Alleluia, alleluia! - Ngày mai tội
lỗi trần gian sẽ được xoá bỏ, và Đấng Cứu Thế sẽ ngự trị trên chúng ta. -
Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 1, 1-25 (bài dài)
"Dòng dõi Chúa Giêsu
Kitô, con vua Đavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
; Phares sinh Esrom; Esrom sinh
Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon
sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê
sinh vua Đavít.‡bởi bà Thamar†Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Đavít,
con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và
các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara
Đavít sinh Salomon do bà vợ của
Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát;
Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh
Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh
Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon,
Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud
sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh
Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh
Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Đức Kitô.
Vậy, từ Abraham đến Đavít có tất
cả mười bốn đời, từ Đavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc
lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn
cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với
nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà là người công
chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang
khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:
"Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng
ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh
Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu
dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời
Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai,
hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên
Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện
như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với
nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là
Giêsu. Đó là lời Chúa.
__________________________
Hoặc đọc bài vắn này: Mt 1, 18-25
Hoặc đọc bài vắn này: Mt 1, 18-25
"Maria sẽ hạ sinh một
con trai mà ông đặt tên là Giêsu".
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn
cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria đính hôn với
Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần.
Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ
bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng
ông trong giấc mơ và bảo:
"Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng
ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình: vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh
Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu
dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời
Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:
"Này đây một trinh nữ sẽ thụ
thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi
tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn
mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì
Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu. Đó là lời Chúa.
Lễ Nửa Đêm
BÀI ĐỌC I: Is 9, 2-4. 6-7 (Hr 1-3. 5-6)
"Chúa ban Con của Người
cho chúng ta".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Dân tộc bước đi trong u tối, đã
nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền
thâm u sự chết. Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm
vui? Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa,
như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về
phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái
vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến
thắng Mađian. [Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc
áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa.]
Bởi lẽ một hài nhi đã sinh ra
cho chúng ta, và một người con đã được ban tặng chúng ta. Người đã gánh nhận
vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Người là "Cố Vấn Kỳ Diệu,
Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình". Người sẽ mở
rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận; Người sẽ ngự trên ngai vàng của
Đavít, và trong vương quốc Người, để củng cố và tăng cường, trong sự công minh
chính trực, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. Lòng ghen yêu của Chúa thiên
binh sẽ thực thi điều đó. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 11-12. 13
Đáp: Hôm nay Đấng Cứu Thế
đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô, Chúa chúng ta (Lc 2, 11).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên
Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên
Chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Đáp.
2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn
Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở
nơi vạn quốc. - Đáp.
3) Trời xanh hãy vui mừng và địa
cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên. Đồng nội và muôn
loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở. - Đáp.
4) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người
ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công
minh và chư dân cách chân thành. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Tt 2, 11-14
"Ân sủng của Chúa đã đến
với mọi người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi
cho Titô.
Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu
Độ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người, dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục
vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này, khi trông đợi
niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện sự vinh quang của Đức Giêsu Kitô là
Thiên Chúa cao cả và là Đấng Cứu Độ chúng ta. Người đã hiến thân cho chúng ta để
cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc
xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt tâm làm việc thiện. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 2, 10-11
Alleluia, alleluia! - Ta báo cho
anh em một tin mừng: Hôm nay Đấng Cứu Thế, là Chúa Kitô, đã giáng sinh cho
chúng ta. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 2, 1-14
"Hôm nay Đấng Cứu Thế đã
giáng sinh cho chúng ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế
Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Đây là cuộc kiểm
tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên
đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa,
trở về quê quán của Đavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất
dòng Đavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà
đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai
đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà
không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục
tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần
Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ,
khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi
đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng
cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi
trong thành của Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các
ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ".
Và bỗng chốc, cùng với các thiên
thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng:
"Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người
thiện tâm". Đó là lời Chúa.
Suy
Niệm: Đấng Cứu Thế đã ra đời
Hết thảy chúng ta hãy mở lòng đón nhận lời chúc mừng lễ Chúa Giáng Sinh,
mà Thiên Chúa vừa gửi đến trong câu cuối cùng bài Tin Mừng. Phải có sự bình an
của Chúa mới hiểu được ngày lễ hôm nay; và nhất là mới nhận được nhiều ơn của
Chúa Giáng Sinh.
Thật vậy, chúng ta muốn mừng lễ này thật long trọng, nhưng vẫn phải đứng
trước một máng cỏ nghèo nàn; Chúng ta muốn trang hoàng hang đá này thật lộng lẫy,
nhưng vẫn thấy Chúa sinh ra thật đơn sơ. Dường như có một sự nghịch thường sâu
sắc trong việc Chúa Giáng sinh và trong thánh lễ này. Và nếu không nhận được sự
bình an của Chúa, lòng chúng ta không thể nào thấm thía được mầu nhiệm Giáng
sinh.
Tuy nhiên cũng phải nói ngược lại, có hiểu được ý nghĩa của ngày lễ hôm
nay, chúng ta mới đón nhận được lời chúc bình an quý hóa của Thiên Thần. Là vì
đối với tất cả những việc có hệ đến Thiên Chúa phải có ơn Người giúp đỡ thì người
ta mới hiểu được! Và khi hiểu được, người ta mới nhận được đầy đủ ơn của Người.
Thế nên chúng ta cầu xin ơn bình an của Chúa để nhờ các bài đọc Thánh
Kinh tìm hiểu việc Chúa Giáng sinh; để rồi nhờ đó chúng ta được thêm ơn bình an
là nguồn mọi ơn cao cả khác mà Chúa Giáng sinh muốn ban cho tất cả chúng ta
trong dịp này.
1. Một Trẻ Ðã Sinh Ra
Chúng ta tự nhiên muốn nhìn thẳng vào hang đá máng cỏ để tìm hiểu việc
Chúa Giáng sinh. Nhưng nếu làm như vậy, chúng ta sẽ liều chẳng nhìn thấy gì cả,
hay chẳng nhìn được bao nhiêu. Cùng lắm, như một cái máy vô hình, mắt chúng ta
sẽ thấy một hài nhi vừa sinh, được bọc trong khăn và nơi máng cỏ, có hai ông bà
ở gần mà người ta nghĩ là cha mẹ hài nhi. Rồi có may mắn nhất thì người ta cũng
chỉ còn xem thấy một đám mục đồng đến ngó xem cảnh tượng đản sinh khác thường
này.
Phải, nếu không được hướng dẫn trước, người ta chỉ nhìn thấy có bấy
nhiêu. Và cảnh tượng xem thấy sẽ gợi lên nhiều nhất vài cảm nghĩ tự nhiên hoặc
thương hại một gia đình khó nghèo, hoặc có cảm tình với em bé vừa sinh. Chẳng
có gì độc đáo và quan trọng lắm trong tất cả những điều đã mắt thấy, tai nghe
và cảm nghĩ như vậy.
Nhưng nếu nhìn quang cảnh đản sinh kia trong tất cả lịch sử cứu độ, nếu
đọc chuyện Ðức Giêsu giáng sinh trong toàn bộ Cựu và Tân Ước, chúng ta sẽ thấy
mọi sự trở nên khác hẳn. Ðây vừa là kết quả của nhiều nghìn năm lịch sử chuẩn bị,
vừa là khởi sự của nhiều thời đại về sau. Phụng vụ chọn lúc nửa đêm để cử hành
thánh lễ này cũng có ý nói lên niềm tin ấy. Việc Ðức Giêsu Giáng sinh kết thúc
đạo cũ và khai mạc đạo mới.
Thế nên chúng ta phải nhờ tiếng nói của đạo cũ dẫn tới hang đá máng cỏ
và nhờ tiếng nói của đạo mới để nhận ra ý nghĩa của cuộc đản sinh này.
Hôm nay, tiếng nói của đạo cũ là một bài sách Isaia. Nhà tiên tri này sống
trước sự kiện lịch sử chúng ta kính nhớ hôm nay những 600 năm. Thế mà lời của
ông có vẻ rất thích hợp với việc đản sinh của hài nhi thành Bêlem. Sự thật, bấy
giờ ông đang sống ở một thời đại rất bấp bênh của lịch sử dân Chúa. Nhiều tỉnh
trong nước Do Thái đã bị đế quốc Assyri xâm chiếm và tàn phá. Dân chúng như phải
đi trong tối tăm. Ở các tỉnh còn lại người ta lo sợ như đang sống trong sự hãi
hùng của tử thần. Và triều đình Do Thái lúng túng cãi cọ chẳng biết nên cầu viện
và liên minh với lực lượng ngoại bang nào.
Chính lúc đen tối sợ hãi ấy, nhà tiên tri đã lên tiếng. Ông chẳng nói gì
khác niềm tin, niềm tin cổ truyền vào lòng trung tín của Thiên Chúa sẽ giữ lời
giao ước. Người sẽ chẳng bỏ dân cho dù dân bất nghĩa. Tình trạng hiện nay cho
thấy Người đang phạt họ, nhưng rồi Người sẽ thương, sẽ cứu. Bấy giờ, dân đi
trong tăm tối đã nhìn thấy một ánh sáng lớn. Trên những kẻ ở xứ âm u, một ánh
sáng đã rạng ngời.
Ðức tin của nhà tiên tri vững vàng đến nỗi, sự việc sẽ xảy đến trong
tương lai mà ông như đã nhìn thấy rồi. Ông thấy ơn cứu độ đã đến cho dân Chúa
đang tối tăm mặt mũi vì hoạn nạn đau khổ và đang hãi hùng trong tình hình âm u.
Ơn cứu độ ấy như một ánh sáng lớn đến xua đuổi tối tăm và âm u. Hơn nữa đó là một
Hoàng đế cứu tinh vĩ đại, vì người Ðông phương vẫn quen ví bậc vua chúa như mặt
trời và ánh sáng.
Với sự xuất hiện của ánh sáng ấy và của vị Hoàng đế ấy, Chúa ban cho dân
được niềm vui lớn, như khi được mùa và như khi đại thắng.
Biết rằng dân đang khao khát một cuộc chiến thắng, nhà tiên tri dừng lại
ở đây để quảng diễn ơn Chúa cứu độ như một cuộc thắng trận chưa từng thấy.
Không những mọi ách xâm lược, mọi thồ trên vai, một roi đốc công sẽ bị đập tan
tành, mà giầy trận chiến bào sẽ bị đốt tàn rụi, để không bao giờ còn chinh chiến
đổ máu nữa. Isaia đã dùng hình ảnh ngày chiến thắng quân Mađian kể trong sách
Thẩm phán (c. 7-8) để so sánh vừa để nói lên tính cách đại thắng, vừa để khẳng
định đó là việc do quyền năng Chúa làm cho kẻ yếu đuối khiêm cung. Hơn nữa, chiến
thắng ở Mađian đã dẫn đến ý kiến muốn có một triều đại, một vị hoàng đế thay thế
chế độ thẩm phán. Isaia hẳn đã muốn gợi lại câu chuyện này để giới thiệu vị
Hoàng đế cứu tinh mà Thiên Chúa sẽ gởi đến cho dân, như trên kia ông đã dùng
hình ảnh ánh sáng để nói đến nhà Vua sắp xuất hiện.
Là vì theo Isaia, Thiên Chúa sẽ giải cứu dân lần này nhờ một vị hoàng đế
mới. Lời văn có vẻ mô tả việc đản sinh của Ngài vì tác giả viết: Một trẻ đã
sinh ra cho ta... Vai Ngài, đỡ lấy quyền bính. Nhưng thật sự Isaia muốn nói đến
ngày Ngài lên Ngôi, mà các dân Ðông phương vẫn coi là ngày sinh ra một triều đại,
một vị vua mới. Và cũng chính trong ngày lên ngôi báu mà nhà Vua công bố tước
hiệu Ngài đã chọn. Ở đây, Isaia gán cho vị hoàng đế cứu tinh mọi danh xưng quý
hóa nhất đối với lòng người dân Chúa. Ngài là Mưu sư kỳ lạ, vì có khôn ngoan
siêu việt như Salômon; Ngài là Thần anh hùng vì có sức mạnh siêu phàm như
Ðavít; Ngài là Cha đời đời, như chính Thiên Chúa. Ngài là Vua bình an như Ðấng
Thiên Sai muôn dân trông đợi.
Chúng ta có thể tự hỏi: sao Isaia không nói thêm một danh xưng nữa cho đủ
năm danh xưng theo kiểu các Hoàng đế Ai Cập thời bấy giờ? Hay là ông muốn nhắc
chúng ta nhớ lại điều ông đã viết trước đây trong chương 7. Trẻ đã sinh ra cho
ta đó có tên là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Dù sao những điều
ông viết tiếp theo về vị hoàng đế cứu tinh có quyền bính bao la và bình an vô tận
trên ngai Ðavít, cũng như làm cho đất nước được kiên cố nhờ công minh đức nghĩa
đến muôn đời, làm chúng ta nghĩ rằng vị hoàng đế phải siêu phàm, gần như, nếu
không phải là giống như Thiên Chúa.
Như vậy, bài tiên tri Isaia hôm nay ít nhất đã loan báo cho chúng ta biết:
trẻ sinh ra cứu đời sẽ là một vị hoàng đế mới, đến chấm dứt chiến tranh đau khổ
và thiết lập thời đại hòa bình đức nghĩa. Chắc chắn chẳng một vị vua Do Thái
nào đã tỏ ra xứng đáng với lời tiên tri ấy. Và do đó, dân Cựu Ước đã đặt tất cả
hy vọng vào Ðấng Thiên Sai cứu thế sau này. Hôm nay, Hội Thánh chúng ta nói rằng
Ngài đã đến nơi hài nhi thành Bêlem. Có thể như vậy được không. Trẻ mới sinh được
bọc trong khăn đặt nằm nơi máng ăn của súc vật là hoàng đế cứu tinh ư? Bề ngoài
không thể như vậy, nhưng thật sự lại là thế. Ðó là điều mà bài Tin Mừng Luca
hôm nay muốn khẳng định với chúng ta. Chúng ta hãy tìm hiểu.
2. Ðấng Cứu Thế Ðã Ra Ðời
Bản văn được cấu tạo với hai phần rõ rệt. Phần đầu như mô tả một cách
chân thực việc sinh ra khó nghèo của hài nhi; còn phần sau nói đến vinh quang
cao cả của Ngài. Những ai quen đọc Thánh Kinh có thể thấy ngay đó cũng là một lối
trình bày mầu nhiệm Tử nạn và phục sinh. Và nhà thần học thâm thúy có thể nói rằng
tác giả Luca đã muốn diễn tả bản tính nhân loại và bản tính Thiên Chúa nơi hài
nhi vừa sinh.
Câu mở đầu rất ý nghĩa: "Trong những ngày ấy, Hoàng đế Augustô ra sắc
chỉ ban hành lệnh kiểm tra toàn thể thiên hạ". Dĩ nhiên Luca muốn tỏ ra
mình là một sử gia, viết chuyện có niên hiệu chắc chắn. Nhưng không phải vô cớ
mà ông đã không viết đích danh Hoàng đế là Octavô, mà chỉ ghi tước hiệu của
Ngài là Augustô, một danh xưng xực mùi tự phụ coi mình là thiên tử. Luca muốn
nói rằng bấy giờ thiên hạ chỉ biết Hoàng đế là nhất, không còn ai trên Ngài nữa.
Ngài đang ra lệnh cho toàn thể thiên hạ. Luca quá biết, đế quốc La Mã cho dù rất
lớn vẫn không phải là cả thiên hạ. Và lệnh kiểm tra cũng chỉ hạn chế trong một
số tỉnh nào thôi. Nhưng Luca muốn cho chúng ta một ấn tượng: thế giới bấy giờ
đang ở dưới quyền một người. Quyền bính của ông thật lớn, đến nỗi ông tưởng
mình là Augustô (thiên hoàng). Và như vậy hài nhi sắp sinh sẽ là gì ở trong thế
giới và ở trước mặt vị hoàng đế ấy?
Trẻ mới sinh chẳng là gì cả, chúng ta có thể nói được như vậy. Ðến như
cha mẹ hài nhi cũng thế. Giuse bấy giờ chỉ là người thuộc xứ Galilê ở Nazaret,
là những địa danh chỉ gợi lên lòng khinh bỉ của người Do Thái vì đó là những
nơi đầy dân ngoại khác hẳn với xứ Giuđê thành Giêrusalem là các trung tâm của
tôn giáo mạc khải. Còn ai biết Giuse là dòng họ Ðavit và có gốc gác ở Bêlem nữa?
Maira chỉ là một bà đang thai nghén trên đường về quê khai lý lịch. Hai người
đã không tìm được chỗ trọ trong quán; mà buổi lâm bồn của Maria thì đã đến. Họ
phải đưa nhau ra một hang súc vật ngoài đồng vắng. Và sinh con rồi, Maria bọc
trẻ đem đặt nơi máng ăn của súc vật, báo trước sau này lớn lên Ðức Giêsu sẽ chẳng
có nơi gối đầu.
Chúng ta chẳng cần đi thêm vào chi tiết. Rõ ràng hài nhi đã sinh ra rất
khó nghèo. Chưa ai đã sinh ra trong một hoàn cảnh như thế. Gioan Tẩy Giả vị tiền
hô của Chúa, đã ra đời trong cảnh "trướng rũ màn che" hạnh phúc hơn
nhiều. Ấy là chưa kể cái lịnh kiểm tra của Hoàng đế, diễn tả uy quyền của ông,
như đang đè xuống nơi máng cỏ nghèo hèn này.
Tuy nhiên trên nền ảnh mờ tối kia của cảnh hang đá máng cỏ, Luca cũng đã
điểm những chấm sáng không thể bỏ qua. Ðó là dòng máu Ðavit trong con người
Giuse; là tư cách "đính hôn" của Maria, tức là sự cưu mang đồng trinh
của Người; và là điểm Con đầu lòng nói về hài nhi. Luca quá biết hài nhi là Con
Một của Maria; nhưng từ ngữ "Con Một" đã có một công dụng khác trong
ngữ vựng Kitô giáo. Nó dùng để nói Chúa Giêsu là Con Một của Thiên Chúa. Ở đây
Luca dùng kiểu nói "Con đầu lòng" để làm âm vang truyền thống đạo đức
của Thánh Kinh, bởi vì nơi dân Do Thái, mọi con đầu lòng đều thuộc về Chúa để
nhớ ơn Người đã cứu con cái Israen khi các con đầu lòng của người Ai Cập bị sát
hại. Ðàng khác từ ngữ "Con đầu lòng" còn dùng để nói về toàn thể dân
Chúa là con đầu lòng giữa mọi dân nước mà Chúa đã dựng nên. Nó cũng gợi đến mầu
nhiệm phục sinh sau này vì Chúa sống lại là "trưởng tử" giữa các vong
nhân.
Và như vậy trong cuộc đản sinh khó nghèo nơi máng cỏ, đã có những điểm
sáng lớn chờ ngày rực lên át hẳn vẻ huy hoàng của thế gian, biểu hiện nơi uy
quyền của hoàng đế Augustô trong câu chuyện này.
Tác giả Luca hôm nay muốn báo trước thời đại rực rỡ của Hài nhi trong phần
sau của bài tường thuật. Thiên Thần Chúa bỗng đã hiện đến bên đám mục đồng đang
canh giữ chiên lúc đêm khuya. Lập tức họ được bọc trong ánh sáng của vinh quang
Chúa. Sự cao cả của Người đã "chụp" lấy họ khiến họ hãi hùng, không
phải sự hãi hùng làm họ có thể chết đi, nhưng là sự hãi hùng kéo họ ra khỏi nếp
sống tầm thường và đưa họ lên thế giới siêu việt. Thế nên họ đã được trấn an tức
khắc: "Ðừng sợ, này ta đem tin vui cho các ngươi về một niềm vui to lớn, tức
là niềm vui cho toàn dân..." Trong ngôn ngữ của Thánh Kinh, những lời này
chỉ được dùng để loan báo ơn cứu độ.
Quả vậy, niềm vui cho toàn dân chỉ có thể là sự giải cứu mà các tiên tri
từng loan báo, là lời hứa mà bài sách Isaia trên kia chẳng hạn khẳng định rằng
sẽ thực hiện trong ngày Chúa viếng thăm dân Người. Hôm nay, niềm vui ấy đã đến
vì Cứu Chúa đã sinh ra. Ngài là Ðức Kitô Chúa. Ngài vừa sinh trong thành của
Ðavít.
Ðám mục đồng có hiểu được những lời ấy không? Hài nhi được giới thiệu
không những là Cứu thế và là Kitô, những danh xưng đã quen thuộc trong Cựu Ước;
nhưng còn là Chúa nữa. Danh xưng này phải đợi sau mầu nhiệm Phục sinh - Lên trời
- Hiện xuống mới gặp thấy nơi các tín hữu của Chúa Giêsu. Họ chúc tụng Ngài là
Kitô và là Chúa. Họ tuyên xưng Ðức Kitô bây giờ là Chúa ở bên hữu Thiên Chúa
Cha. Và với danh hiệu này, Ngài vượt trên hết mọi loài dưới đất và trên trời.
Tước hiệu Augustô bấy giờ còn có nghĩa gì nữa đâu!
Sự cao cả của Hài nhi là ở chỗ đó. Ngài là Chúa, tức là Thiên Chúa.
Thiên Thần đã công bố tước hiệu của Ngài ngay hôm nay khi Ngài sinh ra; chứ
không như Octavô phải đợi đến khi chinh phục được cả thiên hạ rồi lên ngôi
hoàng đế và bắt người ta phải xưng tụng mình là Augustô cũng có nghĩa là chúa.
Ông lạm quyền, vì ông cũng chỉ là phàm nhân. Ðang khi hài nhi thành Bêlem, tuy
quấn trong khăn, nằm nơi máng cỏ đã là Chúa từ bẩm sinh và từ bản tính. Tước hiệu
hoàng đế chỉ theo sau xa xa vậy, khi người ta hiểu theo nghĩa thông thường Ngài
thuộc dòng Ðavít.
Trái
lại, vì là Chúa và chia sẻ quyền Thiên hoàng của Chúa Cha, Ngài được các thiên
thần hợp đoàn đông đảo chúc tụng.
"Vinh
quang Thiên Chúa trên trời cao thẳm. Và dưới đất bình an cho kẻ Ngài
thương".
Ngài
đến ban bình an cho mọi người dưới đất để ứng nghiệm sách Isaia chúng ta đã
nghe đọc.
Như
vậy, bài Tin Mừng Luca nói lên niềm tin sâu xa của cả Hội Thánh khi đứng trước
hang đá máng cỏ. Bề ngoài mọi sự thật bình dị, khó nghèo và khổ sở nữa dưới sức
mạnh của thế gian; nhưng rõ ràng đây là trẻ thánh mà Isaia đã tiên báo sẽ đem
bình an đến cho mọi người. Các Tông đồ của Người không bao giờ phải sợ rao giảng
Mầu nhiệm Thập giá; vì cũng như Luca hôm nay đã thấy vinh quang cao cả của
Thiên Chúa đến ngay sau cảnh tượng đản sinh khó nghèo, thì sức mạnh của Chúa Phục
sinh sẽ tỏ hiện trong sứ điệp thập giá. Luca đã dùng chữ "hôm nay" để
nói rằng lúc này Chúa Cứu Thế còn đến với chúng ta và việc Giáng sinh của Ngài
hiện tại vẫn có sức mạnh cho những ai đón nhận Ngài.
Vậy,
làm thế nào để hằng ngày vẫn nhận được ơn Ngài giáng sinh? Có lẽ bài thư gởi
Titô có thể đem lại cho chúng ta một câu trả lời.
3.
Chúng Ta Phải Ngóng Ðợi Cuộc Hiển Linh Của Chúa
Thánh
Phaolô tác giả bài thơ đã quá biết: Ân sủng cứu độ của Thiên Chúa đã hiển linh
cho mọi người rồi trong cuộc đản sinh và trong cuộc đời của Ðức Giêsu Kitô.
Nhưng Người cũng biết rõ: Cuộc hiển linh ấy mới chỉ khởi sự. Nó còn phải đi tới
chỗ vinh quang lớn lao trong ngày Chúa trở lại. Bây giờ chúng ta mới biết Ðức
Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa đã sinh ra làm người và đã thí mình vì ta để cứu
chuộc ta khỏi mọi tội ác và tẩy rửa lấy cho mình một dân làm sở hữu là Hội
Thánh; nhưng chúng ta chưa được thấy Ngài trong vinh quang Chúa Cha. Thế nên
chúng ta phải ngóng đợi... Không phải một cách thụ động nhưng tích cực. Chúng ta
phải nhìn vào cuộc đời của Ðức Giêsu Kitô để có thái độ đẹp lòng Ngài lúc Ngài
lại đến. Thế mà Ngài đã dạy chúng ta từ bỏ lối sống vô đạo thất nghĩa với Thiên
Chúa và lối sống chạy theo các đam mê trần tục, để sống điềm đạm, công chính và
đạo đức nơi đời này. Do đó, chúng ta hãy biết chế ngự các đam mê để được điềm đạm;
sống bác ái để nên công chính và thi hành đạo đức để đẹp lòng Chúa. Có như vậy
chúng ta mới khỏi tội lỗi và được ở trong dân thánh sở hữu của Ngài để có ngày
nhận được hy vọng hồng phúc Ngài hứa ban là nhìn thấy vinh quang lớn lao của
Ngài mà ánh sáng đêm nay mới khởi sự...
Như
vậy, chiêm ngưỡng Chúa Giáng sinh hôm nay, chỉ là để nhìn thấy nếp sống và đường
lối của Người mà đi theo. Hơn nữa tham dự thánh lễ này là để rước Người vào
giáng sinh ở nơi tâm hồn và đời sống chúng ta, nhờ đó chúng ta sẽ biết sống như
Người. Và như thế để sau cuộc đời trần gian, bề ngoài có vẻ khó nghèo và khổ
đau nhưng có ơn Người làm sức mạnh, chúng ta sẽ đi tới ngày hiển linh, vinh
quang lớn lao của Người và của chúng ta. Bởi vì hôm nay Người đã giáng sinh là
để kết hợp với những ai đón nhận Người và đưa họ tới vinh quang cao cả của Người
đã có từ muôn thuở với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Lễ Giáng sinh hôm nay
vì thế chỉ là khởi đầu... Chúng ta hy vọng sẽ được cùng nhau đạt tới lễ rực rỡ
huy hoàng vô tận sau này.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 24 tháng 12 GS, Lễ Nửa Đêm
Bài đọc: Isa
9:1-3, 5-6; Tit 2:11-14; Lk 2:1-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Mừng Giáng Sinh là tình
yêu Thiên Chúa.
- Một cụ già 93 tuổi, được coi
là khá thành công trong cuộc đời: có nhiều của cải, con đàn cháu đống gần 100 đứa.
Về già, có nhiều thời gian nhìn lại và suy gẫm, cụ ngậm ngùi kết luận: Vất vả
ngược xuôi cả cuộc đời cũng chẳng đến đâu, có tí của ăn nhưng nhìn lại đàn con
đàn cháu thấy giật mình. Đứa thì gia đình tan nát, đứa thì bệnh họan, hầu hết
con cháu đều xa Chúa, cố gắng khuyên lơn bảo ban nhưng chúng nó không chịu
nghe. Nếu Chúa không thương đưa con cháu trở lại thì chết mất! Chẳng biết sau
này Chúa cho gặp được bao nhiêu người? May mắn cho cụ già đã nhìn ra bóng tối
đang vây bọc gia đình, nhưng làm sao để đưa các con cháu về lại với Thiên Chúa?
- Hòan cảnh của cụ già có lẽ
cũng là hòan cảnh của hầu hết gia đình chúng ta. Khi được may mắn định cư nơi các
cường quốc có nhiều cơ hội, chúng ta lăn xả vào đời để kiếm tiền sinh sống, mà
không bao giờ chịu cân nhắc những thiệt hại của lối sống tư bản này. Nhiều cha
mẹ đã không quản ngại hy sinh vất vả để cày 2,3 việc; với hy vọng cho con được
tiến thân trong việc học hành, với hy vọng sau khi đã hy sinh cho con sẽ được
chúng báo hiếu sau này, như mình đã từng thương yêu và báo hiếu cha mẹ. Sau hơn
30 năm vật lộn với cuộc sống nơi xứ lạ quê người, giờ có thời gian nhìn lại những
cố gắng của mình như cụ già, chắc nhiều người chúng ta cũng không khỏi giật
mình: gia đình có của nhưng con cái xa Chúa và xa mình vạn dặm. Con cái bác sĩ,
dược sĩ, nha sĩ, làm rất nhiều tiền nhưng chẳng bao giờ nghĩ đến việc phải báo
hiếu cha mẹ; dạy dỗ khuyên răn chúng khó chịu và chỉ để ngòai tai. Chúng ta
cũng chép miệng thở than như cụ già: Hy sinh vất vả cả đời để giờ phải chấp nhận
một thực tại chúng ta không ao ước!
- Câu hỏi được đặt ra: Chúng ta
đã làm điều gì sai? Làm thế nào để cứu chúng ta và con cháu ra khỏi vùng bóng tối
sự chết này?
- Câu trả lời: Chúng ta đã không
đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự. Chúng ta coi trọng tiền của nên đã dùng quá nhiều
thời giờ vào việc kiếm tiền, mà quên đi Lời Chúa báo trước: “Các con không thể
làm tôi cả Thiên Chúa lẫn tiền tài.” Chúng ta đã xao lãng trong việc trau dồi đời
sống tâm linh mà chỉ chú trọng đến thức ăn của uống, mà quên đi Lời Chúa báo
trước: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn bởi mọi Lời do miệng
Thiên Chúa phán ra.” Chúng ta đã chạy theo và thờ lạy những hào nhóang thế gian
như danh vọng, quyền bính, khóai lạc; mà quên đi Lời Chúa sửa dạy ma quỉ:
“Ngươi phải thờ phượng Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa thờ phượng ngươi.”
Nói tóm, chúng ta đã không sống theo những gì Thiên Chúa muốn, nhưng sống hệt
theo lối sống của ma quỉ đã cám dỗ Thiên Chúa. Nếu chính chúng ta không sống những
gì Chúa dạy, làm sao chúng ta mong các con chúng ta biết sống? Nếu chúng ta đã
không dạy cho con biết kính sợ Thiên Chúa, và gia đình đã không sống theo đường
lối của Thiên Chúa; chúng sẽ sống theo kiểu của xã hội hiện nay: ích kỷ chỉ biết
tới mình, tôn thờ vật chất, sống buông thả như không có ngày mai.
- Tin Mừng Giáng Sinh: Những Bài
đọc đêm nay cung cấp cho chúng ta những tia sáng hy vọng. Trong Bài đọc I:
Tiên-tri Isaiah tường thuật những lợi ích khi con người có được Đấng Cứu Thế:
Ngài như ánh sáng soi cho con người đang sống trong vùng bóng tối của sự chết.
Ngài giúp giải thóat con người khỏi làm nô lệ cho tội lỗi. Ngài ban cho con người
khôn ngoan, sức mạnh, thương yêu, và bình an. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô dạy
Titô, môn đệ của ngài: Ân sủng Cứu Độ dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân
và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian
này. Chúa Giêsu đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất
chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân Riêng của Người, một
dân hăng say làm việc thiện. Trong Phúc Âm, Tin Mừng Giáng Sinh được loan báo
cho con người: Con Thiên Chúa đã giáng sinh làm người trong hang đá khó nghèo.
Chỉ có Mục đồng là những người đầu tiên được sứ Thần loan báo và nhận ra Tin Mừng
Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ơn Cứu Độ được thực hiện qua Người Con.
1.1/ Sự khác biệt khi Đấng Cứu Thế
đến: Ngay trong tuần thứ I Mùa Vọng,
Giáo Hội đã mời gọi chúng ta suy xét để nhận ra sự khác biệt giữa người có và
không có Thiên Chúa. Tiên-tri Isaiah hôm nay cũng mời gọi chúng ta suy xét để
nhận ra tình trạng của mình và sự cần thiết của Đấng Cứu Thế trong cuộc đời mỗi
người, qua 2 hình ảnh:
(1) Ánh sáng và bóng tối: “Dân
đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong
vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” Tình trạng của dân
Do-Thái thời Tiên-tri và tình trạng của con người trước khi Đấng Cứu Thế đến là
hòan tòan bi quan và tăm tối. Hai vương quốc của Do-Thái sắp sửa bị quân thù
Assyria và Babylon xâm chiếm và đem đi lưu đày. Con người bị bao quanh bởi bóng
tối của sự không biết Thiên Chúa, không biết suy xét, và bao nhiêu tội lỗi lan
tràn. Hậu quả tai hại nhất của việc sống trong bóng tối là con người chắc chắn
sẽ phải chết.
Nhưng may mắn cho dân tộc
Do-Thái và cho con người, Thiên Chúa đã ban cho họ một ánh sáng, Người Con của
Ngài. Ánh sáng này sẽ làm cho con người được thấy, được thấu hiểu những Mầu Nhiệm
của Thiên Chúa, và nhất là mang lại Ơn Cứu Độ cho con người, cho họ được sống đời
đời.
(2) Vui mừng và đau khổ: Hình
ảnh thứ hai Tiên-tri dùng là liên kết ánh sáng với vui mừng và bóng tối với đau
khổ: “Vì Chúa đã gia tăng các quốc gia, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui
trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt hái, như người ta hỷ hoan
khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ,
và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân
Median.”
Chúng ta có thể hiểu nỗi đau khổ
của dân Do-Thái trong nơi lưu đày: mất quê hương, gia đình tan nát, Đền Thờ và
sự hiện diện của Thiên Chúa không còn, cuộc sống thiếu thốn và khổ cực, bị đối
xử tàn bạo bởi kẻ thù. Tất cả những đau khổ này sẽ được Thiên Chúa cất hết khi
Ngài cho họ được trở về quê hương để tái thiết quốc gia và Đền Thờ. Tất cả những
điều này là do Thiên Chúa làm, chứ không do sức lực của con người. Tiên-tri nhắc
nhở cho dân nhớ lại chiến thắng tại Median, Thiên Chúa muốn Thủ-lãnh Gideon đuổi
quân lính về hết, kẻo họ nghĩ rằng sở dĩ có chiến thắng là do sức mạnh của họ.
Thiên Chúa gia tăng các quốc gia
và nỗi vui mừng bằng cách loan Tin Mừng cho Dân Ngọai và cho họ cũng được hưởng
Ơn Cứu Độ. Cả dân Do-Thái cũng như Dân Ngọai không làm gì xứng đáng để được hưởng
Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội. Sở dĩ tất cả đều được hưởng Ơn Cứu Độ là
hòan tòan do Thiên Chúa.
1.2/ Con người Đấng Cứu Thế: “Vì một trẻ thơ đã được sinh ra cho chúng ta, một Người
Con đã được ban tặng cho ta. Người đã lãnh nhận quyền cai trị (arché) trên vai,
tên của Người sẽ được gọi là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa uy quyền, Người Cha
muôn thuở, Hòang Tử hoà bình.” Tên là người; những danh hiệu này cần được hiểu
thấu đáo để chúng ta ước mong có được Người Con này trong cuộc đời:
(1) Cố Vấn kỳ diệu: Người cố
vấn phải là người khôn ngoan, có khả năng nhìn thấy những gì người khác không
nhìn thấy. Người Con này là người Cố Vấn kỳ diệu cho con người, vì Ngài là
Thiên Chúa khôn ngoan: cố vấn cho mọi người và chẳng cần ai làm cố vấn cho Người.
Nếu có người cố vấn như vậy trong cuộc đời, chúng ta sẽ không khiếp sợ ai nữa.
(2) Thiên Chúa uy quyền: Tuy
dáng vẻ là con người yếu đuối, nhưng ẩn chứa quyền năng vô biên của Thiên Chúa.
Người Con này làm được mọi sự, và không có gì là không thể đối với Ngài. Nếu
chúng ta có Ngài trong đời, Ngài sẽ giúp chúng ta làm được mọi sự.
(3) Người Cha muôn thuở: Bản
tính của người cha là yêu thương, dạy dỗ, và săn sóc cho con cái. Người Con này
là Thiên Chúa, Người Cha muôn thuở của con người. Bằng việc nhập thể, chính
Ngài vẫn tiếp tục yêu thương, dạy dỗ, và săn sóc từng người. Trong Cựu Ước,
Thiên Chúa dùng các tiên tri để dạy dỗ; trong Tân Ước, chính Thiên Chúa dạy dỗ
con người.
(4) Hòang Tử bình an: Để có
bình an, người lãnh đạo phải yêu mến bình an, và phải có khả năng đem lại bình
an. Người Con này có khả năng hòa giải giữa con người với con người, và giữa
con người với Thiên Chúa. Chỉ khi nào con người có được Hòang Tử bình an này,
con người mới thực sự có bình an.
1.3/ Triều đại của Đấng Cứu Thế: “Quyền cai trị của Ngài sẽ gia tăng, và hoà bình sẽ vô tận
cho ngai vàng và vương quốc của vua David. Người sẽ làm cho vương quốc được
kiên cố vững bền trên nền tảng công bình và chính trực, từ nay cho đến mãi muôn
đời. Lòng nhiệt thành của Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó.”
- Trong khi các vua chúa trần
gian gia tăng quyền cai trị của họ bằng chiến tranh; Người Con gia tăng vương
quốc của mình bằng hòa bình. Điều này, chúng ta có thể thấy được qua sự phát
triển của Giáo-hội: con số những người tin vào Đức Kitô mỗi ngày một gia tăng,
không bằng chiến tranh, nhưng bằng sự rao giảng Tin Mừng và sự làm việc bên trong
của Chúa Thánh Thần. Vua chúa trần gian càng bách hại Đạo, số tín hữu càng gia
tăng. Nước Thiên Chúa không còn giới hạn trong dân tộc Do-Thái, nhưng được lan
rộng ra tới mọi dân tộc trên địa cầu.
- Tiên-tri Isaiah liên kết giữa
triều đại của David và của Người Con. Như lời Thiên Chúa hứa qua các Tổ-phụ và
các Tiên-tri, triều đại của Nhà David sẽ tồn tại muôn đời. Điều này chỉ thực hiện
được qua Người Con thuộc giòng dõi David, Ngài sẽ làm cho triều đại David được
tồn tại đến muôn đời.
- Trong khi các vua chúa trần
gian củng cố vương quốc của mình bằng đàn áp và bạo lực, Người Con củng cố
vương quốc bằng công bình và chính trực. Đàn áp và bạo lực chỉ có thể giữ dân
chúng một thời gian; công bình và chính trực sẽ thu hút lòng dân đến muôn đời
(Lk 1:32-33).
- Tác nhân chính của sự gia tăng
là Thiên Chúa và lòng nhiệt thành yêu thương của Ngài, chứ không do đức độ, tài
năng, hay sức mạnh của con người. Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã ban Người
Con này cho con người (Jn 3:16); và trong Người Con này, mọi lời hứa được thực
hiện.
2/ Bài đọc II: Ơn Cứu Độ thay đổi đời sống luân lý của các Kitô
hữu
2.1/ Ơn Cứu Độ giúp con người biết
sống: Con người làm bất cứ một việc gì
đều có một mục đích. Khi các Kitô hữu biết rõ ràng mục đích của cuộc đời là
“trông chờ ngày hồng phúc, ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện
vinh quang;” họ sẽ phải biết chuẩn bị xứng đáng cho ngày đó. Thánh Phaolô
khuyên các Kitô hữu: (1) Cách tiêu cực: Họ phải từ bỏ lối sống thế gian và những
đam mê trần tục; vì lối sống này ngăn cản không cho họ đạt tới mục đích của cuộc
đời. (2) Cách tích cực: Họ phải biết sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở
thế gian này. Những nhân đức này sẽ giúp họ đạt được mục đích của cuộc đời.
2.2/ Ơn Cứu Độ giải thóat con người:
Bằng Mầu Nhiệm Nhập Thể, Đức Kitô giải thóat
con người: (1) cách tiêu cực: khỏi mọi điều bất chính (tội lỗi); cách tích
cực: biến họ thành người hăng say làm việc thiện. Chính sự tích cực này làm con
người xứng đáng thành Dân Riêng của Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng
ta.
3.1/ Hòan cảnh sinh ra của Đấng Cứu
Thế: Không giống như các biến cố khác của
cuộc đời Chúa Cứu Thế, biến cố sinh ra chỉ được tường thuật bởi Thánh sử Luca
cách vắn tắt như sau: “Thời ấy, Hoàng-đế Augusto ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra
dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời
ông Quirinô làm tổng trấn xứ Syria. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên
tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nazareth, miền Galilee lên thành vua David tức
là Bethlehem, miền Judah, vì ông thuộc giòng tộc vua David. Ông lên đó khai tên
cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai
người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai
đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được
chỗ trong nhà trọ.”
Khỏang cách từ Nazareth đến
Bethlehem là 80 dặm, và phương tiện di chuyển duy nhất thời đó là đi bộ hay
dùng các thú vật như bò lừa. Bethlehem rất lạnh vào mùa Đông vì là một cánh đồng
chỉ cách Jerusalem vài dặm và có rất nhiều các hang đá ẩn sâu trong lòng đất, vẫn
còn tồn tại tới hôm nay. Các hang đá này là chỗ lý tưởng cho các người chăn
chiên vì họ có thể giữ chiên trong đó an tòan và tránh lạnh mà không cần chuồng.
3.2/ Thiên Thần loan Tin Mừng trọng
đại cho các mục-đồng.
Mục-đồng (Bedouins) vẫn còn tồn
tại ở Do-Thái cho tới ngày nay. Họ không thích lối sống thành phố hay cố định ở
một chỗ; nhưng thích lang thang khắp đó đây theo đòan vật, chỗ nào có cỏ và nước
cho súc vật họ sẽ định cư tại đó. Họ bị các người Do-Thái khác khinh thường vì
bẩn thỉu và không thể giữ các nghi thức thanh tẩy trước khi ăn.
Tại sao các mục đồng được diễm
phúc là những người đầu tiên biết Tin Mừng Giáng Sinh của Hài Nhi Cứu Độ? Để trả
lời, chúng ta cần hỏi câu hỏi ngược lại: Ai là người sẽ dễ đón nhận Tin Mừng
Giáng Sinh nhất trong hòan cảnh này?
Mối Phúc thứ nhất: “Phúc
cho những ai nghèo khó vì Nước Trời là của họ” sẽ giúp chúng ta trả lời. Thiên
Chúa chọn cho con mình giáng sinh trong hòan cảnh nghèo khó, chứ không trong
dinh thự giàu sang. Người muốn con mình cảm nhận thân phận cùng cực của kiếp
người. Vì sinh ra trong hòan cảnh nghèo hèn như thế, chỉ có những người nghèo
như các mục-đồng mới có thể nhận ra và cảm thông, vì Con Trẻ cùng một hòan cảnh
như họ. Hơn nữa, người nghèo khổ là người biết trông cậy vào Thiên Chúa, chứ
không cậy vào sức của họ; vì thế, dễ cho họ đón nhận Tin Mừng Giáng Sinh hơn. Lời
ca của muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa
thương" cũng củng cố cách cắt nghĩa này. Thiên Chúa đóai thương và nhìn đến
kẻ khó nghèo.
Tin Mừng Giáng Sinh được Sứ thần
loan báo cho các mục-đồng: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin
mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh
ra cho anh em trong thành vua David, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu
này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng
cỏ."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa đã quá yêu thương
nhân lọai. Chúng ta phải cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa qua Mầu Nhiệm Nhập
Thể. Mục đích của Mầu Nhiệm Nhập Thể là để gánh tội lỗi và mang Ơn Cứu Độ cho
con người. Không có Mầu Nhiệm Nhập Thể, con người sẽ chết trong tội.
- Món quà Giáng Sinh quí giá nhất
Thiên Chúa ban cho chúng ta là chính Chúa Giêsu; qua Người Con này, chúng ta sẽ
không thiếu bất cứ ân huệ cần thiết nào của cuộc sống. Chúng ta phải đáp trả lại
tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm sao cho có và giữ được Chúa Giêsu trong cuộc
đời.
- Ơn Cứu Độ phải trở thành đích
điểm cho cuộc sống. Chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục,
mà sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế gian này.
- Thiên Chúa là Chủ Tể của vũ trụ,
mà lại chọn sinh ra trong cảnh khó nghèo để dạy chúng ta một bài học: Sống đơn
giản và nghèo khó làm chúng ta dễ dàng trông cậy vào Thiên Chúa và nhận ra những
nhu cầu của tha nhân hơn.
- Mong sao cho Tin Mừng Giáng
Sinh hôm nay giải thóat các gia đình chúng ta ra khỏi vùng bóng tối sự chết, và
đưa chúng ta vào miền ánh sáng, bình an, và hoan lạc.
Linh mục Anthony Đinh Minh
Tiên OP
24/12/12 THỨ HAI TUẦN 4 MV
Vọng Lễ Chúa Giáng Sinh
Lc 2,1-14
Vọng Lễ Chúa Giáng Sinh
Lc 2,1-14
BẤT NGỜ VƯỢT MỌI BẤT NGỜ
"Anh em đừng sợ.
Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân :
Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em. Anh em cứ dấu này mà nhận biết
Người : Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ."(Lc 2,10-12)
Suy niệm: Cố thi sĩ Bàng Bá Lân
trước khi trở thành kitô hữu, đã diễn tả tâm tình của mình trong đêm Giáng
Sinh qua mấy vần thơ :
“Tôi không phải là người
công giáo,
Thiếu niềm tin, không quỳ lạy
cầu kinh.
Nhưng đêm nay lòng cảm thấy
lung linh,
Và xao xuyến như tín đồ xao
xuyến”
Lung linh, xao xuyến không phải
vì những cảnh xa hoa tráng lệ của ngày lễ No-en. Lung linh, xao xuyến vì một
điều siêu bất ngờ và vượt quá mọi bất ngờ. Thiên Chúa cao sang làm người phàm
hèn mọn! Đấng Cứu Độ đến thiết lập một triều đại công lý và hòa bình, thế
nhưng, dấu chỉ để nhan ra Ngài thì thật mong manh: “một hài nhi bọc
tã, nằm trong máng cỏ,” Ngôi Lời Thiên Chúa nằm trong máng dành cho
súc vật!
Mời Bạn: Hãy tự hỏi vì ai mà Chúa
chịu nông nỗi này? Vì ai Thiên Chúa chấp nhận bị thương tổn, bị quấy rầy, hạ
mình sát đất đen. Vì ai nếu không phải vì bạn, vì chúng ta?
Sống Lời Chúa: Trong ngày trọng đại mừng
Con Thiên Chúa làm người, bạn hãy quyết sống vui vẻ với mọi người, tặng nụ cười
cho tất cả những người bạn gặp gỡ, tiếp xúc. Đó cũng là món quà mọn bạn dâng
lên Chúa Hài Nhi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã hạ mình làm
người ở với chúng con, để cho chúng con sống hạnh phúc nơi Chúa. Xin biến
lòng chúng con thành chiếc nôi đón nhận Chúa, biến miệng lưỡi, bàn tay thành
máng cỏ đón nhận Mình Thánh Chúa.
|
www.5phutloichua.net
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét