Tiểu sử chính thức của 5 vị Hồng Y được tấn phong ngày thứ Tư
28/6/2017
Đặng Tự Do6/25/2017
Lúc 4 giờ chiều ngày thứ Tư 28 tháng 6, tại Đền Thờ Thánh
Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ sự Công Nghị Tấn Phong Hồng Y, trao mũ, nhẫn
và nhà thờ hiệu tòa cho 5 vị tân Hồng Y.
Dưới đây là tiểu sử chính thức của 5 vị Hồng Y sắp được tấn phong.
1. Đức Cha Jean Zerbo - Tổng giám mục Bamako – Mali
Dưới đây là tiểu sử chính thức của 5 vị Hồng Y sắp được tấn phong.
1. Đức Cha Jean Zerbo - Tổng giám mục Bamako – Mali
Đức Cha Jean Zerbo sinh tại Segou vào ngày 27 tháng 12 năm
1943. Ngài được thụ phong linh mục ngày 10 tháng 7 năm 1971 tại Segou.
Sau khi được thụ phong linh mục, ngài tiếp tục học tại Lyon, bên Pháp; và sau đó theo học tại Học viện Kinh Thánh ở Rôma từ năm 1977 đến năm 1981, là năm ngài nhận được bằng Cao Học Kinh Thánh.
Từ năm 1982, ngài phục vụ trong tư cách một linh mục chánh xứ ở Markala và là một giảng viên tại đại chủng viện Bamako.
Ngài được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá của tổng giáo phận Bamako vào ngày 21 tháng 6 năm 1988.
Ngày 19 tháng 12 năm 1994, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm giám mục giáo phận Mopti. Bốn năm sau đó, vào ngày 27 tháng 6 năm 1998, ngài được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Bamako.
Đức Tổng Giám Mục đã đóng một vai trò tích cực trong các cuộc đàm phán hòa bình ở Mali. Ngài dành được sự kính trọng của người dân Mali bất kể lương giáo vì đã đi tiên phong trong cuộc chiến chống lại sự loại trừ, và trên hết, đã thúc đẩy hòa giải và liên đới giữa người Mali.
2. Đức Cha Juan José Omella – Tổng Giám Mục Barcelona - Tây Ban Nha
Sau khi được thụ phong linh mục, ngài tiếp tục học tại Lyon, bên Pháp; và sau đó theo học tại Học viện Kinh Thánh ở Rôma từ năm 1977 đến năm 1981, là năm ngài nhận được bằng Cao Học Kinh Thánh.
Từ năm 1982, ngài phục vụ trong tư cách một linh mục chánh xứ ở Markala và là một giảng viên tại đại chủng viện Bamako.
Ngài được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá của tổng giáo phận Bamako vào ngày 21 tháng 6 năm 1988.
Ngày 19 tháng 12 năm 1994, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm giám mục giáo phận Mopti. Bốn năm sau đó, vào ngày 27 tháng 6 năm 1998, ngài được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Bamako.
Đức Tổng Giám Mục đã đóng một vai trò tích cực trong các cuộc đàm phán hòa bình ở Mali. Ngài dành được sự kính trọng của người dân Mali bất kể lương giáo vì đã đi tiên phong trong cuộc chiến chống lại sự loại trừ, và trên hết, đã thúc đẩy hòa giải và liên đới giữa người Mali.
2. Đức Cha Juan José Omella – Tổng Giám Mục Barcelona - Tây Ban Nha
Đức Cha Juan José Omella sinh tại Cretas ngày 21 tháng 4 năm
1946.
Ngài đã hoàn thành các chương trình triết học và thần học tại chủng viện Zaragoza và tại trung tâm đào tạo linh mục của Hội Truyền Giáo Phi Châu White Fathers ở Leuven và Jerusalem. Ngài được thụ phong linh mục vào ngày 20 tháng 9 năm 1970.
Giữa những năm 1990 và năm 1996, ngài làm cha phó, rồi cha xứ, trước khi được cử làm cha tổng đại diện giáo phận Zaragoza.
Sau đó, ngài sang truyền giáo ở Zaire trong một năm.
Ngày 15 tháng 7 năm 1996, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm giám mục phụ tá của Zaragoza.
Ba năm sau, ngày 27 tháng 10 năm 1999, ngài được bổ nhiệm làm giám mục chính tòa của giáo phận Barbastro-Monzón.
Từ ngày 24 tháng 8 năm 2001 đến ngày 19 tháng 12 năm 2003, ngài kiêm nhiệm giám quản Tông Tòa Huesca và từ ngày 19 tháng 10 năm 2001 đến ngày 19 tháng 12 năm 2003, kiêm nhiệm giám quản Tông Tòa Jaca.
Ngày 8 tháng 4 năm 2004, ngài được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Calahorra và La Calzada-Logrorio.
Ngày 6 tháng 11 năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm ngài là thành viên của Bộ Giám mục.
Ngày 26 tháng 12 cùng năm, ngài trở thành Tổng giám mục Barcelona.
Trong Hội Đồng Giám Mục Tây Ban Nha, Đức Cha đã là thành viên của Ủy ban mục vụ xã hội cho đến năm 1996, và giữ chức chủ tịch ủy ban này từ năm 2002 đến 2008, và sau đó thêm một nhiệm kỳ nữa từ năm 2014 đến năm 2017.
Ngài cũng là thành viên của Ủy ban Mục vụ, và Ủy ban Tông Đồ Giáo Dân.
Từ ngày 14 tháng 3 năm 2017 đến nay, ngài đã là thành viên của Ban chấp hành Liên Hội Đồng Giám Mục Âu Châu.
3. Đức Cha Anders Arborelius, O.C.D. - Giám mục Stockholm – Thụy Điển
Ngài đã hoàn thành các chương trình triết học và thần học tại chủng viện Zaragoza và tại trung tâm đào tạo linh mục của Hội Truyền Giáo Phi Châu White Fathers ở Leuven và Jerusalem. Ngài được thụ phong linh mục vào ngày 20 tháng 9 năm 1970.
Giữa những năm 1990 và năm 1996, ngài làm cha phó, rồi cha xứ, trước khi được cử làm cha tổng đại diện giáo phận Zaragoza.
Sau đó, ngài sang truyền giáo ở Zaire trong một năm.
Ngày 15 tháng 7 năm 1996, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm giám mục phụ tá của Zaragoza.
Ba năm sau, ngày 27 tháng 10 năm 1999, ngài được bổ nhiệm làm giám mục chính tòa của giáo phận Barbastro-Monzón.
Từ ngày 24 tháng 8 năm 2001 đến ngày 19 tháng 12 năm 2003, ngài kiêm nhiệm giám quản Tông Tòa Huesca và từ ngày 19 tháng 10 năm 2001 đến ngày 19 tháng 12 năm 2003, kiêm nhiệm giám quản Tông Tòa Jaca.
Ngày 8 tháng 4 năm 2004, ngài được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Calahorra và La Calzada-Logrorio.
Ngày 6 tháng 11 năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm ngài là thành viên của Bộ Giám mục.
Ngày 26 tháng 12 cùng năm, ngài trở thành Tổng giám mục Barcelona.
Trong Hội Đồng Giám Mục Tây Ban Nha, Đức Cha đã là thành viên của Ủy ban mục vụ xã hội cho đến năm 1996, và giữ chức chủ tịch ủy ban này từ năm 2002 đến 2008, và sau đó thêm một nhiệm kỳ nữa từ năm 2014 đến năm 2017.
Ngài cũng là thành viên của Ủy ban Mục vụ, và Ủy ban Tông Đồ Giáo Dân.
Từ ngày 14 tháng 3 năm 2017 đến nay, ngài đã là thành viên của Ban chấp hành Liên Hội Đồng Giám Mục Âu Châu.
3. Đức Cha Anders Arborelius, O.C.D. - Giám mục Stockholm – Thụy Điển
Đức Cha Anders Arborelius, Dòng Cát Minh Nhặt Phép, sinh tại
Sorengo vào ngày 24 tháng 9 năm 1949. Năm 20 tuổi, ngài mới gia nhập đạo Công
Giáo.
Năm 1971, ngài gia nhập Dòng Cát Minh Nhặt Phép ở Norraby, và khấn trọn tại Bruges, bên Bỉ vào năm 1977.
Ngài đã hoàn thành các chương trình triết học và thần học ở Bỉ và tại Teresianum ở Rôma.
Đồng thời, ngài cũng theo học các ngôn ngữ hiện đại tại Đại học Lund.
Vào ngày 8 tháng 9 năm 1979, ngài được phong chức linh mục ở Malmö.
Ngày 29 tháng 12 năm 1998, ngài được tấn phong giám mục tại Stockholm và trở thành giám mục Công Giáo đầu tiên của Thụy Điển, là người Thụy Điển chính gốc, từ sau thời Cải cách Luther năm 1500.
Từ năm 2005 đến năm 2015, ngài là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Scandinavia. Sau khi hết nhiệm kỳ 10 năm, trong cuộc họp khoáng đại năm 2015, ngài được tái cử trong chức vụ phó chủ tịch.
Ngài đã từng là thành viên của Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình từ năm 2002 đến năm 2009.
Ngày 21 tháng Giêng vừa qua, ngài được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm cố vấn Bộ Giáo Dân, Gia Đình và Sự Sống.
4. Đức Cha Louis-Marie Ling Mangkhanekhoun - Đại diện Tông Tòa của Pakse – Lào
Năm 1971, ngài gia nhập Dòng Cát Minh Nhặt Phép ở Norraby, và khấn trọn tại Bruges, bên Bỉ vào năm 1977.
Ngài đã hoàn thành các chương trình triết học và thần học ở Bỉ và tại Teresianum ở Rôma.
Đồng thời, ngài cũng theo học các ngôn ngữ hiện đại tại Đại học Lund.
Vào ngày 8 tháng 9 năm 1979, ngài được phong chức linh mục ở Malmö.
Ngày 29 tháng 12 năm 1998, ngài được tấn phong giám mục tại Stockholm và trở thành giám mục Công Giáo đầu tiên của Thụy Điển, là người Thụy Điển chính gốc, từ sau thời Cải cách Luther năm 1500.
Từ năm 2005 đến năm 2015, ngài là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Scandinavia. Sau khi hết nhiệm kỳ 10 năm, trong cuộc họp khoáng đại năm 2015, ngài được tái cử trong chức vụ phó chủ tịch.
Ngài đã từng là thành viên của Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình từ năm 2002 đến năm 2009.
Ngày 21 tháng Giêng vừa qua, ngài được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm cố vấn Bộ Giáo Dân, Gia Đình và Sự Sống.
4. Đức Cha Louis-Marie Ling Mangkhanekhoun - Đại diện Tông Tòa của Pakse – Lào
Đức Cha Louis-Marie Ling Mangkhanekhoun sinh ngày 8 tháng 4
năm 1944 tại Lào, thuộc tu hội Thánh Ý Thiên Chúa (Voluntas Dei). Ngài hoàn
thành các chương trình triết học và thần học tại Lào và Canada; và được thụ
phong linh mục vào ngày 5 tháng 11 năm 1972 tại miền Giám Quản Tông Tòa Viêng
Chăn.
Bên cạnh tiếng Lào, là tiếng mẹ đẻ, ngài còn thông thạo tiếng Khmer, Pháp và Anh.
Sau khi được thụ phong linh mục, ngài chịu trách nhiệm về việc huấn luyện các giáo lý viên và phụ trách việc truyền giáo trên các vùng sơn cước của Lào; là hai nhiệm vụ cam go và đầy thử thách dưới thời cai trị của Pathet Lào.
Năm 1975, ngài được bổ nhiệm làm linh mục chính xứ và sau đó là tổng đại diện miền Giám Quản Tông Tòa Viêng Chăn.
Ngày 30 tháng 10 năm 2000, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm Đại diện Tông Tòa của Pakse và ngài được tấn phong Giám Mục ngày 22 tháng 4 năm 2001. Sau gần 17 năm cai quản Pakse, miền đất này đã có gần 13 ngàn tín hữu Công Giáo, với 6 linh mục giáo phận, 1 linh mục dòng, 12 chủng sinh, 9 tu huynh và 18 nữ tu.
Ngày 2 tháng 2 năm 2017, Đức Thánh Cha bổ nhiệm ngài kiêm nhiệm Giám quản Tông tòa Viên Chăn.
5. Đức Cha Gregorio Rosa Chávez - Giám mục phụ tá của Tổng Giáo phận San Salvador - El Salvador.
Bên cạnh tiếng Lào, là tiếng mẹ đẻ, ngài còn thông thạo tiếng Khmer, Pháp và Anh.
Sau khi được thụ phong linh mục, ngài chịu trách nhiệm về việc huấn luyện các giáo lý viên và phụ trách việc truyền giáo trên các vùng sơn cước của Lào; là hai nhiệm vụ cam go và đầy thử thách dưới thời cai trị của Pathet Lào.
Năm 1975, ngài được bổ nhiệm làm linh mục chính xứ và sau đó là tổng đại diện miền Giám Quản Tông Tòa Viêng Chăn.
Ngày 30 tháng 10 năm 2000, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm Đại diện Tông Tòa của Pakse và ngài được tấn phong Giám Mục ngày 22 tháng 4 năm 2001. Sau gần 17 năm cai quản Pakse, miền đất này đã có gần 13 ngàn tín hữu Công Giáo, với 6 linh mục giáo phận, 1 linh mục dòng, 12 chủng sinh, 9 tu huynh và 18 nữ tu.
Ngày 2 tháng 2 năm 2017, Đức Thánh Cha bổ nhiệm ngài kiêm nhiệm Giám quản Tông tòa Viên Chăn.
5. Đức Cha Gregorio Rosa Chávez - Giám mục phụ tá của Tổng Giáo phận San Salvador - El Salvador.
Đức Cha Gregorio Rosa Chávez sinh tại Sociedad vào ngày 3
tháng 9 năm 1942.
Ngài hoàn thành các chương trình triết học và thần học tại Đại Chủng viện San José de la Montaña ở San Salvador trong hai giai đoạn từ 1962 đến 1964, và từ 1966 đến 1969.
Năm 1965, ngài làm việc tại tiểu chủng viện của giáo phận San Miguel.
Ngài được phong chức linh mục vào ngày 24 tháng Giêng năm 1970, và từng làm thư ký Tòa Giám mục giáo phận San Miguel từ 1970 đến 1973; trong khi coi sóc giáo xứ Đức Mẹ Mân Côi, tại thành phố San Miguel.
Trong thời gian này ngài cũng đảm nhận chức vụ giám đốc truyền thông xã hội của giáo phận San Miguel; và làm tuyên úy cho nhiều hiệp hội và phong trào tông đồ giáo dân.
Sau đó, ngài theo học tại Đại học Công Giáo Leuven, Bỉ từ 1973 đến 1976, và đạt được bằng Cao Học về Truyền thông xã hội.
Ngoài tiếng mẹ đẻ là tiếng Tây Ban Nha, ngài nói thông thạo tiếng Pháp, và có kiến thức tổng quát về tiếng Anh, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Ý.
Sau khi trở về nước, năm 1977, ngài được Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero bổ nhiệm làm chánh văn phòng truyền thông của tổng giáo phận thủ đô San Salvador; và trực tiếp điều hành một đài phát thanh Công Giáo.
Bên cạnh đó, ngài còn là giám đốc đại chủng viện San José de la Montaña ở San Salvador từ 1977 đến 1982; và là thành viên hội đồng quản trị của Tổ chức Các Chủng Viện Mỹ Latinh từ 1979 đến 1982.
Ngài được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá của Tổng giáo phận San Salvador ngày 3 tháng Bảy năm 1982.
Ngài hiện là linh mục chính xứ giáo xứ San Francisco ở thủ đô San Salvador, và là chủ tịch của Caritas Mỹ Châu Latinh và vùng Caribê. Ngài cũng là giám đốc Caritas El Salvador.
Ngài hoàn thành các chương trình triết học và thần học tại Đại Chủng viện San José de la Montaña ở San Salvador trong hai giai đoạn từ 1962 đến 1964, và từ 1966 đến 1969.
Năm 1965, ngài làm việc tại tiểu chủng viện của giáo phận San Miguel.
Ngài được phong chức linh mục vào ngày 24 tháng Giêng năm 1970, và từng làm thư ký Tòa Giám mục giáo phận San Miguel từ 1970 đến 1973; trong khi coi sóc giáo xứ Đức Mẹ Mân Côi, tại thành phố San Miguel.
Trong thời gian này ngài cũng đảm nhận chức vụ giám đốc truyền thông xã hội của giáo phận San Miguel; và làm tuyên úy cho nhiều hiệp hội và phong trào tông đồ giáo dân.
Sau đó, ngài theo học tại Đại học Công Giáo Leuven, Bỉ từ 1973 đến 1976, và đạt được bằng Cao Học về Truyền thông xã hội.
Ngoài tiếng mẹ đẻ là tiếng Tây Ban Nha, ngài nói thông thạo tiếng Pháp, và có kiến thức tổng quát về tiếng Anh, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Ý.
Sau khi trở về nước, năm 1977, ngài được Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero bổ nhiệm làm chánh văn phòng truyền thông của tổng giáo phận thủ đô San Salvador; và trực tiếp điều hành một đài phát thanh Công Giáo.
Bên cạnh đó, ngài còn là giám đốc đại chủng viện San José de la Montaña ở San Salvador từ 1977 đến 1982; và là thành viên hội đồng quản trị của Tổ chức Các Chủng Viện Mỹ Latinh từ 1979 đến 1982.
Ngài được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá của Tổng giáo phận San Salvador ngày 3 tháng Bảy năm 1982.
Ngài hiện là linh mục chính xứ giáo xứ San Francisco ở thủ đô San Salvador, và là chủ tịch của Caritas Mỹ Châu Latinh và vùng Caribê. Ngài cũng là giám đốc Caritas El Salvador.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét