17/07/2016
Chúa Nhật tuần 16 thường niên năm C
(phần I)
Bài Ðọc I: St 18, 1-10a
"Ðối
với Thiên Chúa có gì khó đâu. Ta trở lại thăm ông và Sara được một đứa con
trai".
Trích
sách Sáng Thế.
Trong
những ngày ấy, Chúa hiện ra cùng Abraham dưới chòm cây ở Mambrê, đang lúc ông
ngồi ở cửa lều giữa trưa nóng bức. Ông ngước mắt lên thấy ba người nam xuất hiện,
đứng gần ông: Vừa trông thấy, từ cửa lều, ông chạy ra đón các vị ấy, rồi sấp
mình lạy và thưa rằng: "Lạy Chúa, nếu con được đẹp lòng Chúa, xin đừng bỏ
đi qua, con xin lấy ít nước để các Ðấng rửa chân, và nghỉ mát. Con xin đem ít
bánh mời các Ðấng dùng để lấy sức lại rồi sẽ đi: chính vì thế mà các Ðấng đã
ghé vào nhà con". Các Ðấng ấy nói: "Như ông đã ngỏ, xin cứ làm".
Abraham
liền vào lều, và bảo Sara rằng: "Hãy mau mau trộn ba đấu bột làm bánh nướng".
Còn ông, ông chạy đến đoàn bò bắt một con bê non hảo hạng, trao cho đầy tớ đem
đi nấu. Ông lấy bơ sữa và thịt bê đã chín, dọn ra trước mặt các Ðấng. Chính ông
đứng hầu các Ðấng dưới bóng cây.
Ăn
xong, các Ðấng hỏi Abraham rằng: "Sara bạn ông đâu?" Ông trả lời:
"Kìa, bạn con ở trong lều". Một Ðấng nói tiếp: "Ðộ này sang năm,
khi Ta trở lại thăm ông, thì cả hai vẫn còn mạnh khoẻ, và Sara bạn ông sẽ được
một con trai".
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 14, 2-3ab. 3cd-4ab. 5
Ðáp: Lạy Chúa, ai được cư ngụ trên
núi thánh của Chúa? (c. 1a)
Xướng:
1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều
ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống. - Ðáp.
2) Người
không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ
đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. - Ðáp.
3) Người
không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người
thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Cl 1, 24-28
"Mầu
nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở, nhưng nay đã được tỏ bày cho các thánh".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em
thân mến, hiện nay tôi vui sướng trong những đau khổ tôi phải chịu vì anh em.
Tôi bổ khuyết nơi thân xác tôi những gì còn thiếu sót trong cuộc thương khó của
Ðức Kitô, để Hội thánh là thân xác của Người được nhờ. Tôi đã được trở thành
người phục vụ Hội thánh theo sự an bài của Thiên Chúa, Ðấng đã trao phó cho tôi
rao giảng đầy đủ lời Chúa, đó là mầu nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở qua muôn thế hệ,
nhưng nay đã được tỏ bày cho các thánh của Người. Thiên Chúa muốn tỏ bày cho họ
biết thế nào là sự phong phú vinh quang của mầu nhiệm nơi dân ngoại, tức là Ðức
Kitô trong anh em, Người là niềm hy vọng vinh quang. Tôi loan báo Người, cảnh tỉnh
mọi người, đem tất cả khôn ngoan mà dạy dỗ mọi người, để làm cho mọi người nên
hoàn hảo trong Ðức Giêsu Kitô.
Ðó là
lời Chúa.
Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia,
alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên
Chúa phán ra. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 10, 38-42
"Martha rước Người vào nhà mình.
Maria đã chọn phần tốt nhất".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Chúa Giêsu vào một làng kia và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà
mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người.
Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy
Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em
con giúp con với". Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối
về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ
không bị ai lấy mất".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm: Phục vụ Lời Chúa
Chúng
ta chưa quên bài Tin Mừng Chúa nhật trước về người Samaria nhân ái. Chúa dạy
chúng ta phải thi hành bác ái yêu thương để sống đạo. Tuy nhiên phụng vụ cũng
đã đề phòng, không muốn cho ai ngộ nhận đạo chỉ là từ thiện.
Bài
Tin Mừng hôm nay muốn củng cố quan niệm này. Chúng ta thấy Ðức Giêsu có vẻ khen
Maria hơn Matta. Nhưng để hiểu rõ ý Chúa, chúng ta hãy nhờ tất cả các bài Kinh
Thánh của phụng vụ hôm nay.
Câu
chuyện Abraham tiếp khách trong bài đọc I và tâm tư của Phaolô trong bài đọc II
sẽ giúp chúng ta không quá khích khi suy diễn Lời Chúa.
1. Phục Vụ Là Ðiều Ðáng Khen
Thật vậy,
ai không thấy Abraham là người đặc biệt trong câu chuyện hôm nay. Ở thời bấy giờ
dễ gì tìm được một người nào quảng đại và hồn nhiên đến như thế? Chúng ta phải
nhớ lại những thời buổi xa xưa ở những dân tộc rất hiếu khách để hiểu câu chuyện
này.
Abraham
hôm ấy đang ngồi nghỉ trưa ở cửa lều, dưới bóng một cây sồi to. Chắc chắn sức
nóng của mặt trời đúng ngọ ở nơi sa mạc tắt gió đang làm cho thân thể ông uể oải
và buồn ngủ. Nhưng kìa ở đàng xa có bóng ba người tiến đến. Ba lữ khách đi vào
giờ này giữa bãi cát mênh mông và nóng bỏng phải là những người đặc biệt gì
đây.
Người
ta ở thời Abraham và riêng trong vùng Cận Ðông, hay chuyền tai nhau những câu
chuyện lạ lùng: thần thánh hay lấy hình khách lạ đến viếng thăm vào những lúc bất
ngờ để thử thách lòng người. Abraham có lẽ cũng chia sẻ niềm tin ấy. Bóng dáng
ba người khách đang tiến về phía lều của ông vào giờ trưa nóng bức, oi ả và mệt
mỏi lúc này, có thể là một chuyện bất ngờ.
Ông liền
bỏ lều chạy ra về phía khác. Ông sấp mình chào hỏi. Ông tự đặt mình như tôi tớ
của những nhân vật kỳ lạ. Và có lẽ ông nghĩ nhân vật đi giữa hẳn có ưu vị, nên
tuy đứng trước ba vị ông vẫn thưa như chỉ muốn thỉnh ý người quan trọng hơn:
"Thưa Ngài, nếu tôi được nghĩa trước mặt Ngài, thì xin Ngài đừng xa rời
tôi tớ của Ngài". Rồi không kịp để cho khách trả lời và muốn cho khách thấy
lòng thành của mình mà không thể từ chối được, Abraham nói một hơi, xin đem nước
cho các Ngài rửa chân và đem của ăn đến cho các Ngài lót lòng, trước khi các
Ngài tiếp tục cuộc hành trình.
Dĩ nhiên
là khách chấp nhận. Và chúng ta lại thấy Abraham, thành khẩn hơn nữa. Ông bảo
bà Sara nhào bột làm bánh. Ông chạy ra chuồng, chính tay lựa con bê non béo tốt,
trao cho đầy tớ làm thịt. Và ông chạy đi lấy sữa và nhũ men. Ông mời khách ngồi
và khúm núm đứng hầu chuyện cũng như hầu bàn. Ông không chờ đợi gì cả; cũng
không nghĩ gì đến mình. Ông chỉ biết có khách và chỉ biết thành khẩn phục vụ, vừa
quảng đại vừa hồn nhiên.
Thái độ
của Abraham khác hẳn cách cư xử của dân thành Sôđôma kể ở chương sau cũng của sách
Khởi nguyên này. Thấy hai người khách lạ vào nhà ông Lot, họ đợi đến chiều tối;
rồi kéo nhau đến đòi chủ nhà phải đem khách ra cho họ bạo hành.
Thế
nên khi đặt hai câu chuyện này gần nhau, rõ ràng tác giả sách Khởi nguyên muốn
đề cao tư cách của Abraham và muốn chúng ta bắt chước. Chúng ta phải hiếu khách
và phục vụ quảng đại. Cựu Ước và Tân Ước không ngừng khuyên nhủ như vậy, không
ai được lấy lẽ đạo đức nào để dèm pha việc phục vụ. Sống đạo mạc khải thì phải
thi hành bác ái yêu thương.
Ở đây
để làm chứng phục vụ là điều đáng khen, rất đẹp lòng Thiên Chúa, tác giả sách
Khởi nguyên đã kết thúc câu chuyện trên bằng một lời hứa hẹn phấn khởi. Dùng bữa
xong quí khách đã cho gia đnìh Abraham biết: vào mùa tới các ngài sẽ trở lại và
khi ấy Sara đã có con trai rồi.
Chúng
ta khó tưởng tượng lòng Abraham và Sara khi nghe báo tin như vậy... Ðó là điều
hai người từng mơ ước chờ đợi. Nhất là chúng ta đừng quên gắn liền lời tiên báo
này vào việc Abraham đãi khách ở trên. Há tác giả sách Khởi nguyên không muốn đặt
việc tiếp khách và phục vụ vào trong viễn tượng của lời giao ước hay sao? Rõ
ràng ông muốn nói rằng đạo chúng tôi đòi hỏi hết thảy có tinh thần phục vụ, phục
vụ rất quảng đại và không tính toán, phục vụ khiêm tốn và hồn nhiên. Abraham
trong câu chuyện này đã được nhiều danh họa vẽ lại vì người ta muốn tấm gương
mà ông treo lên hôm nay phải được người ở mọi thời nhìn ngắm. Người ta phải
khen chứ không thể chê những hành vi phục vụ.
Thế mà
sao thánh Luca trong bài Tin Mừng hôm nay lại có vẻ nghĩ thế khác, Matta phục vụ
dường như bị chê; và Chúa thích Maria hơn. Chúng ta cần phải suy nghĩ cẩn thận
về câu chuyện này.
2. Nhưng Phục Vụ Phải Theo Trật Tự
Matta
và Maria là hai chị em tính tình rõ ràng khác nhau. Họ có một người em tên là
Lazarô mà Ðức Giêsu sẽ làm cho sống lại, ra khỏi huyệt. Có lẽ đó là một trong
những gia đình được Ðức Giêsu đi lại nhiều. Và hôm nay cũng như mọi lần. Matta
muốn tỏ ra không những hiếu khách mà còn quý thầy. "Bà bận rồn với những
công việc phục dịch bộn bàng". Tác giả Luca đã dùng những lời như vậy để
diễn tả con người của bà lúc ấy. Và nếu chúng ta quan sát bà trong câu chuyện Ðức
Giêsu làm cho em trai bà là Lazarô sống lại, chúng ta cũng vẫn thấy bà hoạt động,
đảm đang và để mắt đến hết mọi công việc. Cũng vì vậy mà tuy bận rộn với bao việc
làm ở dưới bếp, mắt bà vẫn còn nhìn thấy thái độ của cô em là Maria. Cô này cứ
ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Người và chẳng màng chi đến việc phục dịch giúp
đỡ chị một tay.
Phân
tích tâm lý của Matta và dựa vào câu bà phàn nàn với Chúa: "Em tôi để tôi
một mình phục vụ", có tác giả ngày nay cho rằng việc phục vụ của bà chưa
quảng đại đủ vì chưa quên mình đủ. Khác với Abraham. Vị tổ phụ ngày xưa chỉ biết
phục vụ, chỉ nhìn đến khách và không mảy may nghĩ đến mình. Matta thì không. Bà
phục vụ nhưng nhìn thấy mình đang phục vụ... Bà chưa dồn hết mắt, hết lòng, hết
linh hồn cho Chúa và cho việc tiếp rước. Bà còn thấy mình ở giữa những sự đó và
còn muốn so sánh tìm cho được chỗ xứng đáng của mình. Cũng có thể bà sợ Chúa
không để ý đến bà và không biết được các nỗi vất vả của bà.
Nhưng
Matta lầm. Ðức Giêsu biết rõ mọi việc. Người không phán đoán bà một cách ngặt
như các nhà phân tích tâm lý chúng ta vừa nói đâu. Người luôn dùng mọi hoàn cảnh
để đưa người ta vào Nước Trời. Thế nên, nghe Matta phàn nàn về cô em, Ðức Giêsu
âu yếm gọi "Matta, Matta". Rồi Người hé cho bà thấy mầu nhiệm Nước
Thiên Chúa: "Con lo lắng xôn xao về nhiều chuyện. Chỉ có một điều cần mà
thôi. Maria đã chọn phần tốt rồi; và sẽ không bị lấy mất".
Câu
Chúa trả lời có thể đau cho Matta, nếu chúng ta nghĩ đây là lần duy nhất Người
nói những lời tương tự. Nhưng ngược lại, nếu đọc lại các sách Tin Mừng và nhất
là tác phẩm của Luca chúng ta sẽ thấy ở đây Ðức Giêsu chỉ áp dụng một giáo huấn
mà Người không ngớt dạy dỗ. Ðã nhiều lần Người căn dặn môn đệ: đừng lo lắng quá
mức về của ăn áo mặc, đừng lo mang tiền mang bị khi đi đường, đừng xao xuyến sẽ
phải ăn nói thế nào... vì chỉ có một điều cần mà thôi là hãy tìm Nước Thiên
Chúa trước đã.
Như vậy,
nếu chúng ta hiểu rằng lúc ấy Ðức Giêsu đang ngồi trong nhà chị em Matta và
Maria; và Người lợi dụng lúc chờ đợi dọn bữa mà có người muốn nghe lời; và Người
đang dạy dỗ môn đệ và người ta; mà Matta sấn lại thưa như trên, muốn kéo cô em
ra khỏi thái độ làm môn đệ là ngồi dưới chân để nghe Lời Chúa, thì dứt khoát
Chúa phải trả lời lại cho Matta như vậy. Bà phải chen việc phục vụ bàn ăn vào
việc phục vụ Lời Chúa, làm rối loạn công việc này, thì cũng như Phêrô sẽ nói
sau này trong sách Công vụ các Tông đồ: "Không phải là điều đẹp lòng Chúa
nếu chúng ta nhãng bỏ Lời Thiên Chúa mà đi lo giúp việc bàn ăn". Chúng ta
biết cũng chính tác giả Luca viết câu chuyện này về các tông đồ phải chuyên lo
cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa; còn việc phục vụ bàn ăn thì phải để lại cho những
anh em đầy Thánh Thần được cộng đoàn bầu lên.
Không
có một chút xíu tinh thần coi khinh việc phục vụ trong các câu chuyện này. Chỉ
có một thứ tự phải nhìn nhận là chính đáng.
Ðó là
việc phục vụ bàn ăn không được làm xáo trộn việc phục vụ Lời Chúa. Không được
giựt ai ra khỏi thái độ làm môn đệ, thái độ mà Maria đã chọn, để đưa họ về thái
độ phục vụ như tôi tớ. Matta lầm khi không nhìn thấy thái độ ngồi nghe Lời Chúa
cũng là phục vụ và là phục vụ cần thiết hơn. Bà cũng nên biết phục vụ của bà có
phần bận rộn bộn bàng đó. Abraham đã phục vụ hết tình nhưng bình tĩnh vô cùng.
Dù
sao, như đã nói không nên coi câu trả lời của Chúa như là những ý tưởng chỉ nói
cho Matta và chỉ phát biểu có lần này ở đây thôi. Hiểu như vậy không thể nào
không thương cho Matta được. Nhưng nếu hiểu đây là giáo huấn Chúa nói với mọi
người và đã từng lặp lại ở nhiều trường hợp khác nhau, thì Matta không có gì phải
buồn. Bà chỉ cần khiêm nhường đón lời mạc khải của Chúa về mầu nhiệm Nước Trời.
Và Lời ấy sẽ có giá trị cứu độ. Vì nó nhắc nhở cho tất cả chúng ta nhớ luôn
luôn phải gỡ mình ra khỏi những lo lắng thế gian, cản trở việc tìm kiếm Nước Trời.
Và việc phục vụ bàn ăn, tức là việc phục vụ nói chung, vẫn không bao giờ được
làm cản trở việc phục vụ Lời Chúa.
Nếu
trong bài đọc I, phụng vụ hôm nay đã hết lời ca tụng thái độ phục vụ của
Abraham thì thiết tưởng chúng ta cũng phải dễ tính để cho bài Tin Mừng hôm nay
xếp đặt lại địa vị lắng nghe Lời Chúa và phục vụ Lời Người. Những người thông
thái về Nước Trời phải biết rút ra cả những sự cũ và mới.
Ấy là
chưa kể còn có một thứ phục vụ nữa cũng không được thiếu ở trong đạo ta và nơi
đời sống đạo của chúng ta. Bài thư Phaolô sẽ đề cập đến.
3. Ngay Ðau Khổ Cũng Là Phục Vụ
Phaolô
bấy giờ đang ở trong tù. Có lẽ đúng hơn người đang ở trong tình trạng là tù
nhân nhưng vẫn được tại ngoại. Người gửi thư cho giáo đoàn Côlôsê. Và ở đoạn
này, người nói đến mình không phải tự khoe nhưng để tín hữu hiểu thế nào là ơn
gọi tông đồ.
Ðó là
sứ mệnh được Thiên Chúa chỉ cho để rao giảng Lời Chúa. Riêng trường hợp của
Phaolô, việc rao giảng này lại được quy định nơi dân ngoại, để cả lương dân được
thấy mầu nhiệm của Chúa.
Mầu
nhiệm này ngày trước còn bị giữ kín. Các dân tộc ngày xưa không được biết mạc
khải của Chúa. Nhưng từ ngày Ðức Giêsu Kitô đã lên cây thập giá để hủy bỏ bức
tường ngăn cách giữa dân "cắt bì" và những "dân không cắt
bì", thì mọi dân tộc đều được biết mầu nhiệm phong phú và vinh quang, là mầu
nhiệm Ðức Giêsu Kitô ở giữa mọi người có đức tin để hết thảy được tin tưởng vào
vinh quang đang chờ mình.
Mầu
nhiệm cứu độ này, Phaolô đang phục vụ cho lương dân khi chẳng quản gian lao thử
thách, luôn rao giảng cho mọi người. Nhưng nay bị tù, bị hạn chế và quản thúc,
Phaolô vẫn tiếp tục phục vụ dưới hình thức khác: đó là hình thức chịu đau khổ.
Và đây
là điểm chúng ta nên nhớ, Phaolô coi trọng việc phục vụ Lời Chúa. Không ai đã
dám nói như người: "Thật khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng cứu
độ". Nhưng nay thấy mình trong thân phận tù nhân và suy nghĩ đến mầu nhiệm
Ðức Giêsu mà mình đã được tuyển chọn để phục vụ, Phaolô nhận ra: Chịu đau khổ
cũng là phục vụ.
Quả vậy,
những đau khổ hiện nay người đang chịu là lo việc rao giảng Lời Chúa, mang Tin
Mừng Nước Trời đến cho các dân tộc. Ðó là những đau khổ tất yếu gắn liền với việc
phục vụ Lời Chúa. Chính Ðức Giêsu vì rao truyền Danh Ðức Chúa Cha mà phải chịu
nhiều đau khổ; và Người cũng đã khẳng định rằng môn đệ phải chịu nhiều đau khổ
để làm chứng cho Người. Người còn nói trước những thử thách lớn lao và bắt bớ dữ
tợn vào thời kỳ sau hết. Thế nên lời rao giảng thánh giá đi đến đâu cũng sinh
ra nhiều tử đạo ở những nơi ấy. Những đau khổ và thử thách lớn lao này không cần
thiết theo nghĩa để bù đắp những gì còn thiếu nơi các nỗi thống khổ của Ðức
Giêsu vì lẽ cuộc tử nạn của Người chưa đủ sức để đền bù tội lỗi. Không, thánh
giá của Người thật vinh quang, và máu Người đổ ra đã đem lại ơn cứu độ. Nhưng
khi ơn này đến với chúng ta và nơi các dân tộc chúng ta gặp thấy không thiếu những
thánh giá bên trong và bên ngoài.
Ðó là
những đau khổ cần thiết để kết hiệp chúng ta vào mầu nhiệm thánh giá Chúa Kitô
cho chúng ta được cứu độ. Những thánh giá đó cần cho chúng ta, nhưng thật sự
cũng là cần cho Ðức Giêsu mà Người chưa chịu khi sống ở trần gian này, để cho
ơn của Người chuyển đến chúng ta. Bây giờ các tông đồ và môn đệ của Người phải
chịu để làm công việc ấy. Họ chịu để cho mầu nhiệm Ðức Kitô được sáng lên trong
các tâm hồn. Họ bù đắp những gì còn thiếu sót nơi các nỗi quẫn bách của Ðức
Kitô, theo nghĩa ấy, tức là để ơn của Người đến được với các con người đang được
gọi để trở nên thân thể của Người là Hội Thánh. Chịu những đau khổ như vậy cũng
là phục vụ và là phục vụ Lời Chúa, và là phục vụ một cách sâu xa. Thế nên,
thánh Phaolô cũng như mọi tông đồ chân chính khi gặp đau khổ trong sứ vụ đều có
tinh thần của các tử đạo... Hết thảy đều hân hoan và lấy làm vinh dự vì được
thông phần những đau khổ cứu thế của Ðức Giêsu Kitô.
Như vậy,
phục vụ trong đạo ta có nhiều mặt. Phục vụ bàn ăn và thi hành các việc bác ái
thương người là điều qúy. Nhưng phục vụ Lời Chúa lại là việc không được xao
nhãng vì những lý do phục vụ bác ái.
Và cuối
cùng những kẻ xem ra chẳng phục vụ được gì nhưng đang quảng đại chịu đau khổ
cho mầu nhiệm Ðức Kitô được sáng lên trong Hội Thánh, những kẻ ấy cũng đang phục
vụ và phục vụ rất thánh thiện. Ðiều cần thiết là mỗi người hãy theo ơn gọi của
mình mà phục vụ. Cũng như hết thảy phải phục vụ công việc phải làm vào những giờ
và những nơi nhất định.
Do đó
giờ đây chúng ta phải hết mình phục vụ các mầu nhiệm bàn thờ. Nhưng khi ra khỏi
thánh lễ này, chúng ta lại phải hoàn thành các nhiệm vụ phục vụ anh em và xã hội.
Cũng có thể có những thử thách và đau khổ mà Chúa đang gọi ta phải chịu cho ơn
cứu độ được lan rộng.
Xin
Chúa cho chúng ta ở đâu và lúc nào cũng có tinh thần phục vụ như Abraham, Maria
và Phaolô của các bài đọc Kinh Thánh hôm nay.
(Trích dẫn từ tập sách Giải
Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô
Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 16 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Gen
18:1-10a; Col 1:24-28; Lk 10:38-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tinh thần hiếu khách
Tiếp
rước khách vào nhà là cả một nghệ thuật đòi chúng ta phải biết nhiều thứ, nhưng
hai điều quan trọng nhất là ý thích của khách và hoàn cảnh sinh sống của chúng
ta. Nhiều người nghĩ cách đón tiếp trọng thể nhất là mâm cao cỗ đầy; nhưng nếu
những thứ làm ra không hợp khẩu vị hay ý thích của khách, hậu quả là vừa mất thời
giờ vừa lãng phí đồ ăn. Người khác lại nghĩ chỉ cần đơn giản vài món, hậu quả
là khách cảm thấy họ bị xúc phạm.
Các
bài đọc hôm nay giúp chúng ta trau dồi nghệ thuật tiếp khách; nhất là khi tiếp
đón Thiên Chúa, vị thượng khách Tối Cao. Trong bài đọc I, Abraham, tuy không biết
ba vị khách đến thăm mình là ai, nhưng đã tiếp ba vị khách qua đường hết lòng.
Hậu quả ông nhận được là ba vị thượng khách đó quan tâm để cảnh góa bụa của
Sarah, vợ ông. Các ngài hứa năm sau khi trở lại, Sarah sẽ sinh cho Abraham một
bé trai để nối dõi tông đường. Trong bài đọc II, thánh Phaolô biết rõ Vị Thượng
Khách của mình cần gì và khả năng của mình có thể làm được. Ông xin chịu tất cả
những gian nan mà Đức Kitô còn phải chịu để giúp cho thân thể của Ngài là Hội
Thánh được đạt tới mức vẹn toàn. Trong Phúc Âm, em Maria đã biết được ý của
Chúa Giêsu khi Ngài đến thăm nhà, nên em ngồi dưới chân Chúa Giêsu để nghe Ngài
giảng dạy. Khi chị Martha than phiền với Chúa Giêsu vì cô em không giúp mình việc
bếp núc, Chúa Giêsu chỉ cho Martha thấy rõ cô đã không hiểu ý Thiên Chúa:
"Martha! Martha ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một
chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy
đi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nếu tôi được đẹp lòng Ngài, xin Ngài đừng
đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài.
1.1/ Tinh
thần hiếu khách của Abraham
Theo
trình thuật, chỉ có người viết biết một trong ba vị khách là Thiên Chúa,
Abraham không biết điều này vì ba vị đều trong hình dạng con người.
Xét
hoàn cảnh đón khách của Abraham, chúng ta thấy tinh thần hiếu khách của ông đã
đạt tới mức tuyệt đỉnh.
- Đây
là ba người khách lạ, Abraham không quen những người này. Họ là khách qua đường.
- Họ đến
bất ngờ, Abraham không biết trước để chuẩn bị cho chu đáo.
- Họ đến
vào thời tiết nóng nực nhất trong ngày; không ai muốn nấu nướng vào lúc nóng nực
như thế.
-
Abraham niềm nở chạy ra săn đón và năn nỉ mời khách vào nhà.
- Ông
đón tiếp rất tử tế: Abraham sụp lạy khách, lấy nước rửa chân cho khách, mời
khách vào bàn ăn trong khi ông đứng để phục vụ.
- Ông
tỏ ra rất rộng lượng trong việc đón khách: ba thúng tinh bột, con bê tơ, sữa
chua, sữa tươi...
Tất cả
những điều này chứng minh tinh thần hiếu khách của Abraham và Sarah. Trình thuật
có vấn đề khó khăn để hiểu văn bản trong câu 3: “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp
lòng Ngài, xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài.” Danh từ “Ngài” ở
ngôi thứ nhất số ít; trong khi câu 4 và 5 đều ở ngôi thứ nhất số nhiều, “các
ngài.” Nhiều học giả thắc mắc không biết Abraham có nhận ra Đức Chúa đến viếng
thăm ông không; và nếu có, ông nhận ra lúc nào?
1.2/ Phần
thưởng được hứa cho Abraham
Vì
Abraham không biết Đức Chúa đến thăm mình, ít nhất ngay từ đầu, nên sự đón tiếp
của ông là đón tiếp khách một cách vô vị lợi: ông không nhằm được ích lợi gì cả.
Sau khi thấy Abraham tiếp đón mình cách tử tế, ba vị khách hỏi thăm Sarah, vợ của
Abraham. Họ hứa ban cho hai vợ chồng một phần thưởng trọng hậu là có con trai
trong lúc tuổi già. Họ hứa: "Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó
bà Sarah vợ ông sẽ có một con trai."
2/ Bài đọc II: Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì Đức
Kitô và vì Hội Thánh.
2.1/
Phaolô biết những gì Đức Kitô mong muốn.
Yêu
thương ai là phải biết tính tình và sở thích của người đó. Nếu con người yêu
thương Thiên Chúa, họ sẽ cố gắng làm trọn ba điều đầu tiên của Kinh Lạy Cha:
Xin cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như
trên trời.
Phaolô
yêu Đức Kitô, thánh nhân biết hai ý định của Đức Kitô: (1) Ngài muốn cho ơn cứu
độ được lan rộng tới mọi người qua việc rao giảng Tin Mừng, và (2) Ngài muốn
cho Giáo Hội, thân thể của Ngài được trở nên tinh tuyền thánh thiện qua Lời
Chúa và các bí tích.
2.2/
Phaolô muốn hoàn thành ý định của Đức Kitô.
(1)
Rao giảng Tin Mừng là chấp nhận đau khổ và thiếu thốn mọi đàng, vì con người thế
gian không luôn sẵn sàng chấp nhận. Đó là lý do mà thánh Phaolô nói: Những gian
nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức. Những
gian nan này có thể là sự từ chối nghe Tin Mừng, đánh đập, tù đày, và ngay cả
cái chết.
Nhưng
Tin Mừng có sức mạnh thay đổi con người và giúp họ đạt được ơn cứu độ. Phaolô
nói với các tín hữu Colossê: Chính Người là Đấng chúng tôi rao giảng, khi
khuyên bảo mỗi người và dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp mỗi
người nên hoàn thiện trong Đức Kitô.
Người
đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các
dân ngoại: đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm
hy vọng đạt tới vinh quang.
(2)
Thánh hóa Hội Thánh: Khi chịu Phép Rửa, người tín hữu được tháp nhập vào thân
thể của Đức Kitô, là Hội Thánh. Vì thế, thánh Phaolô tìm mọi cách để Hội Thánh
trở nên tinh tuyền, thánh thiện, và nhất là luôn hiệp nhất trong đức ái. Thánh
Phaolô hãnh diện tuyên xưng: Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em, vì lợi
ích cho thân thể Người là Hội Thánh. Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh,
theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi phải
rao giảng lời của Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ
bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên
Chúa.”
3/ Phúc Âm: “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không
bị lấy đi."
3.1/ Em
Maria chọn ngồi bên chân Chúa để nghe Ngài giảng dạy.
Nhiều người
chắc cũng nghĩ như chị Martha: con bé này lười quá hay "mồm miệng đỡ tay
chân!" Nhưng đây là một lựa chọn rất tính toán và khôn ngoan, như Chúa
Giêsu đã phải khen Maria bên dưới. Một số lý do có thể Maria đã dựa vào để làm
sự lựa chọn này:
+ Cô
biết rõ thứ tự ưu tiên của cuộc đời: phải chọn Thiên Chúa trước hết. Maria biết
chẳng có ai có những lời khôn ngoan và mang lại sự sống như Chúa Giêsu; vì thế,
cô phải hoãn tất cả các việc khác để lắng nghe những gì Ngài muốn truyền đạt.
+ Cô
biết nắm lấy cơ hội khi nó xảy đến: Một người bận rộn rao giảng như Chúa không
dễ gặp. Cô biết cơ hội để đàm đạo với Chúa không thường xảy ra: nếu không biết
nắm lấy ngay, cô không biết có còn cơ hội nào khác không! Chúng ta phải học nơi
Maria điều này, để khi Chúa gởi những nhà rao giảng đến, chúng ta biết sắp xếp
công việc hàng ngày để nghe những gì họ rao giảng. Đừng giả sử cơ hội sẽ có
mãi, kẻo phải tiếc nuối sau này!
+
Khách đến nhà không chỉ để ăn, nhưng còn để chuyện vãn, tâm sự. Maria thấy chị
bận rộn nấu nướng; cô chọn để trò chuyện với Chúa. Nhiều người chúng ta không
chịu để ý đến khía cạnh tế nhị này; nên đã để cho khách ngồi một mình trong
phòng khách chờ đợi trong khi chúng ta chuẩn bị thức ăn dưới bếp. Hiểu như thế,
quyết định của Maria thật sáng suốt: chị lo nấu ăn, em lo tiếp khách.
3.2/ Chị
Martha chọn để vất vả lo việc phục vụ Chúa Giêsu.
Khi một
thượng khách như Chúa Giêsu đến nhà, đó là lúc để chủ nhà biểu tỏ tài nội trợ,
nấu nướng, và tính hiếu khách. Chúng ta không lạ gì khi Martha quá vất vả lo lắng
tới độ cô tiến lại Chúa Giêsu và than phiền với Ngài: "Thưa Thầy, em con để
mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một
tay!" Ngược lại với những gì Martha mong đợi, Chúa Giêsu đáp:
"Martha! Martha ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một
chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy
đi." Có nhiều điều chúng ta có thể học hỏi từ câu trả lời của Chúa Giêsu:
+
Martha không hiểu rõ thứ tự ưu tiên của cuộc đời: Chúa Giêsu sữa chữa lỗi lầm
cho cô khi Ngài nói: "Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy
đi." Thức ăn có ngon mấy chăng nữa rồi cũng qua đi; nhưng Lời Chúa sẽ ở lại
trong tâm hồn và soi sáng cho con người biết cách sống thế nào để có hạnh phúc
trong cuộc đời.
+
Martha không quan tâm đến người khác: Cô có thể nghĩ chỉ có việc của cô mới
đáng làm, việc của Maria không quan trọng! Đây là một lỗi lầm mà nhiều người
chúng ta mắc phải. Chúng ta đừng bắt người khác phải suy nghĩ và hành động như
mình, vì mỗi người có những suy nghĩ và hành động khác nhau. Chúng ta cũng
không hiểu đủ để xác quyết việc nào là việc tốt nhất, cho đến khi được tuyên bố
rõ ràng bởi Thiên Chúa.
+
Martha không biết sắp xếp thời giờ: Có thể Martha không biết khi nào Chúa đến,
vì ngày xưa không có thói quen có giờ hẹn như thời nay. Dù sao chăng nữa,
Martha không nên lo lắng quá nhiều đến chuyện ăn uống, vì khách tới nhà để thăm
viếng chứ không chỉ để ăn! Các gia đình Việt-nam chúng ta cần chú trọng điều
này, để đừng làm quá nhiều thức ăn mỗi khi tiếp khách. Hầu hết trong các bữa tiệc,
khách không dùng hết một nửa các thức ăn của chủ nhà bày ra. Hậu quả là gia chủ
phải ăn đồ thừa hay phải lãng phí thức ăn cách không cần thiết.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hai
giới răn “mến Chúa yêu người” đòi chúng ta phải có tinh thần hiếu khách với
Thiên Chúa và với tha nhân. Để tỏ tinh thần hiếu khách đúng đắn, chúng ta cần
biết những gì Thiên Chúa và tha nhân muốn, và những gì chúng ta có thể làm được.
- Tổ
chức ăn uống linh đình không phải là dấu hiệu của tinh thần hiếu khách, vì nhiều
khi chúng ta quá chú trọng vào việc nấu nướng và chuẩn bị, chúng ta có thể bỏ
qua những lịch sự tối thiểu và làm buồn lòng khách.
- Những
giá trị tinh thần như ơn cứu độ, rao giảng Tin Mừng, tinh thần hiệp nhất, và sống
đạo phải đặt trên những ăn uống và tiệc tùng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
17/07/16 CHÚA NHẬT TUẦN 16 TN – C
Lc 10,38-42
Lc 10,38-42
Suy niệm: Gabriel Marcel, một triết gia công giáo thuộc phái hiện sinh, trong một vở kịch đã dựng cảnh một người vợ nhất quyết tặng chồng cô nhân ngày sinh nhật một đôi giày mà cô ưa thích, mặc dù trước đó, chồng cô đột nhiên bị tai nạn phải cưa đi đôi chân. Chồng cô
không cần đôi giày nữa, nhưng cô vẫn tặng vì đó là điều cô ưa thích. Thật giống với tình huống của cô Mác-ta ở đây. Cô lo lắng tất bật để thết đãi Chúa một bữa ăn thật thịnh soạn. Nhưng cô không hiểu rằng Thầy Giê-su đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem để chịu chết. Ngài đang phải chiến đấu nội tâm căng thẳng. Và ngoài kia, trong đền thờ, biết bao nhiêu mũi dùi thù địch đang chĩa vào Ngài. Điều Ngài tìm kiếm nơi tổ ấm Bê-ta-ni-a này là một chốn yêu thương, một nguồn an ủi cảm thông, một sự lắng nghe, chia sẻ. Cô Mác-ta yêu Chúa. Nhưng cô không hiểu Chúa. Cô yêu Chúa theo kiểu của cô. Cô Ma-ri-a cũng yêu Chúa
và hiểu Chúa. Nên cô đã chọn điều Chúa mong muốn.
Mời Bạn: Bạn có bao giờ tìm hiểu điều Chúa muốn tôi làm cho Ngài bây giờ là gì? Bạn hãy tìm cho ra điều đó và hãy làm theo ý muốn của Ngài.
Chia sẻ: Chỉ làm điều tốt theo ý riêng có phải là điều tốt thật không? Hay đúng ra, tôi, chúng ta tất cả đều phải làm điều tốt như lòng Chúa mong muốn?
Sống Lời Chúa: Luôn tâm
niệm “làm điều tốt như lòng Chúa mong muốn”.
Cầu nguyện: Đọc kinh “Cúi xin Chúa sáng soi…”
CHỈ CÓ MỘT ĐIỀU CẦN
Cuộc sống dồn dập hôm nay dễ biến chúng ta thành Mácta: xao động, âu lo, căng thẳng, mất kiên nhẫn. Cả người làm việc cho Chúa cũng bị cuốn hút.
Suy
niệm:
Trên
dặm đường rao giảng Tin Mừng,
thỉnh
thoảng Ðức Giêsu và các môn đệ
gặp
được một chỗ nghỉ chân chan chứa tình người.
Mácta
là chủ nhà đón tiếp Ðức Giêsu.
Chị tất
bật lo việc tiếp đãi nấu nướng,
chị
lo lắng trước bao việc phải làm ngay
để có
được một bữa ăn thịnh soạn
hầu tỏ
lòng kính trọng đối với vị khách quý.
Trong
khi đó cô em Maria lại vô tư và bình thản,
ngồi
dưới chân Chúa mà nghe Lời Người.
Maria
say mê nghe Lời Chúa,
Lời mở
tâm tư cô ra trước những chân trời mới mẻ.
Cô thấy
chẳng có gì hạnh phúc hơn giây phút này,
được
ngồi nghe Thầy giảng như một môn đệ thực thụ.
Mácta
không hiểu được cô em gái,
chị
cũng không hiểu được Ðức Giêsu,
nên
cuối cùng chị đã đến thưa với Chúa:
Thầy
không để ý tới sao?
Mácta
muốn Thầy để ý đến việc mình đang làm,
muốn
Thầy nhận ra sự vất vả mình phải chịu.
Em
con để mình con phục vụ.
Mácta
tưởng chỉ có mình mới là người phục vụ.
Chị
không nhận thấy rằng Maria cũng đang tiếp khách
và ngồi
nghe Chúa cũng là một cách phục vụ.
Xin
Thầy bảo em giúp con một tay.
Mácta
kéo Ðức Giêsu vào cuộc,
kéo
Ngài đứng về phía mình, phía đúng,
để
gây áp lực trên cô em.
Chị
muốn Maria phải vào bếp với mình,
phải
phục vụ theo kiểu của mình.
Ngấm
ngầm, Mácta không chấp nhận kiểu phục vụ của Maria.
Có lẽ
chị nghĩ đó là một hành vi vô ích,
trong
khi có biết bao việc quan trọng khác cần làm.
Ðức
Giêsu không ghét Mácta,
không
coi nhẹ việc phục vụ của chị,
nhưng
buộc lòng Ngài phải lên tiếng.
Ngài
muốn giải phóng Mácta khỏi nỗi bồn chồn quá mức.
Ngài
muốn giải phóng chị khỏi cái tôi, khỏi lối nhìn hẹp hòi,
để nhận
ra điều duy nhất cần thiết.
Ngài
gọi tên chị hai lần: Mácta! Mácta!
Con
lo lắng và xao động vì NHIỀU chuyện quá,
dù
chuyện ấy là chuyện con lo cho Thầy.
Cần
thanh lọc lòng mình khỏi những tìm kiếm vị kỷ,
khỏi
những ganh tị nhỏ mọn và tự mãn ngấm ngầm,
để có
thể làm việc cho Chúa trong bình an thư thái,
dù có
gặp thất bại hay bị lãng quên.
Chỉ
có MỘT chuyện cần mà thôi.
Coi
chừng nỗi lo lắng về nhiều chuyện phụ
lại
làm ta quên mất chuyện chính, một chuyện cần hơn cả,
đó là
an tĩnh gặp gỡ và lắng nghe Chúa mỗi ngày
trong
tư thế khiêm hạ của người môn đệ.
Cuộc
sống dồn dập hôm nay dễ biến chúng ta thành Mácta:
xao động,
âu lo, căng thẳng, mất kiên nhẫn.
Cả
người làm việc cho Chúa cũng bị cuốn hút.
Có lẽ
cần bớt việc và thêm giờ cầu nguyện,
cần để
cho Chúa làm việc nơi tôi và qua tôi
thay
vì tự mình bươn chải một mình.
Phải
chăng đời Kitô hữu là kết hợp giữa Mácta và Maria,
giữa
tất bật và an tĩnh,
giữa
lăng xăng và ngồi yên,
giữa
hoạt động và cầu nguyện?
Ðể rồi
giữa tất bật, tôi tìm thấy an tĩnh,
giữa
lăng xăng, tôi thấy mình ngồi yên,
giữa
hoạt động, tôi thấy mình chiêm niệm.
Cầu
nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây
thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được
an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi
bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin
cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để
nghe lời Người.
Khi
bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu
nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của
con
và khuôn mặt thật của Chúa.
Lm
Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
17
THÁNG BẢY
Thiên
Chúa Đặt Trước Mặt Chúng Ta: Lửa Và Nước
Việc
tôn trọng sự tự do của tạo vật thì khẩn thiết đến nỗi Thiên Chúa – trong sự
quan phòng của Ngài – thậm chí cho phép xảy ra sự tội nơi con người và nơi các
thiên thần. Các tạo vật có lý trí – quả thật cao cả song cũng vẫn giới hạn và
không hoàn hảo – có thể lạm dụng tự do của mình và bất tuân phục Thiên Chúa là
Đấng Tạo Hóa. Chính khả năng ấy đã gây rắc rối cho tâm trí con người.
Sách
Huấn Ca suy tư về thực tại này rất sâu sắc: “Từ nguyên thủy, chính Chúa đã làm
nên con người, và để nó tự quyết định lấy. Nếu con muốn, thì hãy giữ các điều
răn mà trung tín làm điều đẹp ý Ngài. Trước mặt con, Ngài đã đặt lửa và nước,
con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai
thích gì, sẽ được cái đó. Vì trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao, Ngài mạnh
mẽ uy quyền và trông thấy tất cả. Ngài để mắt nhìn xem những ai kính sợ Ngài,
và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện. Ngài không truyền cho ai ăn ở thất
đức, cũng không cho phép ai phạm tội” (Hc 15,14-20).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
17 – 7
Chúa
Nhật XVI Thường niên
St
18,1-10; Cl 1,24-28; Lc 10,38-42.
Lời
suy niệm: “Mácta! Mácta ơi! chị băng khoăn lo lắng
nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt
nhất và sẽ không bị lấy đi.”
Trước
sự tiếp đón của hai chị em Mácta và Maria có tính cách khác nhau, nhưng cả hai
đều tỏ ra ân cần đối với Chúa Giêsu. Công việc và thái độ của cả hai chị em đều
là tốt, mang tính phục vụ; ngay từ đầu Chúa Giêsu không có ý kiến, nhưng đến
khi Mácta đòi sự quan tâm của Chúa và phê phán Maria, muốn Maria phải làm theo
cách của mình. Chúa Giêsu mới phân giải để mọi sự được tốt đẹp hơn.
Lạy
Chúa Giêsu. Chúa muốn chúng con mang tinh thần tự nguyện trong mọi công tác phục
vụ, Chứ không muốn đem ý riêng mình áp đặt trên người khác. Xin cho mọi thành
viên trong gia đình chúng con có tinh thần nhanh nhẹn như Mácta và sự thinh lặng
như Maria.
Mạnh
Phương
17
Tháng Bảy
Ðiều Quý Giá Nhất Trên Ðời
Có
hai người lái buôn và cũng là hai người bạn thân quyết chí lên đường đi tìm cho
kỳ được điều quý giá nhất trên trần gian này. Mỗi người ra đi một ngả và thề thốt
sẽ gặp lại nhau sau khi đã tìm được điều quý giá nhất ấy.
Người
thứ nhất lặn lội đi tìm cho kỳ được viên ngọc mà ông cho là quý giá nhất trên
trần gian này. Ông băng rừng, vượt biển và không bỏ sót thành phố, làng mạc nào
mà không ghé qua. Bất cứ nơi nào có bán đá quý, ông đều tìm tới. Cuối cùng, ông
mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc mà ông cho là quý giá nhất trần gian. Ông
trở lại quê hương và chờ đợi người bạn của ông.
Nhiều
năm trôi qua mà người bạn của ông vẫn biệt vô âm tín. Thì ra điều ông đi tìm kiếm
không phải là vàng bạc, châu báu, mà là chính Chúa. Ông đi khắp nơi để thọ giáo
những bậc thánh hiền. Ông cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm, nhưng vẫn không tìm gặp
được Chúa.
Ngày
nọ, ông đến ngồi thẫn thờ bên một dòng sông. Nhìn dòng nước trôi lững lờ, ông bỗng
thấy một con vịt mẹ và một đàn vịt con đang bơi lội. Ðàn vịt con tinh nghịch cứ
muốn rời mẹ để đi kiếm ăn riêng. Ði tìm con này đến con nọ, con vịt mẹ cứ phải
lặn lội đi tìm đàn con mà không hề tỏ dấu giận dữ hay gắt gỏng... Nhìn thấy cảnh
vịt mẹ cứ mãi đi tìm con như thế, người đàn ông mỉm cười và đứng dậy trở về quê
hương.
Vừa
gặp nhau, người bạn đã tìm được viên ngọc quý mới buột miệng hỏi trước:
"Cho tôi xem thử điều quý giá nhất mà anh đa tìm được. Tôi nghĩ đó phải là
điều tuyệt diệu, bởi vì gương mặt anh dường như đang nở nụ cười mãn nguyện chưa
từng thấy".
Con
người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập hân hoan trả lời:
"Tôi đã đi tìm Chúa và cuối cùng tôi đã khám phá ra rằng chính Ngài là Ðấng
đi tìm tôi".
Có
con vịt mẹ đi tìm con không biết mệt mỏi, có lời loan báo của sứ thần cho các mục
tử trong đêm Giáng Sinh, có ánh sao lạ dẫn đường chỉ lối cho các nhà đạo sĩ...
Có trăm phương nghìn cách qua đó Thiên Chúa không ngừng đi tìm con người và ngỏ
lời với con người.
Thiên
Chúa không ngừng đi tìm kiếm và ra dấu cho con người. Ngài ra dấu cho chúng ta
qua muôn kỳ công trong vũ trụ. Ngài ra dấu cho chúng ta qua những khám phá kỳ
diệu của con người. Ngài ra dấu cho chúng ta qua những thiện chí thực thi tình
người của chính con người... Bao nhiêu vẻ đẹp là bấy nhiêu những vì sao dẫn đường
chỉ lối cho con người.
Nhưng
Thiên Chúa không dẫn đường chỉ lối bằng những ánh sao lạ, Ngài còn mời gọi
chúng ta bằng những tiếng gọi âm thầm. Có tiếng gọi âm thầm của buổi bình minh,
của chiều tà, của những đêm không trăng sao. Có tiếng gọi âm thầm của một nụ cười
vừa hé mở. Có tiếng gọi âm thầm của tiếng khóc câm lặng. Có tiếng gọi âm thầm của
những mất mát, đổ vỡ.
Mỗi một
khoảnh khắc qua đi là một tiếng gọi âm thầm. Phải, Ngài đang có mặt trong từng
phút giây của cuộc sống chúng ta, bởi vì tên của Ngài là Emmanuel, nghĩa là
Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
(Lẽ
Sống)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét