Trang

Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2016

12-06-2016 : (phần II) CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN năm C

12/06/2016
Chúa Nhật tuần 11 thường niên năm C
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật XI Thường Niên - Năm C
CHÚA NHẬT XI
MÙA THƯỜNG NIÊN NĂM C
2 Sm 12,7-10.13; Gl 2,16.19-21
Lc 7, 36-50
Chủ đề:
NIỀM HẠNH PHÚC
KHI ĐƯỢC THIÊN CHÚA THA THỨ
“Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha,
bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.”
(Lc 7,47)
“Hạnh phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ,
Người có tội mà được khoan dung.”
(Tv 31,1)
Thánh Vịnh 31 được kể là thánh vịnh “của vua Đavit”, một cụm từ được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: 1/ Thánh vịnh này do chính vua Đavit viết ra; 2/ Thánh vịnh do một thi nhân viết ra, nhưng được gán cho vua Đavit; 3/ Thánh vịnh do một thi nhân hay một nhóm thi nhân viết ra, được khởi hứng từ chính kinh nghiệm của vua Đavit. Nhưng dù hiểu theo nghĩa nào đi nữa, thì thánh vịnh này cũng phản ánh được niềm vui không thể không thốt nên lời của một tội nhân trước mặt Thiên Chúa, dù người này là vua Đavit hay chỉ là thường dân, khi người này nghiệm được tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa đối với mình.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài Đọc 1: 2 Sm 12,7-10.13
Thiên Chúa trong bài đọc 1 là một Thiên Chúa công bình khi xét xử, nhưng cũng là Đấng giàu lòng xót thương với kẻ có tội biết ăn năn. Thiên Chúa ấy không làm ngơ trước tội lỗi của những kẻ đang nắm giữ quyền cao chức trọng như vua Đavit. Người đã sai ngôn sứ Nathan đến “vạch mặt chỉ tên” những tội lỗi nghiêm trọng vua đã phạm. Qua vị ngôn sứ của mình, trước tiên, Thiên Chúa đã cho vua thấy những điều tốt đẹp Người đã làm cho vua Đavit, phát xuất từ lòng ưu ái của Người dành cho vua:
•           Người đã xức dầu phong vương cho Đavit, khi Đavit còn là kẻ chăn chiên.
•           Người đã bao lần giải thoát Đavit khỏi tay vua Saul, vốn do lòng ghen tị mà hay tìm cách sát hại Đavit.
•           Người đã trao vương quốc thống nhất với 12 chi tộc Israel vào tay vua Đavit.
•           Nếu vua muốn thêm điều gì chính đáng, Người cũng sẵn lòng ban cho.
Nhưng sự thật đáng buồn là vua Đavit, theo lời của vị ngôn sứ, đã khinh dể lời Thiên Chúa và dám làm điều dữ trái mắt Người:
•           Vua đã chủ mưu sát hại tướng Uriah. Vua đã ném đá dấu tay khi dùng người Ammon mà sát hại vị tướng này.
•           Vua đã cướp vợ của tướng Uriah làm vợ của mình.
Vua Đavit, với hai trọng tội này, phải đối diện với một phán quyết nghiêm minh của Thiên Chúa: “Từ nay, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi”. Tội của vua là duyên cớ gây ra bao đổ vỡ nghiêm trọng trong chính gia đình của vua sau này: anh quan hệ bất chính với em; anh em sát hại nhau; con nổi lên chống lại cha mình; anh em tranh giành quyền lực với nhau (x. 2 Sm 13-18; 1 V 1-2).
Nhưng chính trong bài đọc 1 này, chúng ta cũng cảm nghiệm được tấm lòng xót thương của Thiên Chúa đối với kẻ có tội. Một khi vua Đavit thú nhận tội lỗi của mình cách công khai: “Tôi đắc tội với Đức Chúa”, Thiên Chúa, qua lời ngôn sứ Nathan, đã tỏ lòng nhân hậu với vua: “Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội lỗi của ngài; ngài sẽ không phải chết”. Hơn ai hết, chính vua Đavit là người cần thốt nên lời niềm hạnh phúc trong tâm hồn mình: “Hạnh phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung”.
2. Bài Đọc 2: Gl 2,16.19-21
Đoạn Kinh Thánh này được hiểu như một bài suy tư thần học của thánh Phaolô về ơn công chính hóa, theo đó, chúng ta được trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa là nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng đã yêu mến và hiến mạng sống mình vì chúng ta. Cách hiểu này cũng được thánh Phaolô khai triển trong thư gửi tín hữu Roma (x. Rm 3,24.28; 5,1.9; s.s Gl 3,11.24).
Nhờ tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, được thể hiện đặc biệt trong cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người, mà người tín hữu được ơn công chính hóa. Tình yêu của Chúa Giêsu hiện thực hóa cách sống động và cao đẹp tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, ngay cả khi chúng ta không xứng đáng lãnh nhận: “Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, [theo đó], Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những tội nhân” (Rm 5,8).
Nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô, chứ không phải nhờ thực thi những gì Luật dạy, mà chúng ta trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa. Qua câu khẳng định này, thánh Phaolô muốn nhấn mạnh đến vị thế trổi vượt của Chúa Giêsu Kitô, xét về phương diện cứu độ, so với Luật Cựu Ước mà Thiên Chúa đã ban cho dân Israel. Lời dạy này của thánh Phaolô, thực ra, không mâu thuẫn hay loại trừ cách hiểu của thánh Giacôbê về giá trị của “hành động”: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin thì nào có lợi ích gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?” (Gc 2,14), hay “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17).
Quả thực, thánh Phaolô không dạy chúng ta chỉ tin thôi là đủ rồi, không cần phải thể hiện niềm tin ấy qua việc từ bỏ con người cũ với đầy tính đam mê xác thịt, và đồng thời thực hiện những việc bác ái yêu thương đối với mọi người. Trái lại mới đúng, một đàng thánh Phaolô dạy chúng ta rằng “những ai thuộc về Đức Kitô thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (x. Gl 5,24). Ngài liệt kê không dưới 15 hành vi do tính xác thịt có thể gây ra cho chúng ta: “dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, chia rẽ, tranh chấp, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gl 5,19-20). Đàng khác, thánh nhân mời gọi người tín hữu “hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau” (Gl 5,13), “hãy sống theo Thần Khí” (Gl 5,16), “để cho Thần Khí hướng dẫn” (Gl 5,18), hầu có thể sinh ra các hoa trái: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23).
3. Bài Tin Mừng: Lc 7, 36-50
Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy người phụ nữ “tội lỗi”, hầu chắc do đã cảm nghiệm được tình yêu thương tha thứ bao la của Thiên Chúa dành cho mình, nên đã không ngần ngại diễn tả sự tôn kính dành cho Chúa Giêsu, vượt xa cách diễn tả thông thường của lòng hiếu khách. Chị như đang diễn tả ra bên ngoài niềm hạnh phúc sâu xa của “kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung”.
Trước việc người chủ nhà có lối suy nghĩ khá gay gắt với Chúa Giêsu, đồng thời xem thường người phụ nữ “tội lỗi” – “Nếu quả thật vị này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi” – Chúa Giêsu trước tiên đã dùng dụ ngôn mà chỉ cho ông thấy: trong hai người mắc nợ, người nợ nhiều hơn, một khi được tha, thì theo lẽ thường sẽ yêu mến chủ nợ nhiều hơn kẻ nợ ít.
Tiếp đó, Chúa Giêsu cho ông này hay, ông đã không có những cử chỉ hay hành động cần thiết để tỏ lòng hiếu khách đối với Chúa: nước lã, ông không đổ lên chân Chúa; ông chẳng hôn chào Chúa; dầu ô-liu ông cũng không đổ lên đầu Chúa. So với những gì người phụ nữ “tội lỗi” đã làm – lấy nước mắt tưới ướt chân Chúa, rồi lấy tóc mình mà lau; không ngừng hôn chân Chúa; lấy dầu thơm mà đổ lên chân Chúa – thì quả thật ông Simon, chủ nhà, đã không tỏ lòng tôn kính hay yêu mến Chúa Giêsu bằng chị này. Thân là chủ nhà mà ông Simon lại không tỏ lòng yêu mến Chúa bằng một người phụ nữ “tội lỗi” từ ngoài vào.
Theo logic của dụ ngôn, tức là kẻ được tha nhiều hơn sẽ yêu mến nhiều hơn, tiếp theo bằng việc so sánh hành vi tỏ lòng tôn kính của người phụ nữ với những gì ông Simon đã không làm, Chúa Giêsu một đàng cho ông Simon, những người đồng bàn, và chúng ta thấy Người trân trọng những gì chị phụ nữ đã thực hiện cho Người, vốn thể hiện lòng yêu mến và tôn kính dành cho Người; đàng khác, Người cũng thấy lý do đứng đằng sau hành vi tôn kính đặc biệt này của người phụ nữ. Chị đã làm như vậy, vì chị đã nghiệm được sự tha thứ của Thiên Chúa trước đó.
Những gì chị đã thực hiện cho Chúa Giêsu, theo logic của trình thuật Tin Mừng, hầu chắc không phải để mong được tha tội, cho bằng để diễn tả tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Nơi chị, một khi đã cảm nghiệm được tình thương mà Thiên Chúa dành cho mình, vốn là “một tội nhân trong thành”, tức là một tội nhân công khai, hầu như ai trong thành cũng biết đến, thì không có lối diễn tả nào xứng hợp hơn là lấy nước mắt tưới ướt chân Chúa Giêsu, lấy tóc mình mà lau chân Chúa, ôm chân Chúa và lấy dầu thơm mà xức chân Người.
Người chủ nhà Pharisêu chỉ thấy những hành vi bên ngoài của chị, khó chịu với những hành vi của chị vì sự khác thường của chúng, và nhất là khi thấy chị, thân là người tội lỗi công khai mà lại dám “đụng chạm” như vậy vào vị khách quí của mình. Nhưng người Pharisêu không thể hiểu được động lực sâu xa của những hành vi này. Chỉ có Chúa là Đấng thấu suốt tâm can con người mới thấy hết được ý nghĩa của những việc chị làm. Những gì chị thực hiện cho Chúa Giêsu là để diễn tả tâm tình tri ân Thiên Chúa vì Người đã tha tội cho chị.
Người càng có nhiều tội, mà lại được Thiên Chúa tha thứ, thì lại càng có lý do để diễn tả lòng cảm mến Thiên Chúa cách ngoại thường. Và một khi chúng ta càng bày tỏ lòng tôn kính và yêu mến Thiên Chúa, thì chúng ta càng có lý do tin rằng Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ tội lỗi và thiếu xót của chúng ta, dù chúng nhiều đến thế nào chăng nữa.
II. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng thương xót, Người luôn yêu thương và sẵn sàng tha thứ khi người tội lỗi lầm lạc biết sám hối quay về. Chúng ta hãy trông cậy vào lòng Chúa thương xót và tin tưởng dâng lời cầu xin.
1. Chúa Giêsu đã trao quyền tha tội và ban phát ân sủng cho Hội Thánh. Chúng ta cùng cầu xin cho các vị chủ chăn biết gắn bó và noi gương Thầy Chí Thánh, luôn mang dung mạo hiền lành nhân hậu của Người khi thực thi sứ vụ.
2. Hận thù và bạo lực đang là nguy cơ gây ra những bất ổn xã hội tại nhiều nơi. Chúng ta cùng cầu xin cho các nhà lãnh đạo trên thế giới luôn ý thức và nỗ lực tìm kiếm những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ công lý và gìn giữ hòa bình.
3. Chúa Giêsu nói với người phụ nữ “Tội con đã được tha rồi.” Chúng ta cùng cầu xin cho những ai đang sống trong tình trạng tội lỗi, được ơn Chúa thức tỉnh, biết hồi tâm quay về với Thiên Chúa để đón nhận ơn tha thứ và vui sống trong an bình.
4. “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn xác tín như thánh Phaolô, mỗi ngày trở nên giống Đức Kitô hơn trong lối sống yêu thương tha thứ.
Chủ tế: Lạy Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và hay tha thứ, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và giúp chúng con biết can đảm tránh xa dịp tội và luôn sống theo thánh ý Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
www.tgpsaigon.net

SCĐ CHÚA NHỰT XI TN C
Chủ đề :
Lòng tha thứ của Chúa

"Tội của chị đã được tha rồi"  (Lc 7,48)
Sợi chỉ đỏ :
Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa :
- Bài đọc I : Vua Đavít phạm tội nhưng sám hối và được tha.
- Bài Tin Mừng : Chúa Giêsu tha tội cho người phụ nữ sám hối.

I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Đôi khi vì mặc cảm tội lỗi mà chúng ta xa lìa Thiên Chúa. Chúng ta nói "Tôi đã phạm tội, tôi không xứng đáng nữa". Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy một người tội lỗi đã dám đến với Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu nói với chị : "Tội của con đã được tha. Con hãy về bình an".
Vậy mặc dù chúng ta tội lỗi, nhưng chúng ta hãy đến với Chúa và hãy tin chắc rằng Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta.

II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta chưa tin tưởng đủ vào lòng nhân từ tha thứ của Chúa.
- Chúng ta không siêng năng lãnh nhận bí tích Giải tội.
- Chúng ta không sớm đứng dậy sau mỗi lần sa ngã.

III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (2 Sm 12,7.10-13)
Có 3 ý tưởng lớn trong đoạn này :
- Tội của Đavít rất nặng : trước tiên là tội ngoại tình (với Bétsabê) ; kế đến là tội giết người, mà đó lại là một người vô tội (Uria chồng của Bétsabê).
- Tội này còn rất đáng trách vì Đavít đã được Thiên Chúa ban cho rất nhiều ơn sủng.
- Đavít nhìn nhận tất cả tội lỗi mình và xin Chúa tha thứ. Chúa thấy Đavít biết ăn năn nên đã tha thứ ngay.

2. Đáp ca (Tv 31)
Tv này nhấn mạnh đến lòng tha thứ hơn là đến tội lỗi : "Hạnh phúc thay kẻ lỗi lầm mà được thứ tha, người có tội mà được khoan dung".

3. Tin Mừng (Lc 7,36--8,3)
Bài Tin Mừng hôm nay gồm 2 đoạn và đều nói tới phụ nữ :
1. Chuyện người đàn bà tội lỗi lau chân Chúa Giêsu (7,36-50) :
- Nàng là một người tội lỗi nổi tiếng, "trong thành ai cũng biết"
- Nàng bày tỏ lòng sám hối rất công khai : a/ trong một bữa tiệc, trước mặt nhiều người ; b/ không tiếc bình dầu thơm quý giá (khoảng 300 đồng, tương đương với 10 tháng lương) ; c/ quỳ gối dưới chân Chúa Giêsu, khóc nức nở, xổ tóc ra (một cử chỉ có thể bị kết án là tự làm ô nhục), lấy tóc lau chân Chúa.
Câu nói của Chúa Giêsu có thể dùng tóm lược chính xác câu chuyện đời nàng : "Tội nàng nhiều nhưng được tha hết vì nàng yêu mến nhiều"
2. Bảng tóm lược những người đi theo Chúa Giêsu trên bước đường rao giảng Tin Mừng : những người này gồm có Nhóm 12 và cả các phụ nữ, trong số đó có người đã từng bị tà thần khống chế, có người bình dân và người quyền quý. Các bà giúp Ngài bằng công sức và bằng của cải nữa.

4. Bài đọc II (Gl 2,16.19-21) (Chủ đề phụ)
Đoạn này chứa đựng ý tưởng chính của toàn thể bức thư gởi tín hữu Galát : con người được nên công chính (được cứu độ) nhờ đức tin chứ không phải nhờ tuân giữ lề luật.

IV. Gợi ý giảng
* 1. Để được thứ tha
Bài đọc Cựu ước trích từ sách tiên tri Samuel hôm nay nhắc lại trường hợp phạm tội của vua Đavít. Có thể nói vua Đavít đã phạm tội rất khéo, phạm tội mà hầu như không ai biết, cho nên mọi người vẫn coi vua như một người thánh thiện gương mẫu. Mà tội của Đavít rất nặng : ông đã ngoại tình với vợ của tướng Uria, sau đó lại dùng âm mưu thâm độc để giết chết Uria hòng che dấu tội mình, rồi công khai cưới bà vợ góa ấy làm vợ mình, sau đó lại gian dối che dấu tội lỗi trước mặt tiên tri Natan. Rõ ràng đó là một tội nặng, rất nặng.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đưa ra một người tội lỗi nữa : đó là một người đàn bà có lẽ hành nghề mãi dâm. Nghề đó chẳng những đem lại tội cho bà, mà còn làm cho nhiều người đàn ông khác phạm tội, và còn có thể làm tan nát nhiều gia đình nữa. Đây cũng là một tội nặng, rất nặng.
Nhưng cả hai người tội rất nặng đó đều đã được tha, tha rất dễ dàng và nhanh chóng. Vua Đavít nói với tiên tri Nathan "Tôi đã phạm tội cùng Chúa", thì Natan đáp ngay "Chúa đã tha tội cho vua rồi". Còn người đàn bà kia quỳ khóc dưới chân Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu nói với chị "Tội con đã được tha rồi".
So sánh trường hợp tội lỗi của hai nhân vật trên với trường hợp tội lỗi của chúng ta, chúng ta cảm thấy an tâm. Trong chúng ta đây, mặc dù ai cũng đều có tội, nhưng không ai tội nặng bằng hai người đó : Có ai trong chúng ta quá tệ đến nỗi ngoại tình, rồi giết chồng để đoạt vợ người ta ? Có ai trong chúng ta tệ đến nỗi hành nghề mãi dâm và tai tiếng cả thành phố ? Những tội hết sức nặng nề của hai nhân vật ấy mà còn được Chúa tha thứ một cách hết sức dễ dàng và nhanh chóng thì huống chi là những tội của chúng ta ! Vì thế mà chúng ta thấy an tâm.
Nhưng rồi chúng ta lại lo ngại, lo ngại vì chính sự an tâm đó ! Tại sao ? Thưa chính vì mình an tâm mà mình đâm ra coi thường những tội của mình, không coi đó là tai hại bao nhiêu, cho nên không ăn năn thống hối, không quyết tâm từ bỏ.
Chúng ta hãy nhớ lại những tội mà chúng ta thường phạm và thường xưng. Có những tội chúng ta xưng thì cứ xưng nhưng trong thâm tâm thì lại coi thường và xưng xong thì vẫn cứ phạm. Những lần xưng tội sau thì cũng vẫn bấy nhiêu tội đó. Thậm chí nếu thấy có Cha ngồi sẵn trong tòa giải tội là chúng ta có thể bước vào xưng ngay không cần mất giờ xét mình, vì ta đã thuộc lòng các tội ta quen phạm rồi !
Ở đây không có ý nói tới những tội quá vặt vảnh như đọc kinh ngủ gục lo ra, giận hờn, bỏ đọc kinh hôm mai vv… mà có ý nói tới một số tội có sức tác hại nhiều hơn, chẳng hạn như say sưa (đánh chửi vợ con), cờ bạc, nói hành nói xấu (làm hại danh dự người khác) ăn cắp vặt, ăn cắp của công, buôn bán gian lận vv. Những tội này khi ta phạm thì chẳng những có hại cho chính bản thân mình mà còn có hại cho nhiều người khác nữa. Vậy mà chúng ta rất coi thường chúng, chúng ta phạm hoài, lần xưng tội nào cũng có những tội đó.
Tội của Đavít, tội của người nữ mãi dâm kia dù rất nặng nề nhưng vì hai người đã nhìn nhận mức độ nặng nề của nó và thành tâm thống hối nên đã được Chúa tha. Còn những tội của chúng ta, tuy không nặng nề bằng nhưng nếu ta không nhìn nhận sự tai hại của chúng và không thống hối thì dù nhẹ cũng không được tha !
Xin trở lại với một số tội vừa kể ra ở trên :
- Tội say sưa : đâu có phải chỉ hại cho riêng mình, mà còn làm hao tốn tiền bạc lẽ ra dành cho gia đình, còn kích thích mình gây gỗ với bạn bè lối xóm, đánh chửi vợ con, đập phá đồ đạc trong nhà, biết bao nhiêu người bị phiền vì mình say sưa…
- Tội cờ bạc : cờ bạc là bác thằng bần, nó làm cho gia đình nghèo túng, nó gây xích mích lục đục trong gia đình, nó xúi người ta trộm cắp, nó làm gương xấu cho trẻ em…
- Tội ăn cắp vặt, ăn cắp của công, làm ăn gian lận : rõ ràng là có hại cho những người bị mất của, bị gian lận ; ngoài ra còn có hại là từ việc mất công bình nhỏ dần dần đưa ta đến mất công bình lớn hơn.
- Tội nói hành nói xấu người khác : không chỉ là tội cho bản thân mình mà còn làm sức mẻ danh thơm tiếng tốt của người khác. Tội này đòi ta phải bồi thường danh dự, cũng như tội trộm cắp đòi ta phải bồi thường những thiệt hại vật chất đã gây ra.
Đó là một số tội chúng ta quen phạm nhưng chúng ta cũng quen coi thường, vì thế mà không thật lòng thống hối, và vẫn cứ tái phạm.
Suy gẫm lời Chúa hôm nay, chúng ta đã biết Chúa không quan tâm tới tội ta phạm là nặng hay là nhẹ, là nhiều hay là ít, nhưng Chúa chú trọng đến lòng thống hối ăn năn và Chúa chờ đợi ta quyết tâm sửa đổi. Vì thế, chúng ta cũng vậy, hãy lưu ý thống hối và cải thiện nếu không đối với hết tất cả mọi tội lỗi của ta, thì ít ra cũng đối với một số tội chẳng những gây thiệt hại cho mình mà còn tác hại cho người khác nữa.
Nếu có được lòng thống hối và quyết tâm sửa đổi như thế thì chúng ta mới có thể an tâm sẽ được Chúa tha thứ, như Chúa đã thứ tha những tội tày trời của vua Đavít và của người đàn bà mãi dâm mà chúng ta đã nghe sách thánh thuật lại trong những bài đọc của Thánh lễ hôm nay.

* 2. Yêu nhiều tha nhiều
Thánh Phanxicô Salêsiô Giám mục có người giúp việc bê tha rượu chè. Một đêm kia, anh ta say mèm. Mọi người trong nhà đã ngủ hết, chỉ còn một mình thánh nhân thức khuya đọc sách. Chính người đã dìu anh về giường và lấy mền đắp cho anh, rồi sáng hôm sau mới nói cho anh biết lỗi.
Thánh nhân nói : "Giả sử lúc anh đang say, sẩy chân ngã xuống giếng thì sao. Hoặc lỡ bị gió độc mà chết thì sẽ thế nào. Linh hồn ở đâu bây giờ. Nghe vậy anh ta hối hận, xin tha thứ và trước mặt người, anh xin cam đoan sẽ không còn uống một giọt rượu nào nữa. Nhưng người bảo anh : "Đừng chừa vội quá như thế !"
Từ đó, anh ta xin nhận thánh nhân làm cha giải tội riêng cho mình và dần dần, đã biết chừa hẳn tội cũ sống rất đạo hạnh tử tế.
*
"Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít" (Lc 7,47). Người phụ nữ tội lỗi trong bài Tin Mừng hôm nay không khác chi người giúp việc nát rượu của thánh Phanxicô trong câu chuyện trên đây. Họ đều là những người yếu đuối lầm lỡ trong tội, nhưng đã được Chúa Giêsu cũng như thánh Phanxicô bao dung tha thứ, nên họ đã mau mắn đáp lại tình yêu, để rồi cuộc đời của họ bắt đầu từ nay được đổi mới.
Medaleine Danielou đã viết "Tha thứ thật sự là hành động thần linh mà chúng ta chỉ học được từ nơi Thiên Chúa. Vâng, có thể nói : lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa (A. Pope). Nhưng người ta chỉ có thể lãnh nhận ơn tha thứ khi đã có lòng tin : Tin nơi Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta, tin rằng Người sẵn sàng tha thứ và sẽ còn tha thứ mãi. Chúa phán : "Lòng tin của chị đã cứu chị, chị hãy đi bình an" (Lc 7, 50). Chính lòng tin đã đem lại ơn tha thứ, và ơn tha thứ đã làm đổi mới tội nhân, để họ mãi mãi bước đi trong bình an.
Tuy nhiên, tình yêu và lòng tin của chúng ta cần phải được biểu lộ cách cụ thể qua lòng sám hối, vì sám hối tức là nhận mình có lầm lỗi, và chỉ những ai nhận mình lầm lỗi mới được Thiên Chúa thứ tha. Vì thế mà Thomas Carlyle đã nói một câu bất hủ : "Không nhận ra lầm lỗi là lỗi lớn nhất trong mọi lỗi lầm". Quả thật, nếu ai cho mình không có tội thì đâu cần Thiên Chúa thứ tha. Nhưng Thánh Gioan lại nói rằng : "Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta" (1 Ga 1, 8).
*
Lạy Chúa, sa ngã trong tội là bản chất của con người nhưng ở lại trong tội lại là quỉ sứ.
Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận ra lỗi lầm của mình, và mau mắn chân thành sám hối, để được Chúa tha thứ và ban cho ơn bình an. Amen. (TP)

* 3. Bắt đầu lại
Câu chuyện sau đây kể về một người da trắng ở Cape Town trong thời kỳ có chế độ phân biệt chủng tộc apartheid : người da trắng này mới dời về sống trong một khu có nhiều người da màu. Một hôm ông thấy một người da màu cứ đứng ở ngoài hàng rào nhìn chăm chăm vào khu vuờn nhà ông. Ông giận quá ra gặp người ấy và hỏi "Anh đang làm gì ở đây thế ?" Thấy ông quá giận, người da màu lúng túng giải thích : "Trước đây tôi lớn lên trong khu nhà này. Trong vườn có một cây lê. Có năm nó rất nhiều trái, nhưng cũng có năm trái rất ít. Hôm nay tôi chỉ muốn xem năm nay nó có nhiều trái không". Nghe lời giải thích ấy, người da trắng cảm thấy xấu hổ vì đã hiểu lầm người da màu kia. Ông định mở miệng xin lỗi thì người kia đã đi không còn ở đó nữa. Lòng ông rất xấu hổ vì đã nặng lời với một người đáng thương bị chế độ phân biệt chủng tộc làm mất nhà cửa.
Cách Chúa Giêsu đối xử với người phụ nữ tội lỗi trong bài Tin Mừng hôm nay trái ngược hẳn. Nàng không được mời đến dự tiệc. Nàng đến chỉ vì biết có Chúa Giêsu đang ở đấy. Nàng đến trước mặt Ngài với con người thực của mình, và chỉ muốn phục vụ Ngài để tỏ lòng sám hối. Phần Chúa Giêsu, dù biết nàng là một người tội lỗi nhưng vẫn ưu ái đón nhận sự phục vụ của nàng. Những người khác nhìn nàng và chỉ thấy một vũng bùn nhơ. Còn Chúa Giêsu thì nhìn vũng bùn nhơ ấy và thấy những vết thương của nàng. Ngài thấy nàng đã bị người ta xét đoán đủ rồi và bị đời trừng phạt đủ rồi. Điều nàng cần đó là được cứu chữa chứ không phải bị lên án.
Qua cách đối xử nhân hậu với nàng, Chúa Giêsu đã giúp nàng tin vào cái tốt trong lòng nàng. Nhờ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, nàng bắt đầu một cuộc sống mới tốt hơn. " Elia Wiesel viết : "Nếu bạn muốn tìm gặp một tàn lửa, bạn phải nhìn vào đống tro". (FM)

* 4. Những bài học rút ra từ câu chuyện vua Đavít
Chuyện vua Đavít phạm tội và sám hối có thể dạy ta nhiều điều :
a/ Sau khi ngoại tình với Bétsabê và biết Bétsabê mang thai, vua Đavít muốn dấu nhẹm tội mình nên lại phạm thêm một tội khác, đó là giết chết Uria chồng nàng à Nếu phạm tội mà không nhận tội, lại còn muốn che dấu nó, chúng ta có thể bị đẩy đưa đến chỗ phạm thêm những tội khác nữa.
b/ Khi ngôn sứ Natan kể chuyện về một người nhà giàu đang tâm giết chết người hàng xóm nghèo để chiếm đoạt con chiên độc nhất của người này, Đavít đã nổi giận và đưa ra phán quyết "Nó đáng chết" à Thấy tội người khác dễ hơn thấy tội của mình.
c/ Nhưng sau khi ngôn sứ Natan vạch tội Đavít ra, nhà vua đã khiêm tốn nhìn nhận "Tôi đã đắc tội với Chúa" à Đây chính là điều làm cho Đavít từ một người tội lỗi trở nên một vị thánh. Có mấy người mau mắn nhìn nhận tội lỗi của mình khi bị người khác vạch ra ? Rất nhiều người chẳng những không nhìn nhận mà còn ác cảm với kẻ dám vạch tội mình.
d/ Đavít trở thành thánh nhân còn nhờ một yếu tố khác nữa : từ đó về sau, nhà vua đã ý thức về lòng thương xót của Chúa và hết lòng đáp lại tình thương của Ngài à Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói "Ai được tha nhiều thì yêu mến nhiều"

* 5. Tội và tình
Người ta thường nói "tội tình". Cách nói vô ý thức ấy lại chứa đựng một chân lý rất sâu sắc : tội lỗi và tình thương thường đi đôi với nhau.
Qua dụ ngôn Chúa Giêsu kể về hai con nợ được tha thứ, ta có thể hiểu rằng tội đi trước, tình đi sau, bởi vì "Ai được tha nhiều thì yêu mến nhiều". Vì được tha thứ nên yêu mến.
Tuy nhiên, qua một câu nói khác cũng của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng này thì ta cũng có thể hiểu rằng tình đi trước : "Tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều". Vì yêu mến nên được tha.
Hai trường hợp trên là nói về lòng yêu mến của tội nhân : lòng yêu mến có khi đi trước, có khi đi sau. Nhưng khi nói về Thiên Chúa thì tình yêu của Ngài luôn đi trước. Thánh Kinh đã ghi nhận biết bao bằng chứng là Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta trước. Chính tình yêu của Ngài kêu gọi chúng ta sám hối, rồi tình yêu của Ngài tha thứ chúng ta, sau đó tình yêu của Ngài lại khuyến khích chúng ta yêu mến Ngài hơn. Tóm lại tình yêu Thiên Chúa bao trùm tất cả, trước, trong và sau khi chúng ta phạm tội.

* 6. Ông Simon và Chúa Giêsu
Một đêm cúp điện, trời tối. Người chồng đem chiếc đèn dầu ra để thắp sáng. Chiếc đèn đã quá cũ. Bóng đèn bám đầy khói. Tim đèn không còn nhạy. Người chồng bực bội quăng chiếc đèn dầu vào xó, và tìm một cây nến thay thế.
Tuần sau lại cúp điện. Người vợ châm lửa vào một chiếc đèn dầu xinh đẹp. Ánh sáng tỏa ra rất ấm cúng.
Người chồng ngạc nhiên hỏi vợ : "Em mới mua chiếc đèn này hả ? Bao nhiêu tiền ?" Người vợ cười đáp : "Chẳng tốn bao nhiêu cả, vì đó là chiếc đèn cũ. Chỉ tốn thời giờ thôi. Em đã lau chùi bóng đèn, vuốt lại tim đèn. Thế là nó có thể xử dụng tốt lại như trước".
Quẳng đi món một đồ hư thì dễ hơn sửa nó lại nhiều. Đối với con người cũng thế. Dán lên con người lầm lỗi một nhãn hiệu rồi quẳng vào tù thì dễ. Nhưng làm thân với họ, tìm hiểu họ, rồi giúp họ thay đổi là một việc khó hơn.
Ông Simon trong bài Tin Mừng này là một người biệt phái, nên ông ghét người tội lỗi. Đối với ông, người phụ nữ tội lỗi kia là thứ người phải bỏ đi, không đáng được cứu. Những người như Simon rất nhiều trong thời chúng ta. Họ không tin rằng con người có thể sửa đổi, vì thế họ không cho kẻ tội lỗi có cơ hội sửa đổi. Một nền văn minh không tin vào sự cứu rỗi là một nền văn minh không có hy vọng.
Phần Chúa Giêsu, Ngài biết người phụ nữ này có tội, nhưng Ngài cũng thấy phương diện tốt của nàng. Ngài tin tưởng vào phương diện tốt ấy và giúp nàng đứng dậy. Thật tuyệt vời nếu có ai đó còn tin tưởng ta, không lên án ta mà còn yêu thương ta nữa.
Thái độ của Chúa Giêsu dạy chúng ta phải biết nhận ra điều tốt nơi người khác và yêu thương người ấy. Tội lỗi chỉ có thể cứu chữa bằng yêu thương. Kết án không bao giờ giải thoát được (FM)

* 7. Đấng cứu chữa
Tôi mơ thấy mình gặp Chúa.
Vừa run, vừa xấu hổ, vừa buồn phiền, tôi kể cho Ngài nghe hết tất cả mọi tội lỗi tôi đã phạm.
Kể xong, tôi vẫn còn quỳ đó, chờ đợi án phạt của Ngài, một án phạt rất nặng mà tôi rất đáng chịu.
Thế nhưng Chúa đứng lên, lấy một lọ dầu và nói : "Để Ta chữa lành thương tích của con".
Tôi ngạc nhiên hỏi lại : "Thương tích nào, lạy Chúa ? Chính con là kẻ gây thương tích cho biết bao người khác".
Vừa nói xong tôi chợt hiểu ngay là Ngài có lý, bởi vì có tội cũng chính là bị thương. Tôi là người có tội, thương tích của tôi chính là tội của tôi.
Vì thế tôi đã để cho Ngài xức dầu chữa trị thương tích của tôi.
Sau đó tôi ra đi mà lòng tràn ngập mừng vui. Lòng tốt của Chúa đã khiến tôi cũng cảm thấy mình tốt và muốn được giống như Ngài. (FM)

V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Đấng hay thương xót và tha thứ. Người luôn sẵn sàng tha thứ lỗi lầm của những kẻ có tội thật lòng sám hối ăn năn. Luôn tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng khiêm tốn cầu xin :
1. Dung mạo của Hội thánh là dung mạo hiền lành của Chúa Giêsu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi người / tìm được nơi Hội thánh lòng khoan dung vô bờ.
2. Trên thế giới ngày nay / tệ nạn xã hội tràn lan khắp mọi nơi / ảnh hưởng không tốt đến đời sống hôn nhân và gia đình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho việc ngăn chặn tệ nạn xã hội của các quốc gia / đạt được nhiều kết quả tốt đẹp.
3. Đời sống khó khăn / tình trạng thất nghiệp / nhiều khi làm gia tăng tội ác trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người đều tìm được việc làm ổn định lâu dài.
4. Gia đình là nền tảng của xã hội và Giáo hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bậc cha mẹ trong giáo xứ chúng ta / biết quan tâm đến việc giáo dục nhân bản và đức tin cho con cái bằng lời nói / nhưng đặc biệt là bằng chính gương sáng của mình.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con biết triệt để sống Lời Chúa dạy trong Tin mừng. Nhờ đó, chúng con có thể mạnh dạn nói như thánh Phaolô tông đồ : Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh Lễ
-         Trước Kinh Lạy Cha : Lời Chúa hôm nay hẳn đã giúp chúng ta cảm mến tình thương tha thứ của Thiên Chúa, Cha chúng ta. Chúng ta hãy dâng lên Ngài tâm tình cảm mến, và xin Ngài giúp chúng ta cũng biết tha thứ cho anh chị em chúng ta.

VII. Giải tán
Lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ tội lỗi cũng là nói với chúng ta : "Lòng tin của con đã cứu con. Con hãy đi bình an".

Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật XI Thường Niên (C)
Chúa Nhật, 12 Tháng 6, 2016
Chúa Giêsu tiếp đón và bênh vực người đàn bà với bình thuốc thơm
Niềm tin tưởng của người nghèo khó vào Đức Giêsu
Lc 7:36 – 8:3


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của mình.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

2.  Bài Đọc

a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:

Bài Phúc Âm của Chúa Nhật tuần này đặt trước chúng ta hai phân cảnh liên quan với nhau.  Phân cảnh thứ nhất thì khá cảm động.  Một người phụ nữ được cho là người tội lỗi trong thành, đã có đủ can đảm để đi vào nhà ông Simon, một người Biệt Phái, đang trong bữa ăn, để gặp Chúa Giêsu, người đàn bà này đã rửa chân cho Chúa,  hôn chân Chúa và xức thuốc thơm.   Phân cảnh thứ hai mô tả cộng đoàn của Chúa Giêsu gồm những người đàn ông và phụ nữ.

Khi đọc đoạn Phúc Âm này, bạn hãy tưởng tượng mình đang ở trong nhà của người Biệt Phái, ngồi tại bàn và quan sát cẩn thận các thái độ, hành động và lời nói của những người đang hiện diện ở đó, người phụ nữ, Chúa Giêsu và người Biệt Phái.  Bạn hãy đọc lại đoạn tài liệu ngắn mà Luca đã đưa ra liên quan đến cộng đoàn đang tập hợp xung quanh Chúa Giêsu và hãy cố gắng xem xét kỹ lưỡng những lời đã được dùng để thấy rằng cộng đoàn được bao gồm những người đàn ông và phụ nữ đi theo Chúa Giêsu.

c)  Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:

Lc 7:36-38:  Người phụ nữ rửa chân Chúa Giêsu trong nhà một người Biệt Phái
Lc 7:39-40:  Phản ứng của người Biệt Phái và câu trả lời của Đức Giêsu
Lc 7:41-43:  Dụ ngôn về hai người mắc nợ và câu trả lời của người Biệt Phái
Lc 7:44-47:  Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để biện hộ cho người phụ nữ
Lc 7:48-50:  Tình yêu nảy sinh ra sự tha thứ và sự tha thứ phát sinh ra tình yêu
Lc 8:1-3:  Những người đàn ông và phụ nữ môn đệ trong cộng đoàn của Chúa Giêsu

d)  Phúc âm:

36 Khi ấy, có một người Biệt Phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình.  Khi Người vào nhà người Biệt Phái và vào bàn ăn, 37 chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người Biệt Phái liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. 38 Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, và nước mắt ướt đẫm chân người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm.
39 Thấy thế, người Biệt Phái đã mời Người tự nghĩ rằng:  “Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai và thuộc hạng người nào: là một người tội lỗi.”  40 Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng:  “Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông.”  Simon thưa:  “Xin Thầy cứ nói.”  41 “Một người chủ nợ có hai con nợ; một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. 42 Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai.  Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?” 43 Simon đáp:  “Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn.”  Chúa Giêsu bảo ông:  “Ông đã xét đoán đúng.” 44 Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon:  “Ông thấy người đàn bà này chứ?  Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau.  45 Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi.  46 Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi.  47 Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà này rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều.  Kẻ được tha ít là kẻ yêu mến ít.”  48 Rồi Người bảo người đàn bà:  “Tội con đã được tha rồi.”  49 Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng:  “Ông này là ai mà lại tha tội được?”  50 Và Người nói với người đàn bà:  “Đức tin con đã cứu con; con hãy về bình an.
8:1 Sau đó Người rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo nước Thiên Chúa.  Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, 2 cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật:  Maria gọi là Mađalêna đã được chữa khỏi bảy quỷ ám,  3 Gioanna vợ của Cusa, viên quản lý của Hêrôđê, Susanna, và nhiều bà khác:  họ đã lấy của cải mình mà giúp Người.

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống của chúng ta.

4. Một vài câu hỏi gợi ý

Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.

a)  Điều gì trong đoạn Kinh Thánh này đã làm bạn cảm động nhất?  Tại sao?
b)  Người phụ nữ đã làm gì và bà ấy đã làm như thế nào?
c)  Người Biệt Phái tỏ thái độ gì với Chúa Giêsu và với người đàn bà:  ông ta đã làm gì và nói gì?
d)  Chúa Giêsu đã có thái độ gì đối với người phụ nữ:  Người đã làm gì và nói gì?
e)  Người đàn bà sẽ không làm những gì cô ta đã làm nếu cô ta không hoàn toàn tin chắc rằng Chúa Giêsu sẽ chào đón cô ta.  Ngày nay, những người bị thiệt thòi trong xã hội có cùng một sự tin tưởng vững vàng như thế đối với những Kitô hữu chúng ta hay không?
f)  Tình yêu thương và sự tha thứ.  Những người phụ nữ đi theo Chúa Giêsu là ai?  Điều gì đã khiến họ gắn bó với nhau?
g)  Cộng đoàn của Chúa Giêsu:  Những người phụ nữ đi theo Chúa Giêsu là những người nào?   Họ đã làm những gì?

5.  Dành cho những người muốn đào sâu hơn vào chủ đề

a)  Bối cảnh văn học và lịch sử của đoạn Phúc Âm: 

Trong chương 7 của sách Phúc Âm của mình, thánh Luca đã mô tả lại những điều mới mẻ và đáng ngạc nhiên xảy ra trong dân chúng từ lúc Chúa Giêsu công bố về nước Thiên Chúa.  Tại Caphánaum, Chúa ca ngợi đức tin của dân ngoại:  “Amen, Tôi nói cho các ông hay:  ngay cả ở trong dân Israel, Tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế! (Lc 7:1-10)   Người đã cho con trai của bà góa tại thành Na-im được sống lại (Lc 7:11-17).  Phương cách Chúa Giêsu công bố về Nước Trời làm ngạc nhiên những người anh em Do Thái đến nỗi mà ngay cả ông Gioan Tẩy Giả đã phải ngạc nhiên và sai người đến hỏi:  "Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Lc 7:18-30).  Chúa Giêsu đã phê phán sự ngập ngừng lưỡng lự của những kẻ chống đối Chúa:  “Họ giống như những đứa trẻ không biết mình muốn gì!” (xem Lc 7:31-35).  Và ở đây, vào đoạn cuối của chương này, đó là phần văn bản của chúng ta (Lc 7:36 – 8:3), có điều gì khác lạ đã bắt đầu xuất hiện và tạo ngạc nhiên trong Tin Mừng về Nước Trời:  thái độ của Chúa Giêsu đối với phụ nữ.
Vào lúc Tân Ước được viết tại đất Paléstine, phụ nữ là thành phần bị thiệt thòi.  Họ không được tham gia vào các công việc trong hội đường hoặc các việc trong xã hội.  Từ thời ông Êz-ra (thế kỷ IV trước Chúa Giáng Sinh), việc kỳ thị phụ nữ đã tiếp tục gia tăng như chúng ta nhận thấy trong các câu chuyện về các bà Giuđitha, Esther, Rúth, Naomi, Susanna, những người phụ nữ Sulamite và nhiều người khác.  Việc kỳ thị này đối với giới phụ nữ đã không thấy một phản ảnh nào trong việc Chúa Giêsu tiếp đón họ.  Trong câu chuyện người phụ nữ với bình thuốc thơm (Lc 7:36-50), chúng ta thấy việc chống lại chủ nghĩa tuân thủ trong việc Chúa Giêsu đón tiếp người phụ nữ ấy.  Trong đoạn mô tả về cộng đoàn đang được gây dựng chung quanh Chúa Giêsu (Lc 8:1-3), chúng ta thấy đàn ông và phụ nữ tề tựu chung quanh Chúa Giêsu, bình đẳng trong vị thế như các môn đệ.

b)  Lời bình giải về đoạn Phúc Âm:

Lc 7:36-38:  Một người phụ nữ rửa chân Chúa Giêsu trong nhà một người Biệt Phái
Có tất cả ba người khác nhau cùng gặp gỡ:  Chúa Giêsu, người Biệt Phái và người phụ nữ có tiếng là người tội lỗi.  Chúa Giêsu đang ở trong nhà ông Simon, một người Biệt Phái đã mời Chúa đến dùng bữa tại nhà mình.  Một người phụ nữ bước vào, quỳ dưới chân Chúa Giêsu, khóc lóc, rửa chân Chúa bằng nước mắt của mình, rồi xổ tóc để lau khô chân Chúa Giêsu, rồi hôn chân và xức thuốc thơm lên chân Người.  Cử chỉ xổ tóc của người phụ nữ trước công chúng là một dấu hiệu của sự độc lập.  Cảnh này đã tạo nên một cuộc tranh luận tiếp theo sau đó.

Lc 7:39-40:  Lời đối đáp giữa người Biệt Phái và Chúa Giêsu
Chúa Giêsu đã không ngần ngại, không quở trách người phụ nữ mà lại còn để cho bà ta tự do làm những điều ấy.  Người phụ nữ là người mà theo những người nghiêm thủ Do Thái thời ấy thì không đáng được tiếp đón.  Trông thấy những gì đang xảy ra, người Biệt Phái chỉ trích Chúa Giêsu và lên án người phụ nữ:  “Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai và thuộc hạng người nào:  là một người tội lỗi!”  Để đáp lại lời khiêu khích của người Biệt Phái, Chúa Giêsu đã kể một dụ ngôn; một dụ ngôn mà sẽ giúp người Biệt Phái và tất cả chúng ta thấy được lời mời gọi vô hình của tình yêu Thiên Chúa, Đấng đã tự mặc khải mình trong cảnh huống đó.

Lc 7:41-43:  Dụ ngôn về hai người mắc nợ và câu trả lời của người Biệt Phái
Dụ ngôn kể lại việc sau đây:  Một chủ nợ có hai con nợ.  Một người nợ năm trăm đồng tiền bạc và người kia nợ năm chục.  Một đồng tiền bạc tương đương với một ngày lương.  Do đó, nó tương đương với tiền lương của năm mươi ngày làm việc!  Cả hai không có gì để trả nên chủ nợ tha cho cả hai.  Trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?  Người Biệt Phái đáp:  “Tôi nghĩ là người đã được tha nhiều hơn!”  Bài dụ ngôn ví dụ rằng trước đó, cả người Biệt Phái lẫn người phụ nữ đều đã nhận được một số ân sủng từ Chúa Giêsu.  Bây giờ, trong thái độ của hai người đối với Chúa Giêsu cho chúng ta thấy lòng biết ơn của họ về những ân sủng đã nhận được.  Người Biệt Phái đã tỏ lòng yêu mến, lòng biết ơn bằng cách mời Chúa Giêsu đến nhà mình.  Người phụ nữ bày tỏ tình yêu mến và lòng biết ơn của mình với những giọt nước mắt, những nụ hôn và thuốc thơm.  Giữa hai hành động này, hành động nào cho ta thấy một tình yêu lớn hơn: việc ăn uống hay là những nụ hôn và thuốc thơm?  Liệu sự đo lường tình yêu của một người có thể nào tùy thuộc vào kích thước của món quà tặng không?

Lc 7:44-47:  Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để biện hộ cho người phụ nữ
Khi Người nhận được câu trả lời đúng từ người Biệt Phái, Chúa Giêsu liền áp dụng nó vào việc xuất hiện của người phụ nữ trong bữa ăn.  Chúa biện hộ cho người phụ nữ tội lỗi trước sự phán xét theo luật lệ Do Thái.  Điều mà Chúa Giêsu muốn nói với người Biệt Phái của mọi thời đại là thế này:  “Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít!”  Việc bảo vệ cá nhân mà tôi, người Biệt Phái, đã tạo nên cho chính mình bởi vì việc tuân giữ theo lề luật Thiên Chúa và Giáo Hội của tôi, thường xuyên ngăn trở tôi không tỏ bày một tình yêu biết ơn đối với một Thiên Chúa luôn tha thứ.  Điều quan trọng không phải là việc tuân giữ các lề luật như thế, mà là tôi tuân giữ lề luật vì tình yêu với Chúa.  Áp dụng các dấu hiệu tình yêu của người phụ nữ tội lỗi, Chúa Giêsu đáp lời người Biệt Phái, kẻ tự coi mình là công chính:  “Ông thấy người đàn bà này chứ?  Tôi đã vào nhà ông, và ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, nhưng bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau.  Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi.  Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi.  Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà này rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều.  Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít.”  Điều này chẳng khác gì Người đã nói:  “Hỡi ông Simon, mặc dù ông mở yến tiệc thết đãi tôi, nhưng ông yêu mến rất ít!”  Tại sao?  Tiên tri Giêrêmia đã từng nói rằng trong tương lai, trong giao ước mới, “họ sẽ không còn phải dạy cho các bạn hữu và thân thích của họ làm thế nào để biết Đức Chúa.  Chúa phán, tất cả từ kẻ bé nhất đến người lớn nhất, sẽ biết Ta, bởi vì Ta sẽ tha thứ tội ác cho họ và không còn nhớ đến lỗi lầm của họ nữa”. (Gr 31:34)  Chính sự nhận thức được tha thứ làm cho người ta cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa.  Khi người Biệt Phái gọi người phụ nữ là “một người tội lỗi”, ông ta đã tự coi mình là một người công chính tuân giữ và thực thi lề luật.  Ông ta giống như người Biệt Phái ở trong một dụ ngôn khác đã nói:  “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia” (Lc 18:11).  Simon có thể đã nghĩ:  “Lạy Thiên Chúa, con cảm tạ Chúa vì con không giống như người đàn bà tội lỗi này!”  Nhưng người về nhà được trở nên công chính không phải là người Biệt Phái mà là người thu thuế vì đã thưa rằng:  “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ có tội!” (Lc 18:14).   Từ khởi thủy, những người Biệt Phái luôn tự coi mình là vô tội, bởi vì họ giữ đúng mọi lề luật của Thiên Chúa, họ đến hội đường, cầu nguyện, bố thí và đóng thuế đầy đủ.  Họ đặt sự an toàn của họ vào những gì họ làm cho Thiên Chúa, mà không phải vào tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa đối với họ.  Đó là lý do tại sao Simon, người Biệt Phái, không thể có được cảm nghiệm tình yêu cho không của Thiên Chúa.

Lc 7:48-50:  Tình yêu nảy sinh ra sự tha thứ và sự tha thứ phát sinh ra tình yêu
Chúa Giêsu bảo người phụ nữ:  “Tội con đã được tha rồi.”  Rồi những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng:  “Ông này là ai mà lại tha tội được?”  Nhưng Chúa Giêsu nói với người đàn bà:  “Đức tin con đã cứu con.  Hãy đi và đừng phạm tội nữa!”  Ở đây, chúng ta thấy thái độ mới của Chúa Giêsu.  Người không lên án nhưng lại tiếp đón.  Đức tin đã khiến cho người phụ nữ biết về chính mình, chấp nhận bản thân và chấp nhận Thiên Chúa.  Trong cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, một sức lực mới đã vỡ òa ra để giúp bà ta trở nên một con người mới.  Một câu hỏi quan trọng đến trong trí chúng ta.  Liệu người đàn bà tội lỗi trong thành phố ấy có làm những việc bà ta đã làm nếu bà ấy không hoàn toàn chắc chắn rằng Đức Giêsu sẽ tiếp nhận mình hay không?  Điều này có nghĩa là đối với những người nghèo khó trong miền Galilê thời ấy, Chúa Giêsu là người đáng được tin cậy tuyệt đối!  “Chúng ta có thể tin tưởng nơi Người.  Người sẽ đón tiếp chúng ta!”  Liệu những kẻ bị xem thường thời nay có cùng một sự tin tưởng như thế đối với những Kitô hữu chúng ta không?

Lc 8:1-3:  Cộng đoàn những người môn đệ của Chúa Giêsu
Chúa Giêsu rảo qua các thành thị và xóm làng của đất Galilê, giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa và có Nhóm Mười Hai cùng đi với Người.  Khái niệm “đi theo Chúa Giêsu” cho thấy tình trạng của một môn đệ đi theo Thầy mình tìm cách noi theo gương Chúa và cùng san sẻ với số phận của Người.  Điều đáng ngạc nhiên là ngoài những người đàn ông còn có những người phụ nữ “đã đi theo Chúa Giêsu”.  Thánh Luca đặt để những môn đệ nam cũng như nữ trên một phương diện bình đẳng.  Ông cũng nói đến những người phụ nữ đã lấy của cải mình mà giúp Đức Giêsu.  Luca cũng nhắc đến tên của một số các nữ môn đệ này:  bà Maria Mađalêna, sinh quán tại thành phố Magđala.  Bà ta đã được chữa khỏi bảy quỷ ám.  Bà Gioanna, vợ của Cusa, viên quản lý của vua Hêrôđê, thủ hiến Galilê.  Bà Susanna và nhiều bà khác.

c)  Phần phụ chú:

i)   Phúc Âm viết bởi Luca luôn được xem là Phúc Âm của phụ nữ.  Thật thế, Luca là một trong những tác giả ghi lại các mối quan hệ của Chúa Giêsu với các phụ nữ nhất.  Tuy nhiên, chuyện lạ là Tin Mừng liên quan đến các phụ nữ, không chỉ một cách đơn giản bởi vì có nhiều các điều ghi chép về sự hiện diện của họ chung quanh Chúa Giêsu, mà trong thái độ của Chúa Giêsu đối với họ.  Chúa Giêsu động chạm đến họ, cho phép họ động chạm vào Chúa, mà không sợ bị ô uế (Lc 7:39; 8:44-45, 54).  Sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và các bậc thầy thời ấy là Chúa Giêsu chấp nhận phụ nữ là các tín đồ và môn đệ (Lc 8:2-3; 10:39).  Sự giải phóng của Thiên Chúa, qua các việc làm của Chúa Giêsu, nâng cao vị trí phụ nữ đảm nhận đúng nhân phẩm của họ (Lc 13:13).  Chúa Giêsu cảm thông được sự đau khổ của bà góa và chia sẻ nỗi buồn của bà (Lc 7:13).  Công việc của người phụ nữ là nấu nướng, được Chúa Giêsu xem như là một dấu hiệu của Nước Trời (Lc 13:20-21).  Người góa phụ kiên trì tranh đấu cho quyền lợi của mình được trình bày như là một mô thức cầu nguyện (Lc 18:1-8), và bà góa nghèo đã chia sẻ những đồng xu ít ỏi của mình với những người khác được xem như là một kiểu mẫu cho quà tặng và sự cống hiến (Lc 21:1-4).  Vào thời điểm khi mà nhân chứng là các phụ nữ chưa được xem là có giá trị, thì Chúa Giêsu lại chọn các bà là những người làm chứng cho cuộc tử nạn của Chúa trên thập giá (Lc 23:49), việc mai táng (Lc 23:55-56) và sự phục sinh của Người (Lc 24:1-11, 22-24).

ii)  Phúc Âm ghi lại những danh sách khác nhau tên của mười hai môn đệ đã đi theo Chúa Giêsu.  Tên của những người này không luôn giống nhau, nhưng luôn có mười hai tên, tượng trưng cho mười hai chi tộc dân riêng mới của Thiên Chúa.  Cũng có những người phụ nữ đã đi theo Chúa Giêsu, từ đất Galilê đến Giêrusalem. Phúc Âm của thánh Máccô xác định thái độ của các bà trong ba động từ:  theo sau, phục vụ, tiến về Giêrusalem (Mc 15:41).  Các Thánh Sử đã không ghi ra hẳn một danh sách các người nữ môn đệ đi theo Chúa Giêsu, nhưng tên của họ được biết cho đến ngày hôm nay qua các trang Tin Mừng, đặc biệt là của thánh Luca, và họ là:  Maria Mađalêna (Lc 8:3; 24:10); Gioanna vợ của Cusa (Lc 8:3); Suzanna (Lc 8:3); Salômê (Mc 15:45); Maria mẹ của Giacôbê (Lc 24:10); Maria, vợ của Kêpha (Ga 19:25); Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu (Ga 19:25).

6.  Lời nguyện:  Bài thánh ca Tình Yêu (1Cr 13:1-13)

Đức Mến thì cao trọng hơn hết!

1 Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa -- mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng.
2 Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non -- mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.
3 Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt -- mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.
4 Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,  5 không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù,  6 không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.  7 Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả . 8 Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn.  9 Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn.  10 Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi.
11 Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con.  12 Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi.
13 Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.

7. Lời Nguyện Kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.
www.dongcatminh.org


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét