30/11/2015
Thứ Hai tuần
1 mùa vọng
Thánh Anrê,
tông đồ.
Lễ Kính.
* Thánh Anrê quê ở Bétsaiđa. Ban đầu người
là môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, sau đó theo Chúa Kitô. Người cũng đã dẫn em
là thánh Phêrô đến gặp Chúa. Chính người cùng với thánh Philipphê đã giới thiệu
những người ngoại giáo với Chúa Kitô và đã cho biết có một em bé mang theo bánh
và cá khi những người nghe Chúa giảng không có gì ăn. Sau khi Chúa Thánh Thần
hiện xuống, người đã đi loan báo Tin Mừng ở nhiều nơi và đã bị đóng đinh thập
giá ở A-khai-a.
Bài Ðọc I: Rm 10, 9-18
"Lòng tin có là nhờ nghe, còn nghe thì dựa vào lời Ðức
Kitô".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Nếu miệng ngươi tuyên xưng Ðức Giêsu là Chúa và lòng ngươi tin rằng
Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, thì ngươi sẽ được rỗi. Quả thế,
tin trong lòng thì sẽ được công chính, tuyên xưng ngoài miệng sẽ được cứu rỗi.
Nhưng người ta kêu cầu thế nào được với Ðấng mà họ không tin? Hoặc
làm sao họ tin được Ðấng họ không nghe nói tới? Nhưng nghe thế nào được, nếu
không có người rao giảng? Mà rao giảng thế nào được, nếu không được ai sai đi?
Như có lời chép rằng: "Cao quý thay chân những người rao giảng sự bình an,
rao giảng tin lành!" Nhưng không phải mọi người đều suy phục Tin Mừng cả
đâu. Vì Isaia nói rằng: "Lạy Chúa, nào có ai tin lời chúng con rao giảng?"
Vậy lòng tin có là nhờ nghe, còn nghe thì dựa vào lời Ðức Kitô.
Nhưng tôi xin hỏi: Phải chăng họ đã không được nghe đến? Quả thật, tiếng của những
vị đó đã vang dội ra khắp địa cầu, và lời của những đấng ấy được truyền đến tận
cùng thế giới.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5
Ðáp: Tiếng chúng đã vang cùng trái đất. (c. 5a).
Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh
không kể ra sự nghiệp của Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền
tụng cho đêm kia. - Ðáp.
2) Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng
không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền
ra khắp cõi địa cầu. - Ðáp.
Alleluia: Ga 9, 19
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các ngươi hãy theo Ta; Ta
sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 4, 18-22
"Các ông bỏ lưới mà đi theo Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người
thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả
lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi
hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người
ta". Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người. Ði xa hơn một đỗi, Người lại
thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới
trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới
và cha mình mà đi theo Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm : Thánh Anrê, Tông Đồ
Anrê tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được
vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như anh
mình là Phêrô, Ngài làm thuyền đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền.
Như thế Ngài thuộc lớp người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt.
Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ
Giênezareth. Ngày ấy đang khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa Giêsu đã đi
ngang qua và đưa lời gọi sẽ quyết định cuộc đời các Ngài:
- Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành các ngư phủ lưới người
ta.
Đây không phải lần đầu Anrê đã gặp Đấng Cứu Thế. Thỉnh thoảng
Ngài có tới nghe Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống
Galilea và Gioan tẩy Giả đã nói:
- Đây là Chiên Thiên Chúa.
Và Anrê có mặt ở đó với Gioan, đã biết được Người là Đấng Thiên
Sai mà nhân loại mong chờ. Gioan và Anrê lên đường theo Người xa xa vì họ cảm động
và không dám tới gần. Nhưng Chúa Giêsu quay lại và nói với họ:
- Các anh tìm chi vậy?
Họ, những người chỉ tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã thưa lại:
- Thưa Thầy, thày ở đâu?
Chúa Giêsu nói:
- Hãy đến mà xem.
Và cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.
Khi trở về nhà Anrê đã nói với anh mình:
- Chúng tôi đã gặp được Đấng Thiên Sai.
Từ đó hai anh em đã bỏ chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe
Người và thần tính của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ. Họ đã tôn thờ Đấng Cứu
Thế ở trong lòng rồi.
Ở tiệc cưới Cana, Anrê đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu
và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy
Chúa Giêsu đã gọi hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo
Chúa.
Anrê đã rạng rỡ trong lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh
nhân gặp thấy trên đường đi, việc phục sinh những kẻ chết, việc Chúa hóa bánh
ra nhiều để nuôi đoàn người đói lả vây quanh Chúa Giêsu. Chính Anrê đã nói:
- Có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng bằng ấy
thì thấm vào đâu đối với ngần này người (Ga 6,8-9).
Và Ngài được thấy Chúa Giêsu tăng gấp số thực phẩm. Ở
Giêrusalem, Ngài còn cho Chúa biết rằng: lương dân đã xin với Philipphê cho được
gặp Người. Ngài đã nghe loan báo các chân phúc, các dụ ngôn. Ngài đã có mặt
trong bữa tiệc ly. Sau phục sinh, Ngài đã sung sướng gặp lại Thày Chí Thánh.
Ngày lên trời, Ngài thấy Người tiến lên mây trời. Ngày hiện xuống, Ngài đón nhận
Chúa Thánh Thần.
Sau những tường thuật trên của Phúc Âm, người ta không biết gì
chắc chắn nữa về Anrê. Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần
Phúc Âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc Hải
và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người
ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày.
Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida:
Egêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông,
ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư?
Nhưng Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói:
- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ông đã lãnh quyền
xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người
chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.
Egêa vặn lại:
- Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng
dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì? Vậy nếu anh không dâng
hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.
Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc: làm sao Ngài để
mất danh dự được đóng đinh vào cùng một khổ giá như thày mình được? Khi bắt đầu
những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Egêa:
- Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh
quang bất diệt.
Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở
chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy:
- Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá
nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới Thầy Chí Thánh là Đấng đã nhờ ngươi mà cứu
chuộc ta.
Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới
chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao
truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúng vây quanh Ngài với niềm thán phục
đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói:
- Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị
treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của
Thiên Chúa.
Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian
này. Ngài cầu nguyện:
- Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con
ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy
Chúa Giêsu Kitô.
Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang
đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.
Tương truyền thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ
XII và chỉ vào thế kỷ XIV... người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X.
Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh Anrê.
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Lễ Thánh Anrê
Tông Đồ (Ngày 30 tháng 11)
Bài đọc: Rom 10:9-18;
Mt 4:18-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin Mừng!
Thánh Anrê Tông Đồ, con của ông Jonah hay John (Mt 16:17; Jn
1:42), sinh tại Bethsaida, miền Galilee (Jn 1:44). Ngài là anh em với thánh
Phêrô (Mt 10:2; Jn 1:40). Cả hai anh em đều làm nghề đánh cá, và khi được gọi bởi
Chúa Giêsu, hai anh em đang sống chung một nhà tại Capernaum (Mk 1:21, 29).
Tin Mừng Thứ Tư cho chúng ta biết Anrê lúc đầu là môn đệ của
John Baptist, và sau lời làm chứng của thầy mình, Anrê đã đi theo Chúa Giêsu
(Jn 1:35-40). Sau khi nhận ra Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, ông vội vã giới
thiệu Ngài cho Phêrô, em mình (Jn 1:41), và cả hai trở thành những môn đệ của Đức
Kitô. Hai ông bỏ mọi sự để đi theo Chúa Giêsu (Mt 4:19-20; Mk 1:17-18; Lk
5:11).
Tên của hai anh em được liệt kê vào Nhóm Mười Hai Tông-đồ trong
Tin Mừng Nhất Lãm và CVTĐ (Mt 10:2-4; Mk 3:16-19; Lk 6:14-16; Acts 1:13). Anrê
luôn được kể là một trong bốn môn đệ đầu tiên. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Anrê chỉ
được nhắc tới một lần cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan, khi các ông hỏi Chúa
Giêsu về ngày mà Đền Thờ Jerusalem bị phá hủy. Trong Phúc Âm Gioan, Anrê là người
được nhắc tới trong phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi 5,000 người ăn (Jn
6:8-9), và khi một số người Hy-lạp đến với Philip để xin cho họ gặp Chúa Giêsu,
Philip đã chuyển lời của họ cho Anrê (Jn 12:20-22).
Khi các Tông-đồ bắt đầu nhận lệnh đi khắp tứ phương rao giảng
Tin Mừng, thánh Jerome cho biết thánh Anrê lúc đầu đã đi rao giảng tại
Cappadocia, Galatia, Bithynia, và trong vùng sa mạc Scythia; sau đó ngài tới Byzantium,
Macedonia, Thessaly và Achaia. Truyền thống tin ngài bị đóng đinh bởi Aegeas,
Thống Đốc Rôma, tại Patrae trong miền Achaia. Cuộc tử đạo của ngài xảy ra dưới
thời hoàng-đế Nero (ngày 30 tháng 11 năm 60 AD). Di hài của ngài lúc đầu được
giữ ở Constantinople, khi thành phố này bị chiếm bởi người Pháp vào đầu thế kỷ
13, đức hồng y Phêrô của Capua đã mang di hài của ngài về Ý và đặt trong thánh
đường Amalfi. Thánh Anrê được tôn làm quan thầy của Sô Viết và Tô Cách Lan.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiếng các ngài đã dội khắp hoàn cầu, và thông điệp
loan đi tới chân trời góc biển.
1.1/ Lời Kinh Thánh giúp con người nhận ra sự thật và tin tưởng nơi
Thiên Chúa: Trình thuật hôm nay tiếp tục những gì thánh Phaolô đã trình bày
trong những chương trước về đề tài con người được nên công chính là do bởi niềm
tin vào Đức Kitô, chứ không do bởi việc giữ cẩn thận các Lề Luật. Ngay trong
câu đầu tiên, thánh Phaolô đã trình bày về việc làm sao con người có thể tin tưởng
nơi Thiên Chúa: “Vậy Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay
trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy
đức tin.”
Thánh Phaolô muốn nhấn mạnh hai điều trong câu này: thứ nhất,
Thiên Chúa là tác nhân chính, Ngài đã đặt Lời vào trong con người; thứ hai,
Phaolô chỉ là người cộng tác với Thiên Chúa trong việc rao giảng để khơi dậy đức
tin nơi người nghe. Phaolô trích dẫn Sách Đệ Nhị Luật 30:14 theo văn bản của
MT. Có sự khác biệt giữa Bản Bảy Mươi và Bản MT: Bản Bảy Mươi có thêm câu “và
ngay trên tay bạn;” có lẽ tác giả của Bản Bảy Mươi cũng muốn đến sự liên hệ giữa
đức tin và hành động để biểu lộ đức tin. Theo Phaolô, con người phải tin Đức
Kitô trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng: Ngài đã được Thiên Chúa sai đến với
con người để chịu chết và đã sống lại, thì mới được hưởng ơn cứu độ.
1.2/ Thiên Chúa thương xót tất cả những ai tin tưởng nơi Ngài: Ơn cứu độ
của Thiên Chúa được mở rộng cho tất cả những ai tin và kêu cầu danh của Ngài;
chứ không phải chỉ giới hạn trong vòng dân tộc Do-thái như nhiều người lầm tưởng.
Phaolô trích dẫn các Sách Tiên Tri, Isaiah 28:16 trong câu 11, và Joel 2:32
trong câu 13, để nói lên sự thật này. Đây là điều hợp lý và chứng tỏ tình yêu
Thiên Chúa dành cho mọi người. Phaolô kết luận: “Như vậy, không có sự khác biệt
giữa người Do-thái và người Hy-lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng
đại đối với tất cả những ai kêu cầu Người.”
2/ Phúc Âm: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ
lưới người như lưới cá."
2.1/ Chúa Giêsu mời gọi 4 môn đệ đầu tiên đi theo Ngài: Chúa Giêsu
mời gọi các ông hướng tới sứ vụ cao trọng hơn: mang ánh sáng chân lý của Thiên
Chúa và ơn cứu độ đến cho con người. Thoạt nghe trình thuật của Matthew, chúng
ta có thể thắc mắc: Làm sao 4 môn đệ đầu tiên này có thể đáp trả lời mời gọi của
Chúa Giêsu cách dứt khoát và nhanh chóng như thế? Bốn ông đều chắc chắn đã có
cơ hội nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường Capernaum và chung quanh vùng
Biển Hồ Galilee, đã chứng kiến các phép lạ Ngài làm, đã nghe dân chúng bàn tán
về Ngài... Tất cả những điều này làm các ông phải suy nghĩ nhiều đêm, để rồi
hôm nay, khi Ngài chính thức mời gọi: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm
cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá;" các ông mới có thể bỏ
mọi sự đi theo Ngài.
2.2/ Các môn đệ phải dứt khoát đáp trả: Tuy thế,
phản ứng dứt khoát của các tông đồ cũng làm cho chúng ta phải kinh ngạc. Nghề
nghiệp không dễ bỏ vì nó liên quan đến vần đề sinh sống. Các ông chắc cũng thắc
mắc: “Bỏ nghề rồi làm gì ăn?” Bỏ cha già ở lại trên thuyền với lưới rách còn
khó hơn. Ơn sinh thành phải đền trả. Giờ đã đến lúc người cha già yếu phải sống
nương tựa vào sức mạnh của con, thế mà hai người con khỏe mạnh đành lòng để cha
già ở lại để bước theo Đức Kitô! Hơn nữa, chắc họ cũng phải nhìn lại con người
mình và tự hỏi: Làm sao một dân thuyền chài có thể mang ánh sáng chân lý tới
cho con người? Chính họ cần được ánh sáng chân lý chiếu soi trước hết.
Các ông có can đảm bước đi theo tiếng gọi của Chúa Giêsu vì các
ông được soi sáng để nhận ra đâu là điều quan trọng trong cuộc đời. Các ông đi
theo Chúa Giêsu vì các ông nhận ra có những điều trong cuộc đời cao trọng hơn
là nghề nghiệp và sự đáp trả công ơn sinh thành bằng việc giúp đỡ phần xác.
Chúa Giêsu phải có những điều có thể lấp đầy những nỗi khao khát trong tâm hồn
các ông. Các ông thấy dân chúng lũ lượt và nhiệt thành đến với Chúa Giêsu để
nghe Ngài dạy dỗ và chữa lành. Các ông cảm thấy hãnh diện được trở thành môn đệ
của Chúa Giêsu, và việc tham gia vào sứ vụ cứu độ của Chúa phải là điều đáng ao
ước hơn cả.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong cuộc đời, có những điều quan trọng hơn là công việc làm.
Chúng ta hãy noi gương thánh Anrê để đi tìm sự thật, và sau khi đã tìm thấy,
loan báo sự thật này cho mọi người.
- Trong tiến trình đem con người đến với Thiên Chúa, con người
chỉ là khí cụ Thiên Chúa dùng để rao giảng. Để con người hoán cải và tin vào
Thiên Chúa, con người cần ơn thánh hoạt động cả bên trong lẫn bên ngoài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
30/11/15 THỨ HAI TUẦN 1 MV
Th. An-rê, tông đồ
Mt 4,18-22
Th. An-rê, tông đồ
Mt 4,18-22
Suy niệm: Các
học sinh miệt mài học tập, các công nhân, kỹ sư cặm cụi làm việc,… mọi người
đều đang… ước mơ: ước mơ đạt tới một cái gì đó hơn cái đang có trong hiện tại này, theo đuổi nó,
và biến nó thành hiện thực. Đó chính là ước mơ thăng tiến bản thân, động cơ cho
mọi chọn lựa và nỗ lực trong cuộc sống. Hẳn An-rê và các bạn cũng mơ ước một cuộc sống nào đó hơn cuộc sống ngư phủ tầm thường. Lời mời gọi đi
theo thầy Giê-su để trở thành những người thợ “lưới người như lưới cá” mở ra cho các ông một triển vọng thăng tiến
mới mẻ, nhưng cũng đầy mạo hiểm. Chỉ vì say mê thầy Giê-su mà các ông dám bỏ
thuyền bỏ lưới đi theo Ngài để thực hiện ước mơ.
Mời Bạn: Là
Ki-tô hữu, bạn đang ước mơ cái gì? Phải chăng là một cuộc sống ấm êm với những
thành đạt mà theo lẽ thường người ta vẫn hằng mơ ước? Điều đó không có gì sai.
Thế nhưng phải chăng chỉ có bấy nhiêu? Lời Chúa nhắc bạn rằng dù sống giữa
những sự đời thường, bạn vẫn có thể mơ ước một cái gì đó hơn nữa, đó là ước mơ nên thánh như “Cha chúng ta trên trời là Đấng Thánh”;
đó là say mê Thầy Giê-su đến độ dám liều bỏ mọi sự để bước theo thật sát những
bước chân của Ngài.
Sống Lời Chúa: Say
mê Đức Ki-tô, tôi quyết tâm dù làm một việc nhỏ, không làm một cách tầm thường
xoàng xĩnh mà làm với tất cả tận tâm và yêu mến.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con ước mơ trở nên những tay thợ lành nghề cho cánh đồng
truyền giáo Chúa, xin Chúa giúp con vượt qua tất cả những thách đố để đáp lại
tiếng gọi trở nên tông đồ nhiệt thành của Chúa. Amen.
Hãy đi theo tôi
Hôm nay Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi như một sự
tình cờ. Ngài vẫn thấy, vẫn gọi, để tôi bỏ và đi theo. Không thấy và gọi, thì
cũng chẳng ai từ bỏ và đi theo.
Suy niệm:
Như một sự tình cờ, lúc đang
đi dọc theo bờ hồ Galilê,
Đức Giêsu thấy bóng dáng các
anh đánh cá quen thuộc.
Hẳn họ đã có lần nghe Ngài
giảng và thấy Ngài chữa lành bệnh nhân.
Đức Giêsu yên lặng nhìn các
anh làm việc.
Họ đang quăng lưới bắt cá
hay ngồi trong khoang vá lưới với cha.
Cảnh tượng rất đời thường và
ấm áp.
Đẹp biết mấy chuyện con
người làm việc chung với nhau.
Sau này họ sẽ biết cách làm
việc với nhau trên con thuyền Giáo Hội.
Chúa Giêsu hôm nay cũng thấy
tôi.
Tôi thế nào, Ngài thấy tôi
thế ấy.
Cái nhìn của Ngài không làm
tôi bị tê liệt, nhưng cho tôi tự do.
Ngài chấp nhận trọn vẹn con
người tôi, cả tội lỗi và yếu đuối.
Chẳng cần son phấn, tôi thu
hút Ngài bằng cái mộc mạc của tôi.
Ngài gặp tôi hôm nay lúc tôi
đang mải mê làm một việc gì đó.
Ngài gặp tôi giữa cái vất vả
kiếm sống của đời thường.
Hạnh phúc cho người nào được
thấy Thiên Chúa (Mt 5, 8),
và cũng thật hạnh phúc cho
người nào được Thiên Chúa thấy.
“Các anh hãy theo tôi”:
đây là một lời mời dành cho mọi Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu khởi đi từ
tiếng gọi của Thầy Giêsu.
Người Do Thái thường tầm sư
học đạo,
còn ở đây, chính Thầy Giêsu
đi chọn môn đệ cho mình (Ga 15, 16).
Ngài mời ta đi theo chính
con người của Ngài,
chứ không phải theo một lý
tưởng cao đẹp hay một dự án hấp dẫn.
“Tôi sẽ làm cho các anh
trở thành những kẻ lưới con người.”
Một cuộc đổi đời thực sự, từ
lưới cá đến lưới con người.
Con người của mọi dân tộc là
mối bận tâm của Thiên Chúa.
Theo Chúa Giêsu là chia sẻ
nỗi thao thức của Ngài về nhân loại,
và đồng lao cộng khổ với
Ngài trong sứ mạng cứu độ thế giới.
Simon và Anrê đã bỏ chài
lưới, Giacôbê và Gioan bỏ thuyền và cha.
Sự từ bỏ nào cũng gây ít
nhiều xót xa đau đớn.
Biển cả, sóng nước, thuyền
bè, lưới cá, người cha, người vợ:
biết bao giá trị phải bỏ
lại, những người tôi đã và vẫn còn yêu mến.
Từ bỏ chỉ khả thi nếu tôi
gặp một giá trị cao hơn, một tình yêu lớn hơn.
Chúa không đòi mọi người
phải sống đời tu, nhưng đòi phải từ bỏ mình.
Từ bỏ đơn giản là đặt Thiên
Chúa lên trên mọi thụ tạo khác,
là chọn Giêsu trong giây
phút hiện tại, là đón lấy cái bấp bênh.
Bốn anh ngư phủ đã lên bờ để
đi theo một ông thợ mộc bỏ nghề.
Đời họ đã sang một trang
mới.
Hôm nay Chúa vẫn đi ngang
qua đời tôi như một sự tình cờ.
Ngài vẫn thấy, vẫn gọi, để
tôi bỏ và đi theo.
Không thấy và gọi, thì cũng
chẳng ai từ bỏ và đi theo.
Tiến trình này được lặp lại
nhiều lần, làm nên hành trình Kitô hữu.
Hôm nay tôi mong theo Chúa
hơn hôm qua, và ngày mai hơn hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn
chúng con
bằng Thần Khí và sức sống
của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn
thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức
sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua
chúng con,
để những người chúng con
tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện
diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao
giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói
suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng
tá,
và bằng trái tim tràn đầy
tình yêu của Chúa.
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm
Hồn Lên
30 THÁNG MƯỜI MỘT
Ngài Đến Để Phán Xét Kẻ Sống Và Kẻ Chết
Chúng ta biết về cuộc sinh hạ Chúa Giêsu trong đêm nhiệm mầu ấy ở
Bê-lem. Chúng ta biết cuộc sống và cái chết của Người trên Thập Giá. Bằng lời
Tin Mừng cứu độ của Người và, cuối cùng, bằng cái chết và cuộc Phục Sinh của
Người, Người đã rao giảng “những gì công minh chính trực” trên mặt đất. Chúng
ta hãy “đứng thẳng dậy và ngẩng đầu lên”. Vì với sự đến của Đấng Công Chính, với
mầu nhiệm Vượt Qua của Người, ơn cứu độ của chúng ta được bảo đảm.
Mùa Vọng hướng chỉ về sự đến của Đấng Cứu Chuộc, của Con Người,
Đấng đã sinh ra ở Bê-lem đêm ấy. Từ khoảnh khắc kỳ diệu ấy, Người tự tỏ lộ cho
chúng ta thấy chính Người trong toàn bộ lịch sử nhân loại từ khởi đầu tới chung
cuộc.
Người cho chúng ta thấy lịch sử loài người trên trái đất không phải
chỉ là một dòng lịch sử hướng về sự chết. Lịch sử ấy có ý nghĩa của nó và dẫn về
điểm hoàn thành mọi sự. Theo nghĩa đó, Mùa Vọng hướng chỉ một sự đến khác của
Con Người, lần này trong tư cách là vị Thẩm Phán của hồi tận thời. Người đã đến
để ươm mầm Tin Mừng qua cuộc Nhập Thể và cuộc Tử Nạn của Người. Người sẽ đến lần
thứ hai để phán xét các dân tộc và thu hoạch hoa trái mà Người đã gieo trồng.
Người sẽ đến để bóc trần những kín ẩn của mọi lương tâm và mọi cõi lòng vào cuối
thời gian.
Như vậy, lịch sử con người trên trái đất không chỉ là một hành
trình tiến về cái chết. Tiên vàn nó là một sự chuẩn bị cho sự thật của cuộc
phán xét. Nó là một sự chuẩn bị cho sự sống viên mãn trong Thiên Chúa.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong
Gia Đình
Ngày 30/11
Thánh Anrê tông đồ.
Rm 10, 9-18; Mt 4, 18-22.
Lời Suy Niệm: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh
thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo
Người.”
Trong câu chuyện Chúa Giêsu kêu gọi Bốn Môn Đệ đầu tiên, trong
đó có Thánh Anrê Tông Đồ, cho chúng ta thấy được các ông đã đặt niềm tin tuyệt
đối vào Chúa Giêsu ngay từ phút bắt đầu sứ vụ của Người. Các ông đã dứt khoát từ
bỏ nghề nghiệp chính của mình, “bỏ chài lưới”; Bỏ cả nơi chốn gia đình êm ấm “bỏ
thuyền, bỏ cha lại”; mà đi theo Người. Qua cách tuyển chọn và mời gọi của Chúa
Giêsu cho chúng ta thấy. Chúa đặt tin tưởng vào con người khi Người tuyển chọn.
Người tin có đủ khả năng đào tạo và huấn luyện, cũng như ban cho họ đủ khả năng
để tiếp thu và thực hiện những giáo huấn của Người. Về phía con người chỉ cần
khiêm tốn đón nhận trong vâng phục và đi theo Người; ở với Người, sống với Người.
thực hiện đức ái trong chân lý và sự thật.
Lạy Chúa Giêsu. Thánh Phaolô từ một kẻ bắt đạo đã được Chúa chộp
lấy; đã làm cho thánh nhân trở thành môn đệ của Chúa, và đã cảm nghiệm được điều
này: “Có tin thật trong lòng, mới được nên công chính, có xưng ra ngoài miệng mới
được cứu độ, Kinh Thánh nói: Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng.” (Rm
10,10-11). Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con, luôn sẵn sàng lắng
nghe tiếng Chúa mời gọi, và sống trong sự vâng phục. để được ơn cứu độ.
Mạnh Phương
Gương
Thánh Nhân
Ngày 30-11
Thánh ANRÊ TÔNG ĐỒ
(Thế kỷ I)
Anrê tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được
vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như em mình
là Phêrô, Ngài làm thuyền đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền. Như
thế Ngài thuộc lớp người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn
sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth.
Ngày ấy đang khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa Giêsu đã đi ngang qua và đưa
lời gọi sẽ quyết định cuộc đời các Ngài: - Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh
thành các ngư phủ lưới người ta.
Đây không phải lần đầu Anrê đã gặp đấng cứu thế. Thỉnh thoảng
Ngài có tới nghe Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống
Galilea và Gioan tẩy Giả đã nói: - Đây là Chiên Thiên Chúa.
Và ANRÊ có mặt ở đó với Gioan, đã biết được Người là Đấng thiên
sai mong chờ. Gioan và ANRÊ lên đường theo Người xa xa vì họ cảm động và không
dám tới gần. Nhưng Chúa Giêsu quay lại và nói với họ: - Các anh tìm chi vậy ?
Họ, những người chỉ tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã thưa lại: - Thưa
Thầy, thày ở đâu ?
Chúa Giêsu nói: - Hãy đến mà xem. Và cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.
Khi trở về nhà ANRÊ đã nói với em mình: - Chúng tôi đã gặp được
Đấng thiên sai.
Từ đó hai anh em đã bỏ chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe
Người và thần tính của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ. Họ đã tông thờ Đấng cứu
thế ở trong lòng rồi.
Ở tiệc cưới Cana, Anrê đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu
và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy
Chúa Giêsu đã gọi hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo
Chúa.
Anrê đã rạng rỡ trong lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh
nhân gặp thấy trên đường đi, việc Phúc âm những kẻ chết, việc Chúa hóa bánh ra
nhiều để nuôi đoàn người đói lả vây quanh Chúa Giêsu. Chính Anrê đã nói: - Có một
bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng bằng ấy thì thấm vào đâu đối với
ngần này người (Ga 6,8 -9).
Và Ngài được thấy Chúa Giêsu tăng gấp số thực phẩm. Ở
Gierusalem, Ngài còn cho Chúa biết rằng: lương dân đã xin với Philipphê cho được
gặp Người. Ngài đã nghe loan báo các chân phúc, các dụ ngôn. Ngài đã có mặt
trong bữa tiệc ly. Sau phục sinh, Ngài đã sung sướng gặp lại Thày chí thánh.
Ngày lên trời, Ngài thấy Người tiến lên mây trời. Ngày hiện xuống, Ngài đón nhận
Chúa Thánh Thần.
Sau những tường thuật trên của Phúc âm, người ta không biết gì
chắc chắn nữa về Anrê. Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần
Phúc âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc hải
và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người
ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày. Đây là tục truyền kể
lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida.
Êgêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ
phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các
thần minh ư ? Nhưng Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài
nói:- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ong đã lãnh quyền xét xử
người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở
trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.
Êgêa vặn lại: - Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta
thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì ? Vậy nếu anh
không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.
Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc: làm sao Ngài để
mất danh dự được đóng đinh vào cùng một đau khổ giá như thày mình được ? Khi bắt
đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Êgêa: - Cực
hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.
Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở
chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy: - Ôi thánh giá tốt lành, thánh
giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới thầy chí
thánh là Đấng đã nhờ Người mà cứu chuộc Ta.
Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới
chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao
truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúngvây quanh Ngài với niềm thán phục
đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói: - Hãy trả con người thánh thiện
cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng
giết con người yêu quí của Thiên Chúa.
Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian
này. Ngài cầu nguyện:
- Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
- Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang
đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.
Tương truyền thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ
XII và chỉ vào thế kỷ XIV... người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X.
Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh ANRÊ.
(daminhvn.net)
30 Tháng Mười Một
Bảo Chứng
Của Trường Sinh Bất Tử
Công chúa Touwan bên Trung Quốc từ trần vào khoảng năm 104 Trước
Công Nguyên, nhưng được những người sinh sống đồng thời tin tưởng là bà sẽ trường
sinh bất tử vì bà được an táng trong một quan tài bằng ngọc thạch. Chồng bà nhắm
mắt lìa đời 9 năm trước đó cũng được an táng trong một quan tài tương tự.
Ðôi vợ chồng được an nghỉ trong hai ngôi mộ xây cất trong vùng đồi
núi hoang vu. Mãi đến năm 1969 người ta mới khám phá ra và cả thế giới ngạc
nhiên trước sự giàu sang của thời đại ấy được biểu lộ qua 2,800 của lễ được
dâng tặng lúc cử hành lễ an táng, nhưng đặc biệt nhất là hai cái quan tài, mỗi
cái gồm tất cả hai ngàn mảnh ngọc nhỏ được kết chung lại bằng những sợi chỉ bằng
vàng.
Những người sinh sống vào thời đại ấy quan niệm rằng: vàng và ngọc
thạch không bị thời gian làm hư hại vì thế chúng ta bảo chứng cho sự trường
sinh bất tử.
Trên ba vòng bán nguyệt của khung cửa chính ở nhà thờ chánh tòa
Milanô bên Italia có khắc ba dòng chữ:
- Phía dưới hình một hoa hồng được chạm trổ tinh vi của một vòng
bán nguyệt, người ta đọc được hàng chữ: "Mỗi hạnh phúc chỉ kéo dài trong
khoảnh khắc".
- Bên vòng bán nguyệt của khung cửa kia, dưới hình một cây thập
giá có ghi hàng chữ: "Mỗi đau khổ chỉ kéo dài trong một khoảnh khắc".
- Ở vòng nguyệt của khung cửa giữa dẫn vào lòng chính của vương
cung thánh đường có khắc dòng chữ: "Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng".
Ở giữa một bên là quan niệm đi tìm thuốc tiên hay sử dụng quan
tài bằng ngọc thạch để được trường sinh bất tử và bên kia là quan niệm cuộc đời
con người chấm cùng bằng cái chết, những người Kitô hữu xây dựng cuộc sống vĩnh
cửu bằng những giây phút hiện tại và tin tưởng rằng cái chết là ngưỡng cửa dẫn
vào cuộc sống đời đời và chính cuộc sống này mới thực sự quan trọng.
Vì thế họ chọn thái độ "sống gửi thác về". Họ thu nhặt
những giá trị qúi như vàng ngọc bằng cách sống tốt, sống thật những giây phút
hiện tại, bằng cách áp dụng "hai đạo luật vàng: mến chúa yêu người",
vì họ biết rằng chỉ có những gì được làm vì tình yêu mới có giá trị vĩnh cửu.
Vì thế họ quan niệm đời sống là một cuộc hành trình, phải luôn cất
bước ra đi: nước mắt, nụ cười chỉ có giá trị tương đối, để mỗi ngày họ bắt đầu
lại, mỗi ngày họ cất một bước chân mới đi về nhà cha. Năm phụng vụ đã gần kết
thúc. Giáo hội mời gọi chúng ta tiếp tục sống, nhưng với chú tâm sống tốt, sống
thật từng phút giây hiện tại vì chúng là những hạt cát, những viên gạch xây dựng
cho cuộc sống mai sau.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Lễ
Thánh Anrê, Tông Đồ
Thứ Hai, 30 Tháng 11, 2015
Ơn gọi
của thánh Anrê và anh của ông
Các
môn đệ đầu tiên, những kẻ đi lưới người
Mt 4:18-22
Lời nguyện
Lạy Cha, Cha đã gọi thánh Anrê từ bên cái lưới thế gian để thành
ngư phủ tuyệt vời đi lưới người cho việc loan báo Tin Mừng. Khấn xin
Cha hãy ban cho chúng con có cơ hội nếm được hương vị ngọt ngào của Chúa Cha
trên trời và làm cho chúng con trở nên con cái yêu dấu của Cha. Vì vậy,
chúng con có thể rộng mở lòng mình ra với lòng đầy tự tin để được uốn nắn bởi
ánh mắt và lời nói của Con Yêu Dấu Cha, Đức Giêsu Chúa chúng con, và để cùng với
Người, chúng con sẽ mang đến tin vui về tình yêu đầy lòng thương xót của Cha đến
với các anh chị em chúng con, để cho đời sống chúng con được thăng hoa hơn.
Bài Đọc
18 Khi ấy,
Chúa Giêsu đang đi dọc theo biển hồ Galilêa, thì thấy hai anh em kia, là ông
Simon, cũng gọi là Phêrô, và người em ông là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển,
vì các ông làm nghề đánh cá. 19 Người bảo các
ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới
người như lưới cá.” 20 Lập tức, hai ông bỏ chài lưới
mà đi theo Người.
21 Đi một quãng nữa, Người thấy
hai anh em khác con ông Giêbêđê, là ông Giacôbê và người em ông là
Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Giêbêđê vá lưới ở trong
thuyền. Người gọi các ông. 22 Lập tức,
các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.
Suy Gẫm
- “Chúa Giêsu đang đi dọc theo biển hồ
Galilêa.” Chúa Giêsu vừa mới rời khỏi vùng hoang địa, sau bốn mươi
ngày cô đơn tịch mịch và chống trả lại với ma quỷ cám dỗ (Mt
4:1-11). Người bước ra trong chiến thắng, giữ vững được tình yêu của
Người với Chúa Cha và Người trở lại miền Galilêa, một miền đất xa xôi bị coi
thường, một miền đất miền biên ải và không xứng đáng, để mang lại ánh sáng tuyệt
vời và ơn cứu độ của Người (Mt 4:12-16). Và tại đó, Người đã bắt đầu
cao rao sứ điệp của mình về sự vui mừng và ơn cứu độ: “Nước Trời đã đến
gần” (Mt 4:17). Không còn sự cô tịch nữa, cũng chẳng còn sa mạc hoang vu,
chẳng còn kể từ khi Chúa Giêsu đã đến quê hương của chúng ta, miền đất Galilêa
của dân Ngoại: thật ra thì Người rất gần gũi với chúng ta, đó là
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Chúa không ở xa ta, Người cũng chẳng ngồi
yên một chỗ và lẩn trốn, mà Người “đang đi”, đang đi dọc theo biển hồ, dọc theo
bờ biển của cuộc sống nghèo nàn chúng ta. Thật vậy, thậm chí còn hơn thế nữa. Galilêa,
có nghĩa là “cái nhẫn”: điều cho chúng ta biết rằng Người, Tình Yêu
kết hôn, nối kết với Chúa mãi mãi. Sau đó, bạn chỉ cần đón chào Người,
khi Người đang đi dọc theo biển hồ. Người đã trông thấy chúng ta, thậm
chí từ đàng xa, chúng ta đã biết điều ấy …
- Động từ “đã trông thấy”, được lặp lại hai lần, lần
đầu trong lời chỉ về ông Anrê và anh của ông, sau đó về các ông Giacôbê và
Gioan, đem đến tất cả sức mạnh và cảm xúc mãnh liệt của ánh mắt xuất phát từ
con tim, từ sâu thẳm. Do đó, Chúa nhìn thấy chúng ta: các
độc giả chúng ta, với sự quan tâm yêu thương duyệt qua các trang sách của đời sống
chúng ta, Người biết tất cả mọi điều về chúng ta, Người yêu thương tất cả.
- Không phải ngẫu nhiên mà tác giả Mátthêu thường xử
dụng các từ ngữ để mô tả cảnh của ơn gọi gia đình này, gặp gỡ với Chúa Giêsu,
chúng ta thấy bốn lần chữ “anh/em” và hai lần chữ “cha”. Chúng làm
rõ ràng nguyên tắc sống của chúng ta, nơi mà chúng ta khám phá ra rằng chúng ta
cũng là con cái và là anh em. Đức Giêsu đi vào thực tại của chúng ta
trong nơi nhân bản nhất, sâu thẳm nhất của chúng ta, mỗi ngày mỗi hơn, vào
trong xác thịt, trong tâm khảm, trong toàn bộ đời sống của tôi. Nó
được phục hồi, để cho chúng ta được tái sinh lần nữa.
- “Theo Tôi”. Đây là những lời của Chúa,
đơn giản và rõ ràng: Người đòi hỏi chúng ta chuẩn bị lên đường, di
chuyển, để giống như Chúa, “đi đến”. Cảm giác tốt đẹp được thức giấc
từ tiếng nói này đến với chúng ta và mạnh mẽ hơn, êm ái hơn là âm thanh của nước
biển trong thế gian, ồn ào và hỗn độn. Khi Người nói chuyện với tâm
hồn, giọng Người trở nên bình an, và bình an trở lại. Và khi ấy,
chúng ta cũng được ban cho đường đi, đánh dấu con đường để đi theo, không để
cho chúng ta bị hư mất, Chúa nói: “Hãy theo Tôi”. Chỉ cần
chấp nhận lời mời gọi, chỉ cần chấp nhận Ngài để biết nhiều hơn; chúng ta chỉ cần
đi theo Người, Chúa đến để mở đường.
“Các ông bỏ lại mọi sự và đi theo Người.” Hai cặp anh em, đôi đầu
tiên được gọi là các ông Phêrô và Anrê, các ông trở thành những kẻ đi lưới người
để cho chúng ta bắt đầu cuộc hành trình này, như một mẫu mực rõ ràng, mạnh mẽ,
chắc chắn. Các ông dạy cho chúng ta thực hiện các động tác, hoạt động,
các chọn lựa. “Bỏ lại” và “Hướng tới” đã trở thành các động từ
chính, những từ ngữ được biết bằng tâm hồn. Vâng, bởi vì nó có thể sẽ
xảy ra thường xuyên để phải làm những hoạt động này từ bên trong, trong linh hồn
bí mật, nơi mà chỉ chúng ta có thể trông thấy. Nơi mà chỉ có Chúa là
thành tín, từ ngữ tuyệt vời này của Tin Mừng đã nói ngay cả đối với chúng ta,
thật sáng láng và mạnh mẽ đến nỗi thay đổi được đời sống của bạn.
- “Bây giờ”. Hai lần, thánh Mátthêu cho
chúng ta thấy trong việc chào đón có sự sẵn sàng của các môn đệ, Chúa đi ngang
qua, ánh mắt của Người, tiếng nói của Người dành cho các ông. Các
ông không đặt ra các rào chắn, không nghi ngại, không sợ hãi, mà tin tưởng Người
không do dự, đáp trả ngay lập tức, nói lời xin vâng với Tình Yêu ấy.
Trong một cường độ, thánh Mátthêu lướt qua trước mắt chúng ta tất
cả những yếu tố được linh ứng từ khung cảnh, dọc theo bờ hồ: lưới, thuyền đánh
cá, người cha… chúng lướt đi vào trong bối cảnh, được để sang một
bên. Ở đó vẫn chỉ có Chúa đi trước và các ông đi theo sau Người, bốn
người được gọi, những con người mới, các ông mang tên của chúng ta, câu chuyện
mà Thiên Chúa đã viết cho chúng ta.
Một vài câu hỏi gợi ý
* Chân trời của câu chuyện Tin Mừng này, và sau đó ân
sủng mà Thiên Chúa vẫn còn ban cho chúng ta là biển hồ, biển hồ trong sáng, có
tên và địa lý của nó. Trước Lời Chúa, vào lúc này, tôi có thể đưa ra
một khuôn mặt chính xác của chân trời đời sống của tôi không? Tôi có
sự bình an nội tại để phơi trần trước mắt của Đức Giêsu, đời sống thật của tôi,
biển hồ Galilêa của tôi, biển của tôi không? Tôi đã có lo sợ cho biển
cả trong lòng tôi không, giống như một biển sâu đe dọa, tối tăm, thù nghịch
không? Tôi có để cho Chúa đi ngang qua bờ biển của tôi
không? Tôi có thể để cho mình giống như các ông Anrê, Simon, Giacôbê
và Gioan không?
* Và nếu tôi im lặng vào lúc này, nếu tôi lìa bỏ những
bước chân của Chúa Giêsu thật sự rất gần với tôi để cho giải cát nghèo nàn của
tôi in đậm dấu chân tình yêu và tình bạn của Người, sau đó tôi có đủ can đảm để
cho mình được chạm vào ánh mắt đầy ánh sáng của Người không? Hay là
tôi vẫn tiếp tục ẩn núp, chạy trốn, che giấu, rằng tôi không muốn nhìn thấy hoặc
chấp nhận không?
Và một lần nữa, tôi có để cho Người nói chuyện với tôi, cho tôi
biết, có lẽ đây là lần đầu tiên: “Hãy đi theo Thầy”
không? Hay là tôi chỉ cần tiếp tục lắng nghe những âm thanh của biển
cả, của sóng vỗ bờ rời rạc
không?
* Bài Tin Mừng này nói với tôi rất mạnh mẽ về tình anh
em đồng hành, tôi nói về phận làm con của tôi, phơi trần phần sâu thẳm nhất của
con tim, đi vào nơi thân thiết của tình gia đình. Có lẽ đây là nơi
mà đã cho tôi nhiều đau khổ hơn chăng, nơi mà tôi cảm thấy không được thông cảm,
chấp nhận và yêu thương như chính bản thân tôi không? Vì Chúa đã đặt
tay Người vào trong vết thương của tôi phải không? Anh em, cha mẹ, bạn
bè… Chúa Giêsu là tất cả những điều này đối với tôi. Tôi
có cảm thấy thực sự như thế không? Có chỗ nào cho Ngài trong nhà của
tôi không? Và mối quan hệ của tôi với Ngài như thế
nào? Như là một người anh em, hay là một người bạn, hay là một người
con? Hay là bạn chỉ biết từ đàng xa, một cách hời hợt
thôi?
* Dường như rất rõ ràng rằng đoạn Tin Mừng này Chúa đã
làm những điều tuyệt vời trong đời sống của những người môn đệ. Chúa
bảo các ông rằng: “tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người
như lưới cá” Bạn sẽ phản ứng với sự khám phá này như thế nào đây? Tôi
có sẽ thực sự để cho Người đụng chạm tới không, một cách chân thành
không? Tôi có đủ khả năng để nhìn thấy, yêu thương và phục vụ Chúa
Giêsu trong họ không? Tôi có muốn để cho đời sống của tôi được thay
đổi không? Với Người, tôi có muốn bắt đầu một cuộc phiêu lưu mới, đi
tìm các anh chị em là những người cần phải gặp gỡ, quen biết, để cảm thấy được
yêu thương bởi tình yêu vô biên của Người không? Tôi có thể nào là một
kẻ đi lưới người, như ông Anrê và anh của ông không?
* Chúng ta chỉ có một điều: quyết định, quyết
định đi theo Chúa, để đi theo sau Chúa đã bị hoãn lại một lúc nữa… Tôi
phải bỏ lại những gì ngày hôm nay để thực hiện được bước đi quan trọng
này? Điều gì đang níu chân tôi lại, làm tôi chùn bước, không để cho
tôi bước đi? Điều gì làm nặng trĩu lòng tôi, tâm hồn
tôi? Có lẽ điều nảy sinh trong tôi là điều cần phải thú nhận, để mở
cửa lòng mình ra. Lời gọi giờ đây được viết trong ánh mắt nhìn mà
Người đã hướng về tôi, lời của Người, mạnh mẽ hơn cả âm thanh của sóng biển,
tôi không thể nào giả vờ như không có gì xảy ra. Chúa ở trong quá khứ
đã để lại một dấu ấn. Tôi không còn là tôi của ngày
xưa… Tôi cất tiếng xin vâng, như ông Anrê đã làm. Amen.
Lời Nguyện Kết
Lời Chúa là đèn soi cho con bước,
Là ánh sáng chỉ đường con đi.
Con đã thề và con xin cam kết,
Và dạy con biết những quyết định của Ngài.
Lạy Chúa, con hết dạ kiếm tìm Ngài,
Xin chớ để con làm sai mệnh lệnh Chúa
Lời Chúa hứa, lòng con ấp ủ,
Để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung.
Lạy CHÚA, con dâng lời ca tụng,
Thánh chỉ Ngài, xin dạy cho con.
Môi con hằng nhẩm đi nhắc lại,
Các quyết định miệng Ngài phán ra.
Tuân theo thánh ý Ngài, con vui sướng
Hơn là được tiền rừng bạc bể.
Con sẽ gẫm suy huấn lệnh Chúa truyền,
Đưa mắt nhìn theo đường lối Chúa.
Con vui thú với thánh chỉ Ngài
Chẳng quên lời Ngài phán.
(Trích TV 119)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét