Trang

Thứ Ba, 15 tháng 9, 2020

16-09-2020 ; THỨ TƯ - TUẦN XXIV THƯỜNG NIÊN - THÁNH CORNÊLIÔ, GIÁO HOÀNG VÀ THÁNH CYPRIANÔ, GIÁM MỤC, TỬ ĐẠO - Lễ Nhớ

 

16/09/2020

 Thứ Tư tuần 24 thường niên.

 Thánh Cornêliô, giáo hoàng, và thánh Cyprianô, giám mục, tử đạo.

 Lễ nhớ

 


 

* Thánh Cornêliô làm giám mục giáo phận Rôma năm 251. Người đã chống lại giáo phái Novaxianô. Chưa được bao lâu, người bị hoàng đế Ganlô bắt đi đầy ở Xivitavéckia và đã qua đời ở đây (253). Người đã được thánh Síprianô kính trọng và quý mến. Chính vì thế, ngay từ thế kỷ IV, Hội Thánh Rôma đã mừng lễ thánh Conêliô trong chính hang mộ của người vào ngày lễ thánh Síprianô.

Thánh Xíprianô sinh tại Cácthagô quãng năm 210, trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận đức tin, làm linh mục, rồi làm giám mục năm 249. Trong cuộc bách hại dưới thời hoàng đế Valêrianô, người bị lưu đày, rồi ngày 14 tháng 9 năm 258, người chịu chết để làm chứng cho Chúa Kitô. Các thư từ và các tác phẩm của người viết ra cho thấy người có tâm hồn của một vị mục tử đích thực, luôn đứng ở chỗ nguy hiểm nhất để nâng đỡ các anh em đang phải chịu bách hại và để duy trì sự hiệp nhất trong Hội Thánh. Trong mọi việc, người lo nêu gương sáng về lòng trung thành với Chúa Giêsu Kitô.

 

BÀI ĐỌC I: 1 Cr 12, 31 – 13, 13

“Đức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khoa học; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát hết gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi.

Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý. Bác ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.

Bác ái không khi nào qua đi, ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ, tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả. Đó là lời Chúa.

 

ĐÁP CA: Tv 32, 2-3. 4-5. 12 và 22

Đáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).

Xướng:

1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran. – Đáp.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. – Đáp.

3) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài. – Đáp.

 

ALLELUIA: Tv 147, 12a và 15a

Alleluia, alleluia! – Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Đấng đã sai lời Người xuống cõi trần ai. – Alleluia. 

 

PHÚC ÂM: Lc 7, 31-35

“Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng:

‘Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa.

‘Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc’.

Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: ‘Người bị quỷ ám’. Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: ‘Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi’. Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình”. Đó là lời Chúa.

 


SUY NIỆM : Thái Ðộ Thiếu Nhất Quán

Ngày nay, nhân danh dân chủ, tự do ngôn luận, nhiều người muốn có một Giáo Hội của mình, một Giáo Hội được định đoạt theo những suy nghĩ của mình, chứ không là giáo lý do Chúa mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội nữa. Muốn là Kitô hữu, nhưng lại không muốn chấp nhận giáo huấn của Chúa Kitô được ủy thác cho Giáo Hội, đó là một thái độ thiếu nhất quán. Chúng ta có thể thấy được một thái độ như thế trong bài Tin Mừng hôm nay.

Chúa Giêsu mượn hình ảnh nhóm trẻ chơi ngoài phố chợ để nói lên thái độ ấy. Chấp nhận cuộc chơi, nhưng khi tiếng sáo thổi lên thì lại không nhảy múa; chấp nhận diễn kịch, nhưng khi bài hát đưa đám được cất lên thì lại không khóc theo. Những người Do thái thời Chúa Giêsu cũng có phản ứng đối với Ngài không khác nào đám trẻ chơi ngoài phố chợ này. Họ mong chờ Ðấng Cứu Thế, Gioan Tẩy Giả loan báo về Ngài, nhưng họ không chấp nhận nếp sống khổ hạnh của ông, họ bảo ông bị quỉ ám; Chúa Giêsu khai mạc thời cứu thế bằng yêu thương, phục vụ, tha thứ, thì họ lại bảo rằng Ngài là tên ăn nhậu, hòa nhập với phường thu thuế và tội lỗi.

Mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng không chấp nhận những thể hiện của thời cứu thế; trông đợi Ðấng Cứu Tinh, nhưng phải là Vị Cứu Tinh do mình tạo ra, đó là thái độ của những người Do thái thời Chúa Giêsu. Thái độ ấy cũng là cơn cám dỗ triền miên của các Kitô hữu thời đại chúng ta. Chúa Giêsu đã nói: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta". Chúng ta mang danh hiệu Kitô, chúng ta muốn làm môn đệ Ngài, nhưng có lẽ chúng ta chưa từ bỏ chính mình để chấp nhận và sống theo giáo huấn của Ngài.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mặc lấy sự khôn ngoan của con cái Chúa, đó là sự khôn ngoan của trẻ thơ luôn biết sống khiêm tốn và tin tưởng. Xin Ngài củng cố chúng ta trong tâm tình ấy, để chúng ta luôn được trung thành với giáo huấn mà Ngài đã ủy thác cho Giáo Hội.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

 


Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Tư Tuần 24 TN2

Bài đọcI Cor 12:31-13:13; Lk 7:31-35.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự quan trọng của đức mến.

Tình yêu là một đề tài vô tận của các văn sĩ, thi sĩ. Các tuyệt tác có được là nhờ những cảm hứng đến từ nguồn tình yêu của Thiên Chúa, tổ quốc, cha mẹ, anh chị em, và tha nhân. Chương 13 trong Thư thánh Phaolô gởi cho các tín hữu Corintô là một chương phân tích tuyệt vời về tình yêu. Ngược lại, khi con người không có tình yêu, tất cả sẽ trở nên vô nghĩa và ngay cả trở thành hỏa ngục như triết gia hiện sinh J.P. Sartre nhân định: “Con người là hỏa ngục cho nhau.” Một tìm hiểu chi tiết về các Bài đọc hôm nay sẽ giúp chúng ta nhận ra giá trị quan trọng của tình yêu và mong muốn tập luyện để có được tình yêu. Khi có được tình yêu, chúng ta sẽ dễ dàng tránh khỏi những tật xấu như các Biệt-phái và Kinh-sư mà Chúa Giêsu trách hôm nay.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Đức mến thì cao trọng hơn cả.

1.1/ Sự quan trọng của đức mến: Biết con người có khuynh hướng tìm những gì cao trọng nhất, thánh Phaolô khuyên: “Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.” Con đường này là con đường yêu mến mà thánh Thêrêxa Hài Đồng cũng xác nhận: “Ơn gọi của con là Yêu.” Có nhiều nghĩa của chữ “yêu,” nhưng thánh Phaolô dùng chữ “đức mến” để nói lên tình yêu trong khuôn khổ của Kitô Giáo. Ngài so sánh sự quan trọng của “đức mến” với một số ơn cao trọng khác:

– Với ơn nói tiếng lạ: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì” Biết các thứ tiếng là một chuyện nhưng biết dùng những thứ tiếng đó để mưu ích cho tha nhân là chuyện khác. Nếu không biết dùng ơn nói tiếng lạ thì có khác gì chiếc “thùng rỗng kêu to” hay nói như thánh Phaolô: “thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng.”

– Với ơn nói tiên tri, ơn hiểu biết, và ơn đức tin: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.” Tiên tri là nói thay cho Chúa để hướng dẫn và đem con người về với Chúa. Có những tiên tri ghét người đến độ không muốn kẻ thù trở về để được cứu (trường hợp của tiên tri Jonah). Điều nguy hiểm thường thấy nơi những người học cao hiểu rộng là tính tự kiêu, cho mình là hơn người và khinh thường tất cả những người khác. Rất nhiều người hiểu biết đã từ chối Thiên Chúa! Người có một đức tin mạnh cũng thế, họ nghĩ ai cũng phải có một đức tin mạnh như họ và bắt mọi người cũng phải làm những việc như họ làm; nhưng họ quên để có một đức tin như thế, họ đã phải dùng nhiều thời gian và trải qua biết bao sa ngã!

– Với những việc bác ái và anh hùng: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” Việc tốt lành thôi cũng chưa đủ, cần có những ý hướng tốt lành nữa. Có những người đem cho hết gia tài chỉ để mua danh tiếng, chứ không cho vì thương người. Có những người tìm tử đạo để giải thóat cuộc đời đau khổ của mình chứ không để làm chứng nhân cho Chúa.

1.2/ Định nghĩa về đức mến:

– Đức mến thì nhẫn nhục và nhân hậu: Tiếng Hy-Lạp có hai phân từ dùng cho kiên nhẫn: kiên nhẫn đợi cơ may tới và kiên nhẫn với con người. Phân từ kiên nhẫn (makrothumein) xử dụng bởi các thánh ký trong Tân-Ước luôn hàm chứa sự kiên nhẫn với con người. Thánh John Chrysostom cắt nghĩa: Phân từ này được dùng cho người bị đối xử cách sai trái; tuy ông có quyền và có cơ hội để trả thù nhưng đã không làm. Trái lại, ông muốn tự người đó nhận ra sự sai trái của họ bằng những việc tốt lành ông làm cho họ.

Chúa Giêsu cũng đã từng dạy các môn đệ hãy có sự kiên nhẫn này qua việc yêu thương và làm ơn cho kẻ thù, cầu nguyện cho những người bắt bớ… để có thể trở nên hòan thiện như Cha trên trời. Kiên nhẫn như thế không phải là yếu đuối nhưng là sức mạnh, không phải là thua cuộc nhưng là cách tốt nhất để chinh phục kẻ thù. Lịch sử có nhiều người đã dùng cách thức này và không ai dùng cách hiệu quả hơn Chúa Giêsu trên Thập Giá. Nhiều người Công Giáo có đức tin vững mạnh và cuộc đời liêm chính nhưng chưa đủ để chinh phục người khác về cho Chúa vì thiếu tính thương người. Họ dễ dàng đứng về phía kẻ mạnh để áp bức người cô thân cô thế.

– Đức mến không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc: Người đời thường nói: “Chỉ có hai hạng người trên thế gian: triệu phú và muốn thành triệu phú.” Có hai lọai ghen tương: vì ham muốn tài sản của người khác và vì muốn họ phải mất những gì họ đang có. Lọai ghen tương thứ nhất có thể hiểu vì là tính con người. Lọai ghen tương thứ hai là do bởi sự xui dục của ma quỉ: muốn tha nhân phải chịu đau khổ để mình được thỏa mãn. Ví dụ: một học sinh muốn được điểm A như những học sinh giỏi là điều thông thường; nhưng lại muốn khi mình được điểm A thì các học sinh khác phải không được A như mình! Có những người khi có những gì người khác không có hay được quyền cao chức trọng thì kiêu hãnh tự đắc, coi mình như cái rốn của vũ trụ. Họ khoe khoang để mọi người được biết, bắt người khác phải quỵ lụy mình, và khinh thường tha nhân. Các Kinh-sư và Biệt-phái trong Phúc Âm là những tiêu biểu cho mẫu người này.

– Đức mến không cư xử bất xứng (làm điều bất chính), không tìm tư lợi: Trong tiếng Hy-Lạp, từ cư xử bất xứng (avschmone,w) có hai nghĩa: (1) một hành động ngược lại với những tiêu chuẩn luân lý như lối sống vô luân (1 Cor 7:36); (2) một hành động ngược lại với những tiêu chuẩn xã hội như cách cư xử vô lễ, bất lịch sự, hay không đúng phép xã giao (1 Cor 13:5). Ở đây, thánh Phaolô có lẽ nhấn mạnh vào nghĩa thứ hai hơn. Nhiều người cũng nhận xét có hai lọai người trên thế gian: một lọai chỉ tìm lợi lộc cá nhân, luôn đòi được hưởng đặc quyền và một lọai chỉ để ý đến bổn phận phải đóng góp để tiếp tục phát triển. Để xây dựng xã quốc gia, có người đã đề nghị: Đừng đòi hỏi quốc gia phải làm gì cho bạn, nhưng hãy tự hỏi bạn có thể làm gì để xây dựng quốc gia. Cũng thế, để xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, chúng ta đừng đòi hỏi Giáo Hội phải làm gì cho mình, nhưng hãy tự hỏi mình có thể làm gì để xây dựng Giáo Hội.

– Đức mến không nóng giận, không nuôi hận thù: Nóng giận là không làm chủ được con người mình, là thiếu kiên nhẫn. Nóng giận có thể vi phạm trầm trọng đức mến trong lời nói cũng như trong hành động. Bác ái thì xây dựng trong khi nóng giận có thể phá hủy tất cả những gì mà mình và người khác đã xây dựng lâu năm. Động từ “nuôi” trong tiếng Hy-Lạp là động từ dùng trong lãnh vực kế tóan (logizeshthai): phải vào sổ sách tất cả để đừng quên sót. Một trong những nghệ thuật sống là học để quên, nhưng nhiều người luôn nhớ rành mạch tất cả những gì xấu người khác đã đối xử với mình. Có những cha mẹ khi đánh con là đánh và kể luôn tất cả mọi tội con đã phạm từ khi bắt đầu bị đánh tới giờ! Nhớ tất cả các tội của người khác là cách hiệu quả nhất để giết chính mình và giết tha nhân.

– Đức mến không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật: Nhiều người lại có khuynh hướng ngược lại: mừng khi thấy điều dữ xảy ra cho người mình không thích và không vui khi thấy họ được mọi sự lành bằng an. Khi đọc, nghe, hay xem tin tức trên các phương tiện truyền thông, nếu không thấy những điều dữ xảy ra là kết luận tin tức hôm nay chẳng có gì đặc biệt cả. Các con buôn muốn bão cấp 2 sẽ trở thành bão cấp 5 để có thể kiếm lời bằng cách tăng giá những gì dân chúng cần, vì họ biết bão sẽ chẳng làm thiệt hại gì đến họ.

– Đức mến che chở tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, và chịu đựng tất cả: Động từ “che chở” được dịch từ tiếng Hy-Lạp “ste,gw” đến từ danh từ “ste,gh” có nghĩa là mái nhà. Động từ được dùng cho việc lợp mái nhà để giữ những người trong nhà khỏi mưa nắng. Có lẽ thánh Phaolô muốn dùng từ này ở đây để nói lên rằng một khi có đức mến, con người có thể tìm mọi cách để che chở khuyết điểm của tha nhân, không để tội lỗi họ bị phơi bày ra cho người khác thấy. Tin tưởng tất cả có hai chiều kích: Trước tiên, tin tưởng nơi Thiên Chúa là Đấng có thể làm được mọi sự. Sau đó, tin tưởng nơi tha nhân có khuynh hướng tôn trọng Sự Thật, yêu những gì tốt lành, và quí mến mọi sự tốt đẹp. Với niềm tin như thế, con người có quyền hy vọng những gì họ mong đợi sẽ đến và sẽ không ngần ngại kiên trì hy sinh chịu đựng đau khổ để tha nhân được sống. Như những nhà nông, người có đức mến sẽ làm tất cả những gì họ có thể làm được, chịu dầm mưa giãi nắng; sau đó, họ đặt trọn niềm tin tưởng vào Trời sẽ ban cho một mùa gặt tốt đẹp.

1.3/ Tại sao đức mến quan trọng? Thánh Phaolô trả lời bằng cách so sánh đức mến với các ơn gọi khác về tính thời gian, sự hòan hảo, và sự cao trọng tuyệt đối. Sau khi so sánh, Ngài kết luận: “Đức mến không bao giờ mất được.”

– Về tính thời gian: Ơn nói tiên tri cũng chỉ nhất thời. Khi Chúa cần phải sửa dạy dân chúng, Ngài sẽ dùng các tiên tri. Nhưng khi những gì Chúa muốn đã đạt được, Ngài không cần đến vị tiên tri đó nữa. Ơn nói các tiếng lạ cũng có ngày sẽ hết như ơn tiên tri. Khi về trời, hoặc tất cả chỉ xử dụng một ngôn ngữ hoặc tất cả sẽ được Chúa ban ơn để hiểu mọi thứ tiếng.

– Về sự hiểu biết: Ơn hiểu biết cũng chỉ nhất thời và giới hạn vì sự hiểu biết thì có ngần; khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi. Thánh Phaolô dùng hai hình ảnh để dẫn chứng sự bất tòan của ơn hiểu biết:

* So sánh sự hiểu biết của trẻ con và của người trưởng thành: Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con. Sự hiểu biết ở thế gian này cũng bất tòan như sự hiểu biết của con trẻ; một khi đã về hưởng hạnh phúc với Chúa thì sự hiểu biết sẽ hòan hảo như sự hiểu biết của người đã trưởng thành.

* So sánh sự hiểu biết qua gương và qua người thật: Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được gặp Thiên Chúa mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi.

– Về sự tòan hảo: Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến. Đức tin cần thiết khi chưa gặp được Chúa; một khi đã gặp được Ngài, đức tin sẽ không cần thiết nữa. Đức cậy là hy vọng những gì mình chưa có; một khi đã có rồi, đức cậy cũng sẽ không cần thiết. Chỉ có đức mến là tồn tại, một khi đã yêu rồi thì cứ tiếp tục yêu; nồng độ của tình yêu sẽ thắm thiết hơn và hòan hảo hơn.

2/ Phúc Âm: Thói quen phê bình, chỉ trích

Một trong những đặc tính của trẻ là chúng sống theo cảm xúc nhất thời: khi nào muốn ăn là ăn, muốn chơi là chơi. Chúng không cần biết những ước muốn của chúng có hợp lý không cho tới khi bị cha mẹ ngăn cấm và tập cho chúng biết sống kỷ luật. Nếu không được cha mẹ tập để sống theo kỷ luật, đứa trẻ sẽ tiếp tục những thói quen đó dầu chúng đã trở thành người lớn. Chúa Giêsu ví các Kinh-sư và Biệt-phái như những đứa trẻ này vì họ không chịu sống theo đường lối của Thiên Chúa đã họach định mà cứ ngoan cố sống theo sở thích mình: “Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói: “Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than.”

Vì các Kinh-sư và Biệt-phái lấy mình làm tiêu chuẩn để phê bình người khác nên họ không thỏa mãn với bất cứ ai có lối sống khác họ. Họ phê bình Gioan Tẩy Giả là bị quỷ ám vì ông không ăn bánh, không uống rượu như họ. Khi Chúa Giêsu đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì họ lại bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.”

Tuy vậy, kế họach của Thiên Chúa không vì họ mà phải thay đổi vì vẫn có những người sống theo Đức Khôn ngoan chỉ dẫn. Vẫn có những người nghe theo lời giảng của Gioan Tẩy Giả, bỏ đường tội lỗi, và quay trở về với Chúa. Những người này sẽ là bằng chứng hùng hồn cho sự khôn ngoan và kế họach của Thiên Chúa. Các Kinh-sư và Biệt-phái có thể làm trở ngại, nhưng không thể thắng vuợt được Đức Khôn Ngoan của Ngài.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Đức mến có thể ví như máu lưu thông trong cơ thể. Máu cần cho sự sống không phải chỉ cho thân thể mà còn tất cả các chi thể. Chi thể nào mà máu không vận chuyển tới sẽ bị đau và nếu không được chữa trị kịp thời sẽ chết. Cũng vậy, tình yêu là động lực cho tất cả mọi hành động của con người: vì yêu Chúa và yêu tha nhân, con người dám hy sinh chịu đựng đau khổ để tòan Thân Thể của Chúa Kitô được lành mạnh. Không có tình yêu mọi công việc sẽ bị đình trệ và dần dần tắt hẳn và cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa. Như lời Thánh Thêrêxa Hài Đồng nói: “Không có tình yêu Giáo Hội sẽ không còn và máu tử đạo cũng sẽ hết.”

– Khi thiếu vắng tình yêu, con người sẽ trở nên cau có, gắt gỏng, khó chịu. Họ sẽ không hài lòng về bất cứ những gì xảy ra, và sẽ luôn tìm những điều xấu của tha nhân để có lý do phê bình. Ngược lại, một khi được ở trong tình yêu, con người sẽ dễ dàng thông cảm và tha thứ mọi khuyết điểm của tha nhân, đúng như lời ca dao Việt-Nam:

Yêu nhau yêu cả đường đi – Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng.

Yêu nhau biết mấy cho vừa – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

 

 

16/09/2020 – THỨ TƯ TUẦN 24 TN

Th. Co-nê-li-ô và Xíp-ri-a-nô, tử đạo

Lc 7,31-35

 


ĐỪNG CỨNG LÒNG!

“Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa. Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc.” (Lc 7,31)

 

Suy niệm: Chúa Giê-su ví người Do Thái giống như những đứa trẻ ương ngạnh bắt người khác phải khóc cười theo sở thích ngang chướng của chúng: “Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa. Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc.” Hơn thế, Ngài còn nói trắng ra rằng họ bắt cả Thiên Chúa cũng phải theo chiều theo chuẩn mực của họ, mà chuẩn mực của họ thì bất nhất: sống như Gio-an Tẩy Giả khắc khổ nhiệm nhặt hay cư xử như Chúa Giê-su giản dị, gần gũi với những người bé mọn và tội lỗi cũng không vừa ý họ. Chính vì thái độ cứng lòng cố chấp đó, họ đã không nhìn nhận “phép rửa của Gio-an” là bởi Trời và hệ quả là họ cũng không thể tin nhận Đức Giê-su là Đấng được sai đến (x. Lc 20,1-8).

Mời Bạn: Thái độ cứng lòng chai lỳ là kết quả của tính kiêu ngạo, coi ý riêng mình là luôn luôn và duy nhất đúng; và dẫu có biết mình sai thì cũng không nhìn nhận và sửa chữa. Thái độ đó là bức tường ngăn cản họ đến với sự thật và lòng hoán cải. Bạn có đang bị bức tường cứng lòng đó cản trở mình hoán cải, khiến bạn không thể hiệp thông với Chúa và tha nhân không?

Sống Lời Chúa: Luôn kiểm điểm đời sống mỗi ngày để xin lỗi và làm hoà mỗi khi thấy mình có điều sai lỗi hoặc xúc phạm đến người khác.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, “ngày hôm nay xin cho con biết nghe tiếng Chúa và đừng cứng lòng”, xin cho con biết dùng sự tự do của mình mà chọn thái độ sống đẹp lòng Chúa và phục vụ tha nhân. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

 

 

SUY NIỆM : Lũ trẻ ngồi ngoài chợ



Suy niệm :

Đức Giêsu ví những người thuộc thế hệ của Ngài

với lũ trẻ ngồi chơi ngoài chợ (cc. 31-32).

Các nhóm chơi với nhau, í ới gọi nhau.

Một nhóm bày ra trò chơi đám cưới,

thổi sáo, thổi kèn để mong nhóm kia nhảy múa.

Nhưng nhóm kia đã không tham gia.

Sau đó nhóm này bèn chơi trò đám ma, hát những bài ca buồn não nuột.

Nhưng nhóm kia vẫn chẳng khóc than thương tiếc.

Hẳn là chẳng vui gì khi có sự thụ động, lạnh nhạt như vậy.

Dụ ngôn trên đây nói đến một số người khó chiều, bướng bỉnh.

Dù thế nào thì họ cũng đứng ngoài, không chịu nhập vào cuộc chơi.

Họ chẳng thích cả trò đám ma lẫn đám cưới.

Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói đến những người ở thời của Ngài.

Họ có nét tương tự như lũ trẻ ngồi ngoài chợ.

Khi Gioan Tẩy giả đến mời gọi họ sám hối ăn năn,

đời sống khổ hạnh của vị ngôn sứ này đã khiến họ từ khước (Lc 7, 30).

Đơn giản vì họ không thích khóc than hay hoán cải.

Gioan ăn chay nên không ăn bánh, không uống rượu (c. 33).

Lối sống của ông phù hợp với lời ông giảng về việc Nước Trời gần đến.

Nhưng lối sống khác thường ấy lại bị xem là một triệu chứng tâm thần.

Người ta đã coi ông là bị quỷ ám,

nên ít người tin vào lời giảng của một người như thế.

Khi Đức Giêsu đến với thế hệ này,

Ngài đã không mang dáng dấp của một ẩn sĩ nơi hoang địa.

Ngài đã sống như một người bình thường, ăn uống bình thường.

Lối sống của Ngài phản ánh Tin Mừng Ngài rao giảng,

một Tin Mừng đem lại niềm vui và sự giải phóng.

Những bữa ăn trong đời Ngài đóng một vai trò quan trọng.

Ngài ngồi ăn với những người bị xã hội loại trừ như người thu thuế.

Ngài đón nhận vào bàn ăn cả những tội nhân cần tránh xa.

Chính trong bầu khí vui tươi, ấm áp của bữa ăn

mà họ cảm nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa.

Tiếc thay, Ngài cũng bị từ khước như Gioan,

bị coi là kẻ chỉ biết ăn với nhậu (c. 34).

Cả Gioan lẫn Đức Giêsu đều bó tay trước sự cố chấp của thế hệ này.

Cả hai người, với hai lối sống nghịch nhau, cũng không chiều được họ.

Khi sợ thay đổi chính mình, ai cũng có thể tìm ra được lý do để biện minh.

Khi cố chấp và ngụy biện để khỏi phải đối diện với chân lý,

con người chẳng được tự do.

Nguy cơ của con người mọi thời vẫn là ở lại trong tình trạng trẻ con ấu trĩ.

Làm sao để con người hôm nay có thể nghe được tiếng kêu của Gioan,

mời gọi người ta thay đổi cuộc sống bằng cách chia sẻ (Lc 3, 10-14)?

Làm sao thái độ bao dung của Đức Giêsu

ảnh hưởng trên một thế giới còn nhiều hận thù, chia rẽ, loại trừ nhau?

 

Cầu nguyện :

Lạy Cha,

xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau

trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.

Xin cho chúng con đến với nhau

không chút thành kiến,

và tin tưởng vào thiện chí của nhau.

Khi cộng tác với nhau,

xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,

nhờ đó chúng con vượt qua

những tự ái nhỏ nhen,

những tham vọng ích kỷ

và những định kiến cằn cỗi.

Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,

để tìm kiếm chân lý

ở mọi nơi và mọi người,

nhất là nơi những ai khác quan điểm.

Lạy Cha,

xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,

để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,

và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.

Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,

xin cho chúng con được triển nở không ngừng

và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.

(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

 

 

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

16 THÁNG CHÍN

Hội Thánh Khải Hoàn

Cùng với sự nhận hiểu quan trọng nói trên về Giáo Hội xét như là cộng đoàn các Kitô hữu, phụng vụ cho chúng ta thấy đặc tính thần diệu của Giáo Hội xét như là Giêrusalem, Thành Thánh, “xuất phát từ trời cao, từ nơi Thiên Chúa” (Kh 21,10). Thành Giêrusalem trên trời là Hội Thánh khải hoàn và được vinh hiển trong Đức Kitô. Nó bao gồm những ai được vui hưởng phần thưởng sự sống vĩnh cửu nhờ ơn cứu chuộc của Đức Kitô.

Như Thánh Gioan Tác giả Sách Tin Mừng, chúng ta cũng phải luôn luôn dõi đôi mắt tâm hồn về Thành Giêrusalem vinh quang trên trời. Đó là mục tiêu cuối cùng của hành trình cuộc sống chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn chiêm ngắm “viễn cảnh hoà bình hồng phúc” này – một viễn cảnh trở thành niềm hy vọng đầy sức khích lệ cho chúng ta. Những anh chị em đã đạt đến ơn cứu độ đang chờ đợi chúng ta trong Thành Thánh của Thiên Chúa. Và tại chính ngai toà của Thiên Chúa, họ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta – để sẽ đến ngày chúng ta cũng được sum vầy với họ.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

 

 

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 16/9: Thánh Cornêliô giáo hoàng

và Thánh Cyprianô, giám mục tử đạo

1Cr 12,31- 13,13; Lc 7, 31-35.



LỜI SUY NIỆM: “Thật vậy ông Gioan Tẩy Giả đến không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: ‘Ông ta bị quỷ ám’. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo: ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi’. Nhưng Đức Khôn Ngoan đã được tất cả con cái mình biện minh cho.”

       Trước con người, lời nói và việc làm của Gioan Tẩy Giả cũng như của Chúa Giêsu. Con người cần có một sự khôn ngoan; nhưng trong khôn ngoan có: Khôn ngoan nhân loại và khôn ngoan theo Thiên Chúa. Sự khôn ngoan đích thực bởi Thiên Chúa, chính Ngài ban cho con người một quả tim biết phân biệt lành dữ. (1V 3,9). Nhưng cũng như Nguyên Tổ, mọi người đều bị lôi cuốn tiếm đoạt quyền này của Thiên Chúa, và nhờ sức riêng của mình đạt được: “ sự hiểu biết điều lành và điều dữ.” (St 3,5t). Đó là sự khôn ngoan lừa lọc mà mưu mô của con rắn lôi cuốn họ theo (St 3,1)

       Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con nhận được sự khôn ngoan của Chúa ban, để chúng con nhận biết sự thật và chân lý trong từng lời nói và hoàn cảnh, để sống và làm chứng cho Tin Mừng.

Mạnh Phương

 

 

Gương Thánh Nhân

NGÀY 16-09 THÁNH CORNELIÔ – GIÁO HOÀNG TỬ ĐẠO (+253)



Thánh Cornêliô sinh tại Roma là người có một lối sống trong sạch thuần khiết và khiêm tốn sâu xa không thể trách cứ được. Sau khi giữ các phận vụ trong Giáo hội và được mọi tín hữu thán phục, Ngài lên ngôi thánh Phêrô, kế vị Đức giáo hoàng Fabianô. Đấng đã chết vì đạo 15 tháng trước trong cuộc bách hại của Đêciô. Nhưng lên ngôi ít lâu, Ngài đã phải đương đầu với cuộc ly khai đầy gương mù của một giáo hoàng giả.

Novatianô là một linh mục đầy tham vọng được một linh mục Phi châu hậu thuẫn. Họ nổi tiếng về triết học và tài lợi khẩu, đến nỗi có người than phiền vì đã chọn Đức Cornêliô làm giáo hoàng mà không chọn Novatianô. Hai người nổi loạn đã nỗ lực tuyên truyền và lôi kéo được một số tín hữu và cả một số giám mục. Ba giám mục Italia đã đặt tay tấn phong cho Novatianô làm giám mục. Ông liền viết thư cho nhiều giám mục chống lại Đức giáo hoàng Cornêliô, trách cứ Ngài qua dễ dàng tiếp nhận lại những người đã dâng hương tế thần.

Sáng chói trên ngai tòa Phêrô, vì các nhân đức của vị tông đồ chân chính, thánh Cornêliô đã dùng cả con đường hiền dịu lẫn cứng rắn mà không lôi kéo được 2 con người phản bội trở lại đường ngay. Thánh Cyprianô sau khi biết rõ việc tuyển chọn hợp pháp của thánh Cornêliô đã trợ lực với Ngài hết mình để mang lại sự hợp nhất cho Giáo hội. Dù có một vài hiểu lầm, thánh Cornêliô và Cyprianô liên kết mật thiết với nhau như những người bạn thiết. Những sắc lệnh kết án Novat và Novatianô được một công đồng ở Roma chuẩn nhận.

Khi Gallo mở lại cuộc bắt đạo, Đức Corneliô bị tống giam. Ngài bị đầy tới Contumcella, bây giờ là Civita Vecchia. Trong một lá thư chào mừng, thánh Cyprianô viết:

– “Chúng ta cầu nguyện cho nhau trong những ngày bách hại này, nâng đỡ nhau bằng tình bác ái. Nếu ai trong chúng ta được Thiên Chúa ban đặc ân cho qua đời trước chớ gì tình thân hữu vẫn tiếp tục thúc đẩy Chúa dủ tình thương xót anh chị em chúng ta.

Quả thật thánh Cornêliô đã chẳng sống lâu. Ngài đã chết trong khi đi đầy vào tháng 6 năm 253 và được an táng tại Kentumcelloe và sau này dời về nghĩa trang thánh Callistô. Tình bằng hữu của hai thánh Cornêliô và Cyprianô vẫn còn sống mãi cho đến ngày nay và Giáo hội kính nhớ các Ngài vào cùng một ngày.

****************************

NGÀY 16-09 THÁNH CYPRIANÔ – GIÁM MỤC TỬ ĐẠO (210 – 258)



Thánh Cyprianô là một khuôn mặt sáng chói trong Giáo hội sơ khai, là một người Phi Châu. Hồi còn là lương dân, với những tài năng đặc biệt của một giáo sư dạy khoa hùng biện và của một luật sư, Ngài đã buông mình theo thú vui như một thanh niên thời đó. Nhưng khi nhờ cha Côcilianô đưa trở lại với đức tin Kitô giáo, Ngài đã hết lòng từ hiến đời mình để phụng sự Chúa Kitô. Quyết sống độc thân, bán hết gia sản và nhà cửa để phân phát cho người nghèo. Ngài cũng từ bỏ văn chương để học hiểu kinh thánh, một số tác phẩm và một số tuyển tập thư tín của Ngài là phần đóng góp cho nền văn chương Kitô giáo.

Với cuộc sống như vậy, chẳng lạ gì khi vừa trở lại đạo, Ngài đã được thụ phong linh mục và năm 249 được chọn làm giám mục Carthage, dưới sức ép của hàng giáo sĩ và giáo dân. Ngài đã có được mọi khả năng và đức tin mà một giám mục có thể có được. Với hết tâm lực, Ngài tìm cách nâng cao nếp sống luân lý đạo đức của một đoàn chiên sau nhiều năm phóng túng vì cuộc bách hại. Đặc biệt Ngài đã viết truyền đơn chống lại sự thế tục của các trinh nữ tận hiến.

Một năm sau khi được tấn phong, năm 250 hoàng đế Đêciô bắt đầu một cuộc bách hại đầy nguy hiểm vì được tổ chức có hệ thống. Ong bắt mọi người phải dâng lễ kính thần minh của ông. Nhiều Kitô hữu đã tuân phục. Một số khác tìm cách mua những giấy chứng nhận để được yên thân vì nghĩ rằng: Giáo hội không thể thiếu một vị giám mục khi phải đương đầu với cơn bão táp. Từ nơi trú ẩn Ngài viết thơ hướng dẫn đoàn chiên.

Cuộc bách hại chấm dứt sau cái chết của Đêciô. Nhiều người Kitô hữu chối đạo trở về với Giáo hội. Thánh Cyprianô chủ tọa một công đồng trong đó quyết định rằng: những người dâng lễ kính thần minh chỉ được tha tội trước khi chết, còn những người chỉ mua giấy chứng nhận (1a belli), thì được tha sau một thời gian thống hối. Novatô, một linh mục và Fêlicissimô, một phó tế đã ly khai vì muốn tha ngay, thánh Cyprianô đã hỗ trợ cho đức giáo hoàng Cornêliô chống lại nhóm ly khai theo Novatianô. Cùng với nhiều lá thư Ngài gửi cho các Kitô hữu Roma một khảo luận về sự hiệp nhất Giáo hội “De Unitate Ecclesiae” trong đó Ngài nhấn mạnh tới thượng quyền của đấng kế vị thánh Phêrô.

Năm 253, một cơn dịch lan tràn khắp đế quốc. Các Kitô hữu ở Carthage quảng đại phục vụ các nạn nhân. Nhưng người ta mê tín lại cho rằng: các thần minh đã giận dữ với người Kitô hữu. Hoàng đế Gallô mở một cuộc bách hại mới. Một sắc lệnh mới tha tội cho mọi hối nhân để họ đứng vững trong đức tin. Dầu vậy cuộc bách hại đã không dữ dội ở Carthage và Đức Cha Cyprianô không bị quấy rầy.

Chẳng may có sự tranh chấp giữa thánh Cyprianô với đấng kế nhiệm thánh Cornêliô là Đức giáo hoàng Stêphanô về việc rửa tội lại cho người đã được rửa tội trong lạc giáo. Cuộc ly khai đã không xảy ra vì Đức Sixtô kế vị đức Stêphanô được giữ tập tục của mình.

Năm 257, hoàng đế Valêrianô lại khơi dậy cuộc bách hại. Thánh Cyprianô là nạn nhân của cuộc bách hại này. Các tường thuật về cuộc diện kiến của Ngài trước quan tổng trấn và về cuộc tử đạo của Ngài dựa tên các tài liệu chính thức của một người đã được mục kiến. Trước mặt tổng trấn Paternô, Ngài tuyên xưng đức tin và không chịu nộp danh sách các linh mục. Ngài bị đày đi Curubis, một thành bên bờ biển là nơi Ngài viết khảo luận cuối khuyên nhủ can đảm chịu chết vì đạo. Vào đêm trước khi bị lưu đày, Ngài mơ thấy mình bị chặt đầu vào năm sau.

Quả thật, năm sau, vào mùa thu năm 258 có sắc lệnh xử các giáo sĩ. Ngài bị điệu về trước mặt quan tổng trấn mới là Galeriô Maximô. Sau một đêm sống với đoàn chiên. Sáng 14 tháng chín Ngài đứng trước quan tòa và bị chất vấn:
– Ngươi là Thasciô, thượng tế của bọn người phạm thánh phải không ?
– Phải
– Đức hoàng thượng dạy ngươi phải dâng lễ tế các thần minh.
– Tôi sẽ không làm.
– Hãy nghĩ lại đi.
– Quan hãy làm như chỉ thị, khi đường đi ngay thẳng lại phải suy tính làm gì.

Quan tòa ra lệnh xử trảm thánh nhân. Ngài truyền đem 25 tiền vàng thưởng cho lý hình. Các Kitô hữu thi nhau thấm máu người làm kỷ vật.

Đêm hôm sau các Kitô hữu đã rước đuốc mang thân thể Ngài mai táng trong phần mộ của Macrôbiô Condidianô, một quan chức Roma “trên đường Pmappala gần các hồ nước”. Một ít ngày sau quan tổng trấn cũng theo Ngài tới phần mộ. Chúng ta có được bản ký sự về thánh Cyprianô do Pontiô của Ngài viết.

(daminhvn.net)

 

 

16 Tháng Chín

Sống Là Một Cuộc Chạy Ðua

Vào khoảng cuố tháng 4 năm 1989, một cuộc chạy việt dã gây quỹ cho thế giới đệ tam đã được tổ chức tại 300 thành phố bên Pháp Quốc. Cuộc chạy bộ này đã cho tổ chức có tên là chống đói và giúp phát triển thuộc Giáo Hội Pháp đề xướng, và với sự hỗ trợ của Bộ Thanh Niên và Thể Thao.

Từ năm 1968 đến nay, hằng năm, tổ chức chống đói và trợ giúp phát triển phát động những chiến dịch tương tự để gây ý thức nơi giới trẻ về những vấn đề phát triển trên thế giới, nhất là tại các nước nghèo.

Trong cuộc chạy việt dã nói trên, các bạn trẻ mang theo trong người những tấm vé số mà họ sẽ bán cho người lớn. Trung bình, cứ mỗi cây số chạy được, mỗi bạn trẻ bán một vé số. Mỗi một vé số trị giá gần hai Mỹ kim. Theo dự tính, tổng số cây số mà các bạn trẻ sẽ chạy được lên đến 120,000 cây số, nghĩa là tương đương với một vòng thế giới đệ tam.

Số tiền thu được sẽ trao cho tổ chức chống đói và trợ giúp phát triển để tài trợ cho hai dự án phát triển tại Colombia: một dự án nhằm tái định cư những nạn nhân của vụ núi lửa tại Armero cách đây hai năm, và một dự án khác nhằm thiết lập những vườn trẻ tại thủ đô Bogota.

Nhiều bạn trẻ thuộc các phong trào Công Giáo tiến hành, các nhóm học giáo lý, các học sinh tại các trường Công Giáo đã hăng say tham gia vào chiến dịch nói trên.

Trong cuộc sống tại các nước tân tiến ngày nay, ai cũng thấm thía với câu ngạn ngữ: sống là một cuộc chạy đua! Buổi sáng, người ta chen lấn nhau để lên xe chạy đến sở làm; buổi chiều, người ta giành giựt nhau một chỗ trên xe để về nhà sớm. Hàng tháng, người ta phải chạy đua với sự leo thang của vật giá. Và dĩ nhiên, những tiện nghi mỗi ngày một mới mẻ cũng khiến cho con người chạy bở hơi tai.

Cuộc chạy đua nào cũng đưa lại mệt mỏi. Nhưng mệt mỏi hơn cả đó là cuộc chạy đua trong đó con người không biết mình sẽ đi về đâu… Ðó là hình ảnh của một cuộc sống không có mục đích.

Thánh Phaolô đã so sánh cuộc sống của người Kitô với một cuộc chạy đua. Người Kitô cũng cảm nghiệm được những nhọc mệt trong lộ trình, nhưng họ luôn kiên trì vì biết chắc đích điểm và phần thưởng đang chờ đợi họ.

Người Kitô cũng kiên trì chạy đua, bởi vì họ không chạy lẻ loi trong cuộc sống, nhưng họ biết rằng bên cạnh họ, còn có những người anh em cùng chung sức với họ… Một vòng tay, một nụ cười, một cử chỉ thân ái, một hành động tương trợ: bao nhiêu cử chỉ ấy là bấy nhiêu nâng đỡ cho người Kitô trong cuộc hành trình của họ và cũng là bấy nhiêu ánh sáng soi dẫn trong cuộc chạy đua của họ.

(Lẽ Sống)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét