08/06/2016
Thứ Tư tuần 10 thường niên.
Bài Ðọc
I: (Năm II) 1 1 V 18, 20-39
"Chớ
gì dân này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa đã hoán cải lòng họ".
Trích
sách Các Vua quyển thứ nhất.
Vua
Acáp sai người triệu tập toàn thể con cái Israel và nhóm họp các tiên tri trên
núi Carmel.
Bấy
giờ Êlia đến cùng toàn dân và tuyên bố rằng: "Các ngươi đi nước đôi cho đến
khi nào? Nếu Chúa là Thiên Chúa, các ngươi hãy theo Người; nếu Baal là thiên
chúa, thì hãy theo nó đi!" Dân chúng không thưa lại được lời nào. Êlia nói
tiếp: "Chỉ còn tôi là tiên tri duy nhất của Chúa, mà tiên tri của Baal thì
có đến bốn trăm năm mươi người. Hãy cho chúng tôi hai con bò đực; họ hãy chọn lấy
một con cho họ, xẻ ra từng miếng đặt trên củi, nhưng đừng đốt lửa. Phần tôi,
tôi làm thịt con bò kia, xếp trên củi và cũng không châm lửa. Ðoạn các ông hãy
kêu cầu danh các thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu cầu danh Chúa của tôi. Ðấng
nào đáp lời cho lửa xuống đốt, thì Ðấng ấy là Thiên Chúa". Toàn dân đồng
thanh đáp: "Ðề nghị hay đấy!"
Vậy
Êlia nói với các tiên tri của Baal rằng: "Các ông hãy chọn lấy một con bò
và làm thịt trước đi, vì các ông đông hơn, rồi hãy kêu cầu danh thần của các
ông, nhưng đừng châm lửa". Họ liền bắt con bò người ta trao cho mà làm thịt.
Họ kêu cầu danh Baal từ sáng đến trưa và nguyện rằng: "Lạy thần Baal, xin
nghe lời chúng tôi!" Nhưng chẳng có tiếng đáp, cũng chẳng ai trả lời. Họ
nhảy múa chung quanh bàn thờ họ đã dựng lên. Khi trời đã trưa, Êlia chế diễu họ
rằng: "Hãy gào thét to hơn, vì Baal là một vị thần. Có khi Người đang là
tính công chuyện hoặc đang bận việc, hoặc đi vắng, hay đang ngủ chăng, và sẽ thức
dậy". Họ càng kêu lớn tiếng, lấy gươm giáo rạch mình theo tập tục họ, cho
đến khi mình đầy máu me. Khi đã quá trưa, họ còn đọc thần chú đến giờ dâng lễ vật
thường lệ, nhưng không có tiếng đáp, cũng chẳng có ai trả lời tỏ dấu lưu tâm đến.
Bấy
giờ Êlia nói với toàn dân rằng: "Hãy lại gần tôi". Toàn dân liền đến
gần bên ông. Ông dựng lại bàn thờ Chúa trước kia đã bị phá huỷ. Ông lấy mười
hai hòn đá đúng theo số mười hai chi tộc con cái Giacóp, là kẻ đã được nghe lời
Chúa phán như sau: "Ngươi sẽ gọi là Israel". Ông dùng các hòn đá ấy
làm bàn thờ kính danh Chúa. Rồi ông đào một cái mương, rộng chừng hai đấu hạt
giống, chung quanh bàn thờ; ông xếp củi, xẻ con bò ra từng miếng và đặt trên củi.
Ðoạn ông nói: "Hãy múc đầy bốn hũ nước và đổ trên của lễ toàn thiêu và củi".
Và họ làm như thế. Ông còn dạy: "Hãy làm như vậy một lần thứ hai".
Khi người ta đã làm như ông dạy, ông lại ra lệnh: "Hãy làm như thế một lần
thứ ba". Và họ làm lần nữa. Nước chảy chung quanh bàn thờ, mương đầy nước.
Khi
đã đến giờ dâng của lễ toàn thiêu, tiên tri Êlia tiến ra cầu nguyện rằng:
"Lạy Chúa là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel, xin tỏ ra Chúa là
Thiên Chúa của Israel và con là tôi tớ của Chúa, và chính vì tuân lệnh Chúa
truyền mà con đã làm các việc này. Lạy Chúa, xin nhậm lời con, xin đoái nghe lời
con, hầu cho dân này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa hoán cải lòng họ".
Bấy giờ lửa Chúa giáng xuống thiêu đốt của lễ toàn thiêu, củi, đá và cả bụi đất,
đồng thời cũng hút hết nước trong mương. Trông thấy thế, toàn dân kinh hãi sấp
mặt xuống đất mà nói rằng: "Chúa là Thiên Chúa! Chúa là Thiên Chúa!"
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 15, 1-2a. 4. 5 và 8. 11
Ðáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con
tìm nương tựa Chúa (c. 1).
Xướng:
1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa, con thưa cùng Chúa:
Ngài là chúa tể con. - Ðáp.
2)
Thiên hạ tăng thêm nhiều nỗi đau thương của họ, họ là những kẻ chạy theo các thần
tượng ngoại lai. Con sẽ không dâng lễ quán bằng máu của chúng, cũng không đọc
tên chúng trên môi. - Ðáp.
3)
Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Người nắm giữ vận mạng của
con. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ
không nao núng. - Ðáp.
4)
Chúa sẽ chỉ cho con đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên
nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Alleluia:
Tv 24, 4c và 5a
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con
trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 5, 17-19
"Thầy
không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ
bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì
Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong
bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một
trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người
nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ
được kể là người cao cả trong Nước Trời".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm:
Kiện toàn lề luật
Luật
cơ bản nhất trong đời sống tu trì vốn là luật bác ái và nền tảng của luật này
là sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Sự kiện này tiêu biểu cho chính sự tuân
hành luật lệ trong Giáo Hội. Giáo Hội có luật lệ, nhưng không bao giờ dùng sức
mạnh đe dọa để cưỡng bách người tín hữu tuân hành. Tinh thần đích thực của việc
tuân hành luật lệ trong Giáo Hội chính là tình mến; không có tình mến, thì một
bộ luật, dù hoàn hảo đến đâu, cũng không khác gì một cây khô héo.
Ý
nghĩa và tinh thần ấy của luật lệ, chúng ta có thể đọc được trong Tin Mừng hôm
nay. Những người Biệt phái, nhất là các Luật sĩ, vốn là những người rất trung
thành với lề luật, họ tuân giữ luật lệ không thiếu một chấm, một phết. Nhưng
đàng sau sự trung thành ấy có hàm ẩn tự mãn: họ cho rằng trung thành với lề luật
là đương nhiên trở thành người công chính, và vì nghĩ mình là người công chính,
nên họ lên mặt khinh dễ những người không tuân giữ luật lệ một cách nghiêm chỉnh
như họ.
Chúa
Giêsu không phải là người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người
Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Môsê truyền lại. Chỉ có điều khác biệt
giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự
cho mình là người công chính nhờ tuân giữ lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định
rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ
lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan
báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho lề luật một
tinh thần mới, tức là tình mến.
Luật
lệ vốn là lời loan báo của các tiên tri về Ðấng Cứu thế, do đó luật lệ có tính
tiên tri. Khi chu toàn lề luật, Giáo Hội chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Ngài
chính là Ðấng các tiên tri đã loan báo. Như vậy, một cách nào đó, khi người
Kitô hữu tuân hành lề luật, họ cũng loan báo chính Chúa Kitô, nhưng dĩ nhiên, họ
chỉ có thể loan báo về Ngài khi việc tuân giữ của họ thể hiện được chính tinh
thần của Ngài. Xét cho cùng, đối với người Kitô hữu, tuân giữ lề luật là mặc lấy
tâm tình của Chúa Kitô, là sống như Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài.
Nguyện
xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của
chúng ta và ban sức mạnh để chúng ta chu toàn lề luật của Ngài.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ
Tư Tuần 10 TN2, Năm Chẵn
Bài
đọc: 1 Kgs 18:20-39; Mt
5:17-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết phân biệt những gì thuộc Thiên Chúa
hay thuộc con người.
Sống
trong cuộc đời vàng thau lẫn lộn, sự thật trộn với sự sai lầm, người tín hữu cần
Chúa Thánh Thần để nhận ra sự thật từ biết bao sự sai lầm trong thế gian.
Các
bài đọc hôm nay nêu bật một số nguyên tắc giúp người tín hữu nhận ra sự thật.
Trong bài đọc I, ngôn sứ Elijah bày ra cuộc thi đấu giữa ông và tất cả nhà vua,
450 ngôn sứ của Baal, và toàn thể nhà Israel. Mục đích của ngôn sứ là để cho tất
cả nhận ra đâu là Thiên Chúa đích thực để thờ phượng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu
muốn các môn đệ phân biệt Luật của Thiên Chúa và luật của con người. Luật của
Thiên Chúa thì bất biến trong khi luật của con người có thể thay đổi và bị hủy
diệt.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Nếu Đức Chúa là
Thiên Chúa, các ngươi hãy từ bỏ thần Baal và thờ phượng Người.
1.1/ Vua
chúa và hầu hết con cái Israel chạy theo thần Baal: Con người rất dễ quên và hay thay đổi.
Dưới thời vua Ahab, nhà vua và hầu hết dân chúng đã chạy theo thần Baal của người
Sidon và Canaan. Họ hầu như quên hẳn những gì Thiên Chúa đã làm cho tổ tiên của
họ. Một số những lý do làm cho con người quay lưng với sự thật:
(1) Sự
thật mất lòng: Thiên Chúa đòi con người phải đi con đường hẹp, nhưng con người
lại thích đường rộng rãi thênh thang và cuộc sống dễ dãi. Đa số những người vô
thần không phải họ không biết có Thiên Chúa, nhưng họ sợ nếu tin họ phải giữ
các giới răn của Thiên Chúa, hay ít nhất họ sẽ phải cắn rứt lương tâm khi làm
điều sai trái; vì thế, họ từ chối luôn Chúa để dễ dàng phạm tội. Đã không tin
Thiên Chúa thì chớ, nhiều khi họ còn khó chịu khi thấy người khác biểu tỏ niềm
tin vì làm cho lương tâm của họ bị cắn rứt; nên họ nhân danh tự do để đòi chính
phủ phải cấm luôn những biểu lộ này. Thật vô lý khi họ được tự do để sống vô thần
nhưng lại bắt các người khác không được sống hữu thần!
(2)
Lý do chính trị: Vua Israel, sau khi đất nước bị chia đôi, không muốn dân của
mình xuống Jerusalem tham dự các lễ nghi, vì sợ họ nếu cứ xuống đó, sẽ theo vua
Judah thì sẽ mất dân; nên nhà vua đã cho làm hai tượng bò vàng bắt dân thờ: một
tượng đặt ở Bethel giữa biên giới của hai vương quốc Israel và Judah, tượng kia
đặt ở Dan giữa biên giới của Israel với Syria.
(3) Lợi
nhuận và hưởng thụ vật chất: Quỉ thần và thế gian biết chiếc mồi hiệu nghiệm nhất
cho con người là tiền của. Với sức mạnh của đồng tiền cám dỗ, ít người có thể
thắng nổi.
(4)
Chiều theo ý của người khác: Nhiều người biết sự thật nhưng không có can đảm để
sống theo sự thật. Vua Ahab chiều theo ý của bà hoàng Jezebel vì sợ phật lòng mỹ
nhân. Một số con cái chiều theo ý của cha mẹ không dám theo đạo hay đi tu vì sợ
mang tội bất hiếu.
1.2/ Cuộc
thi đấu giữa ngôn sứ Elijah và 450 ngôn sứ của Baal
(1) Đề
nghị của ngôn sứ Elijah: Để chứng tỏ đâu là Thiên Chúa thật, ngôn sứ Elijah đề
nghị cách thức giải quyết bằng cách mỗi bên lập đền thờ của mình, sát tế bò làm
của lễ nhưng không đốt lửa, rồi kêu cầu với Thiên Chúa của mình. Thần nào cho lửa
thiêu xuống đốt của lễ, đó là thần thật mà mọi người phải thờ phượng. Đây là:
+ Một
đề nghị can đảm: Chỉ một mình ngôn sứ Elijah chống lại vua Ahab, 450 ngôn sứ của
Baal, và tất cả con cái Israel, để làm chứng cho sự thật. Elijah mời gọi tất cả
phải xét lại niềm tin vô lý của họ: “Các ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho tới
bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, hãy theo Người; còn nếu là Baal thì cứ
theo nó!”
+ Một
đề nghị rất táo bạo: nhưng nói lên niềm tin vững mạnh của ngôn sứ Elijah vào
Thiên Chúa. Nếu kết quả không như nguyện ước, ngôn sứ sẽ mất mạng vào tay vua
Ahab và các ngôn sứ của Baal.
+ Một
đề nghị rất hữu hiệu: Chẳng gì hữu hiệu cho bằng mắt thấy tai nghe. Đề nghị này
chẳng những giúp con cái Israel nhận ra uy quyền của Thiên Chúa, mà còn thấy sự
vô hiệu của việc thờ các thần khác.
1.3/ Kết
quả cuộc thi đấu
(1) Cố
gắng của 450 ngôn sứ của Baal: Họ kêu cầu danh thần Baal từ sáng tới trưa:
"Lạy thần Baal, xin đáp lời chúng tôi!" Nhưng không một tiếng nói,
không một ai trả lời, và họ nhảy khập khiễng bên cạnh bàn thờ họ đã dựng. Theo
thói tục của họ, họ dùng gươm, giáo rạch mình đến chảy máu. Quá trưa rồi mà họ
vẫn tiếp tục nói liên miên cho tới giờ dâng lễ; nhưng vẫn không một tiếng nói,
không ai trả lời, không người để ý. Trả lời sao được khi Baal chỉ là sản phẩm
tưởng tượng do con người làm ra!
(2)
Elijah chứng tỏ quyền năng của Thiên Chúa: Đến giờ dâng lễ, ngôn sứ Elijah tiến
ra và nói: "Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel! Ước chi
hôm nay người ta biết rằng trong Israel Ngài là Thiên Chúa và con là tôi tớ
Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc này. Xin đáp lời con,
lạy Đức Chúa, xin đáp lời con, để dân này nhận biết Ngài là Đức Chúa, Thiên
Chúa thật, và Ngài đã khiến họ thay lòng đổi dạ." Bấy giờ lửa của Đức Chúa
ập xuống, thiêu rụi của lễ, củi, đá và bụi, cả nước trong mương cũng hút cạn
luôn. Toàn dân thấy vậy, liền phủ phục sát đất và nói: "Đức Chúa quả là
Thiên Chúa! Đức Chúa quả là Thiên Chúa!"
2/
Phúc Âm: Ai tuân hành và dạy
làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.
Tất cả
Luật và Lời Thiên Chúa phán ra đều tốt lành và muôn đời không đổi vì phát xuất
từ Thiên Chúa và có khả năng giúp con người sống tốt lành; nhưng vấn đề là ở
phía con người. Chúa Giêsu xác quyết: "Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ
Luật Moses hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để
kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một
phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” Một
số những lý do làm con người hiểu sai Luật của Thiên Chúa:
(1)
Không hiểu nguyên tắc của Lề Luật và phiên dịch Luật theo ý mình: Ví dụ: Luật
ngày Sabbath. Nguyên tắc là để con người nghỉ ngơi và thờ phượng Chúa; chứ
không phải để tranh luận trong những vấn đề liên quan đến sự sống như: có nên
chữa bệnh nhân trong ngày Sabbath, có nên bứt bông lúa để ăn cho khỏi đói, vì
đó thuộc lãnh vực bảo vệ sự sống.
(2) Tạo
thêm nhiều Luật khác: Những nhà làm luật của Do-thái tạo thêm 615 luật từ những
Luật Chúa ban cho Moses, ấy là chưa kể những luật bất thành văn (truyền khẩu)
vì vô tình hay vì lợi nhuận (định nghĩa thế nào là của lễ thanh sạch). Những luật
do con người làm ra có thể thay đổi hay hủy bỏ.
Khi
Chúa tranh luận những việc liên quan đến Luật, Chúa muốn con người nhận ra đâu
là Luật của Thiên Chúa và đâu là luật của con người. Các kinh sư tranh luận với
Chúa muốn đánh lừa mọi người để kết tội Chúa như người phá bỏ Luật của Thiên
Chúa. Ngài cũng muốn cho họ nhận ra nguyên lý đứng đang sau là tình yêu của
Thiên Chúa dành cho con người, chứ không giữ cách vụ luật.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chân lý không bao giờ lệ thuộc vào số đông người vì số đông có khuynh hướng
tương đối hóa chân lý theo sở thích. “Gió chiều nào che chiều đó” sẽ không bao
giờ dẫn con người tới đích điểm.
-
Chúng ta đừng dễ dàng chạy theo sở thích của đám đông, nhưng phải bảo vệ những
gì chân thật và tốt lành. Chúng ta phải sống làm sao để đạt mục đích cuộc đời
chứ không theo những đòi hỏi của thế gian và xác thịt.
LM. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
08/06/16 THỨ TƯ TUẦN 10 TN
Mt 5,17-19
Mt 5,17-19
Suy niệm: Chúa Giê-su không đến để hủy bỏ “Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ” là những điều được dạy trong Cựu Ước. Ngài đến trong thế gian để thực hiện điều Thiên Chúa đã hứa và các ngôn sứ đã báo trước trong Cựu ước, đó là hoàn thành sứ mạng của Đấng Mê-si-a, Đấng Cứu Chuộc thế gian. Thật vậy, Chúa Giê-su sinh ra trong một gia đình Do Thái yêu mến Lề Luật. Thánh cả Giu-se, “người công chính”, cùng với Đức Ma-ri-a, người “đẹp lòng Thiên Chúa” luôn chu
toàn Lề Luật. Nếu như sự bất tuân của A-đam và E-và đã đem sự chết đi vào thế gian, thì Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa theo như sách Luật dạy, đã đem lại sự sống cho toàn thể nhân loại. Trong Cựu Ước, con chiên dùng để tế lễ phải là con chiên không tì vết, thì chính Chúa Giê-su là
“Con Chiên vẹn toàn, vô tì tích” (1Pr 1,19),
là Đấng tự nguyện làm lễ tế cứu độ dân mình. Cuộc đời của Chúa Giê-su hoàn tất những gì đã nói về Ngài trong Cựu Ước; và Lề Luật chỉ nhờ Ngài mới có được đầy đủ ý nghĩa. Chính vì lý do đó mà
động từ “kiện toàn” được sách Tin Mừng thánh Mát-thêu sử dụng 14 lần nhằm nhấn mạnh vai trò kiện toàn Lề Luật của Chúa Giê-su.
Mời Bạn: Những điều Chúa dạy trong Thánh Kinh được bạn thực hiện đến mức nào? Bạn làm ở mức tối thiểu hay ở mức cao nhất?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày làm một việc theo lời Chúa dạy với tinh thần vâng phục cao độ.
Cầu nguyện: Lạy Thánh Tâm Chúa Giê-su, xin hãy làm
chủ tâm hồn con và cho con say mê thực hiện thánh ý Chúa.
Để kiện toàn
Đức Giêsu mời chúng ta tuân giữ nghiêm túc Luật Thiên Chúa
đã ban, nhưng theo cách giải thích mới mẻ, hoàn chỉnh và có thẩm quyền của Ngài.
Suy
niệm:
Đã có
thời người ta nghĩ rằng theo Công giáo là bất hiếu,
vì phải
từ bỏ việc cúng giỗ cha mẹ tổ tiên.
Nếu
người chết cũng có nhu cầu ăn uống tiêu dùng như người sống,
thì
hiếu thảo đòi phải lo cho người đã khuất được đầy đủ, ấm no.
Nhiều
người không dám theo đạo,
vì sợ
theo đạo thì không được cúng giỗ tổ tiên, phải bỏ ông bà.
Vào
thời thánh Mátthêu, một số người Do thái cũng có nỗi sợ tương tự.
Họ
tin vào Đức Giêsu và muốn trở thành môn đệ của Ngài,
nhưng
họ lại sợ làm thế là bỏ đạo của cha ông, bỏ Do thái giáo.
Họ sợ
giáo huấn mới mẻ của Đức Giêsu làm họ bỏ Luật Môsê,
và
không còn thuộc về dân Thiên Chúa nữa.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu khẳng định:
“Đừng
tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.
Thầy
đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (c. 17).
Luật
Môsê thật ra là Luật của Thiên Chúa trao qua trung gian ông Môsê.
Môsê
đã làm nhiệm vụ trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy.
Người
Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê.
Bây
giờ có một Đấng mới xuất hiện, là Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.
Ngài
biết rõ ý định của Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.
Đức
Giêsu không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê.
Nhưng
Ngài sẽ giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa,
vì chẳng
ai biết rõ ý Cha bằng Con.
Trong
Bài Giảng trên núi mà ta sắp nghe trong những ngày tới,
ta sẽ
thấy Đức Giêsu giải thích lại Luật Môsê như thế nào.
Hành
vi đó được gọi là kiện toàn hay hoàn chỉnh.
Một
giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ đã được mở ra với Đức Giêsu.
Giai
đoạn chung cục này vừa liên tục, vừa vượt quá giai đoạn cũ.
Đức
Giêsu mời chúng ta tuân giữ nghiêm túc Luật Thiên Chúa đã ban,
nhưng
theo cách giải thích mới mẻ, hoàn chỉnh và có thẩm quyền của Ngài.
Muốn
trở nên hoàn thiện, muốn đón nhận Nước Trời do Ngài khai mở,
cần sống
Luật Tôra đã được Ngài giải thích lại.
Người
Kitô hữu gốc Do thái khi theo Đức Giêsu thì chẳng sợ mình bỏ đạo,
bỏ Lề
Luật, bỏ các Ngôn sứ hay truyền thống của cha ông
Giáo
huấn của Đức Giêsu đã chứa đựng cốt lõi tinh túy của Luật ấy rồi.
Làm
thế nào để các Kitô hữu Á Châu cảm thấy đức tin của mình
không
tạo ra sự xung đột hay đoạn tuyệt
với
những giá trị của nền văn hóa mình đã lãnh nhận và đã sống?
Làm
sao để mình sống viên mãn là một Kitô hữu, một người Công Giáo Rôma,
mà vẫn
chẳng mất căn tính là người Việt Nam hay người Châu Á?
Chỉ cần
một điều kiện, đó là thấy Kitô giáo không phá bỏ, nhưng kiện toàn
tất cả
mọi giá trị cao quý có trong các nền văn hóa và tôn giáo khác.
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa
đã muốn trở nên con của loài người,
con
của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa
vẫn yêu mến dân tộc của Chúa
dù
họ từ khước Tin Mừng
và
đóng đinh Chúa vào thập giá.
Xin
cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một
quê hương còn nghèo nàn lạc hậu
sau
những năm dài chiến tranh,
một
quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng
lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc
và
bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin
cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong
sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng
biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và
làm một điều gì đó thật cụ thể
cho
những đồng bào quanh chúng con.
Ước
gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng
khối óc, quả tim và đôi tay.
Và
ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng
tác với muôn người thiện chí.
Lm
Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
08
Tháng Sáu
Mẹ Chúng Ta
Một
ngày kia, thánh Gioan Bosco rao giảng về vinh quang của Mẹ Maria tại nhà thờ
chính tòa Torino. Giữa lúc đang thao thao bất tuyệt, ngài bỗng dừng lại thinh lặng
một hồi lâu rồi đặt câu hỏi với cử tọa như sau: "Ai trong anh chị em có thể
nói cho tôi biết Ðức Mẹ là ai?"
Thánh
nhân phải lập lại câu hỏi đó đến ba lần mới nghe được một tiếng trả lời yếu ớt
từ phía cuối nhà thờ như sau: "Thưa Cha, Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa".
Thánh Gioan Bosco gật đầu nói tiếp: "Ðúng thế, Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa,
nhưng nói thế vẫn chưa đủ. Tôi muốn anh chị em kể hết những tước hiệu của Mẹ
Maria". Liền sau đó, cử tọa liền kể ra tất cả những tước hiệu của Mẹ: Mẹ
là cửa Thiên Ðàng, Mẹ là Ðấng an ủi những kẻ có tội, Mẹ là Ðấng phù trợ các tín
hữu, Mẹ là Ðấng cứu chữa kẻ bệnh tật v.v...
Sau
khi nghe kể hết những tước hiệu mà người ta gán cho Ðức Maria, thánh Gioan
Bosco mỉm cười nóitiếp: "Ðức Maria là tất cả những gì anh chị em vừa kể
ra, nhưng vẫn chưa hết. Tôi muốn noid thêm về Ðức maria...".
Chờ
mãi vẫn không thấy có câu trả lời nào, thánh nhân mới nói: "Tôi xin được
nói với anh chị em Ðức Maria là ai: Ngài là Mẹ chúng ta. Phải, Mẹ chúng ta. Ðó
là điều đáng nói nhất về Mẹ Maria. Trên trần gian này, không ai có thể gần gũi
thiết thân với chúng ta cho bằng Mẹ chúng ta, không ai yêu thương chúng ta hơn
Mẹ chúng ta. Cũng thế trên Thiên Ðàng không có vị thánh nào yêu thương chúng ta
và sẵn sàng lắng nghe chúng ta cho bằng Mẹ Maria...".
Chính
lúc Ðức Maria đứng câm lặng dưới chân thập giá, mà Chúa Giêsu đã long trọng trối
phó Ngài cho thánh Gioan và đồng thời cũng trao phó thánh Gioan cho Mẹ.
Sự
sinh nở nào cũng diễn ra trong đớn đau. Chính trong niềm đau tột cùng của những
giây phút đứng kề bên thập giá Chúa Giêsu mà Ðức Maria mới sinh hạ chúng ta, đã
trở thành Mẹ của chúng ta. Thánh Gioan cũng tiếp nhận Mẹ trong niềm hiệp thông
sâu xa vào thập giá của Chúa Giêsu.
Thập
giá là nguồn ơn cứu rỗi, nhưng mãi mãi vẫn là biểu trưng của tội ác. Sự độc ác
tột cùng mà người Do Thái và La Mã ngày xưa đã trút xuống trên Chúa Giêsu qua
thập hình, ngày nay vẫn còn được con người tiếp diễn dưới muôn hình thức khác.
Tựu trung khi con người chối bỏ chính mình, khi con người trà đạp người khác,
thì đó là lúc con người dựng thêm những thập giá mới.
Thập
giá vẫn luôn có mặt trong cuộc sống con người như một nhắc nhở về tội ác của
mình. Kết hiệp với Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài chính là cố gắng chiến
đấu chống lại tội lỗi.
Sứ điệp
của Ðức Maria trong tất cả những lần hiện ra đều có chung một nội dung: đó là
kêu gọi loài người ăn năn sám hối, cải thiện cuộc sống. Cũng như ngày xưa, đứng
dưới chân thập giá Chúa Giêsu, Mẹ đã câm lặng nuốt từng nỗi đớn đau, ngày nay
khi nhìn thảm cảnh của những người con cái đang chối bỏ lẫn nhau, đang chém giết
nhau, đang đóng đinh nhau, Mẹ cũng bày tỏ một niềm đau.
Lẽ Sống





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét