Trang

Thứ Hai, 25 tháng 5, 2020

26-05-2020 : THỨ BA - TUẦN VII PHỤC SINH


26/05/2020
 Thứ Ba tuần 7 Phục Sinh.
 Thánh Philipphê Nêri, linh mục.
 Lễ nhớ.


Sinh năm 1515 tại Phirenxê, thánh nhân đến Rôma và dấn thân lo cho thanh thiếu niên. Người đi vào con đường trọn lành và lập một hội chuyên phục vụ người nghèo. Lãnh chức linh mục năm 1551, người lập Dòng Ô-ra-toa, chuyên lo cầu nguyện và làm việc bác ái trong giới thanh thiếu niên, các bệnh nhân, các tù nhân. Nét nổi bật trong đời của thánh nhân là người yêu thương tha nhân cách thiết thực, đơn sơ và vui vẻ. Người qua đời năm 1595.

BÀI ĐỌC I: Cv 20, 17-27
“Tôi đi cho hết quãng đường đời và hoàn tất nhiệm vụ rao giảng lời Chúa”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, từ Milê, Phaolô sai người đi Êphêxô mời các trưởng giáo đoàn đến. Khi họ đến với ngài và hội họp, ngài nói với họ: “Các ông biết ngay tự ngày đầu khi tôi vào đất Tiểu Á, tôi đã cư xử thế nào với các ông trong suốt thời gian đó, tôi hết lòng khiêm nhường phụng sự Chúa, phải khóc lóc và thử thách do người Do-thái âm mưu hại tôi. Các ông biết tôi không từ chối làm một điều gì hữu ích cho các ông, tôi đã rao giảng và dạy dỗ các ông nơi công cộng và tại tư gia, minh chứng cho người Do-thái và dân ngoại biết phải hối cải trở về với Thiên Chúa, phải tin Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Và giờ đây được Thánh Thần bắt buộc đi Giêrusalem mà không biết ở đó có những gì xảy đến cho tôi, chỉ biết là từ thành này qua thành khác, Thánh Thần báo trước cho tôi rằng: xiềng xích và gian lao đang chờ tôi ở Giêrusalem. Nhưng tôi không sợ chi cả, không kể mạng sống tôi làm quý, miễn là tôi đi cho hết quãng đường đời và hoàn tất nhiệm vụ rao giảng lời Chúa mà tôi đã lãnh nhận nơi Chúa Giêsu là làm chứng về Tin Mừng ơn Thiên Chúa. Và giờ đây, tôi biết rằng hết thảy các ông là những người được tôi ghé qua rao giảng nước Thiên Chúa, các ông sẽ chẳng còn thấy mặt tôi nữa. Vì thế hôm nay tôi quả quyết với các ông rằng: tôi trong sạch không dính máu người nào cả. Vì chưng, tôi không trốn tránh, khi phải rao giảng cho các ông mọi ý định của Thiên Chúa”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 67, 10-11. 20-21
Đáp: Chư quốc trần ai, hãy ca khen Thiên Chúa (c. 33a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, Ngài làm mưa ân huệ xuống cho dân Ngài, và khi họ mệt mỏi, Ngài đã bổ dưỡng cho. Ôi Thiên Chúa, đoàn chiên Ngài định cư trong xứ sở, mà do lòng nhân hậu, Ngài chuẩn bị cho kẻ cơ bần. – Đáp.
2) Chúc tụng Chúa ngày nọ qua ngày kia. Thiên Chúa là Đấng cứu độ, Ngài vác đỡ gánh nặng chúng ta. Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa cứu độ, Chúa là Thiên Chúa ban ơn giải thoát khỏi tay tử thần. – Đáp.
ALLELUIA: Ga 14, 16
Alleluia, alleluia! – Thầy sẽ xin cùng Cha, và Người sẽ ban cho các con Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi. – Alleluia. 
PHÚC ÂM: Ga 17, 1-11a
“Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển Con Cha”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy làm vinh hiển Con Cha, để Con Cha làm vinh hiển Cha. Vì Cha đã ban cho Con quyền trên mọi huyết nhục, để con cũng ban sự sống đời đời cho mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con. Sự sống đời đời chính là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Đấng Cha đã sai, là Giêsu Kitô.
“Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất, Con đã chu toàn công việc mà Cha đã giao phó cho Con. Giờ đây, lạy Cha, xin hãy làm cho Con được vinh hiển nơi Cha với sự vinh hiển mà Con đã có nơi Cha, trước khi có thế gian. Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con, và chúng đã tuân giữ lời Cha. Bây giờ chúng biết rằng những gì Cha ban cho Con, đều bởi Cha mà ra. Vì những lời Cha ban cho Con thì Con đã ban cho chúng và chúng đã lãnh nhận, và biết đích thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng tin rằng Cha đã sai Con.
“Con cầu xin cho chúng, Con không cầu xin cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của Cha. Và mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con đã được vinh hiển nơi chúng. Con không còn ở thế gian nữa, nhưng chúng vẫn còn ở thế gian, phần Con, Con về cùng Cha”. Đó là lời Chúa.

SUY NIỆM : Ngưỡng cửa vào sự sống
Trong ngôn ngữ của thánh Gioan, giờ của Chúa chính là lúc Ngài thể hiện việc cứu chuộc bằng cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài. Cuộc đời Chúa Giêsu có tột đỉnh là thập giá. Ðối với Ngài, thập giá là đường dẫn đến vinh quang. Qua thập giá, Chúa Giêsu làm vinh hiển Chúa Cha cũng như là vinh hiển Ngài.
Thập giá làm vinh hiển Chúa Cha vì nơi thập giá, Chúa Giêsu hoàn tất sứ mệnh được Chúa Cha ủy thác. Khi đến thế gian, sứ mệnh của Chúa Giêsu là mạc khải cho nhân loại biết tình yêu của Thiên Chúa và chỉ cho họ con đường đạt tới tình yêu này. Với cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã biểu lộ trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa; và hướng về thập giá con người cũng cảm nghiệm được tình yêu bao la của Thiên Chúa đến nỗi đã ban Người Con Một cho thế gian.
Thập giá làm vinh hiển Chúa Cha vì nơi đó thể hiện sự vâng lời tuyệt đối. Thật thế, Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng việc vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho Người một danh hiệu cao trọng hơn mọi danh hiệu. Như vậy, thập giá không những làm vinh hiển Chúa Cha mà còn làm vinh hiển Chúa Giêsu vì thập giá chưa phải là dấu tận cùng. Cái chết của Chúa Giêsu không phải là một kết thúc bởi vì đã có sự phục sinh kèm theo, cái chết đó chỉ là tỏ lộ cho vinh quang tỏ hiện. Bởi thế, khi giờ đã đến, Chúa Giêsu đón nhận khổ nhục và cái chết trên thập giá, đó là lúc Ngài bước qua ngưỡng cửa dẫn vào cõi sống vinh quang muôn đời.
Ngưỡng cửa Chúa Giêsu bước qua đó vẫn được mở ngỏ chờ đợi những kẻ theo Ngài tiến vào. Theo Chúa Giêsu, người Kitô không thể đứng ngoài con đường của Ngài. Ðường Ngài đi chỉ có một cửa dẫn vào.
Ước gì chúng ta luôn biết đón nhận mọi đau khổ hy sinh, kể cả cái chết để làm vinh hiển Thiên Chúa, và nhờ đó chúng ta sẽ được hưởng vinh quang của Ngài muôn đời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần VII PS
Bài đọcActs 20:17-27: Jn 17:1-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nhìn lại công cuộc rao giảng Tin Mừng
Thiên Chúa không ngừng gởi những mục tử tốt lành đến để dạy dỗ, yêu thương, và hy sinh cả cuộc đời cho con người. Mục đích của Thiên Chúa khi gởi các sứ giả tới là làm cho con người nhận ra và tin vào tình yêu của Ngài và của Đức Kitô. Điều quan trọng là con người có biết nhận ra và đáp trả tình yêu Thiên Chúa qua những sứ giả đó không? Nếu biết nhận ra, con người sẽ biết bảo vệ món quà đức tin vô giá mà những mục tử này đã trao cho họ; nếu không biết nhận ra, họ sẽ tiếp tục đi trong tối tăm và không đường biết hướng về đâu.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta hai mẫu gương tuyệt vời của hai người chủ chăn đã hy sinh cuộc đời để làm trọn thánh ý Chúa và mưu cầu lợi ích cho tha nhân. Cả hai đều bình an và hài lòng vì mình đã làm tất cả những gì Thiên Chúa trao, và sẵn sàng can đảm đối phó với tương lai nguy hiểm đang tới. Trong Bài Đọc I, Phaolô triệu tập giới lãnh đạo trong cộng đòan Ephesô để nói những lời từ giã tâm huyết với họ trước khi lên đường về Jerusalem để chịu xiềng xích. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng tập họp các Tông-đồ để nói những lời sau cùng và cầu nguyện cho các ông trước khi vào Vườn Cây Dầu để bắt đầu Cuộc Thương Khó của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nếu có ai trong anh em phải hư mất, thì tôi vô can.
1.1/ Phaolô nhìn lại các hoạt động đã làm và từ giã Hội Thánh Ephesus: Ông đã trung thành trong bổn phận rao giảng Tin Mừng Thiên Chúa trao: “Anh em biết tôi đã không bỏ qua một điều gì có ích cho anh em; trái lại tôi đã giảng cho anh em và dạy anh em ở nơi công cộng cũng như tại chốn tư gia. Tôi đã khuyến cáo cả người Do-thái lẫn người Hy-lạp phải trở về với Thiên Chúa, và tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta.” Ông đã vui lòng chịu gian khổ cho việc rao giảng Tin Mừng: “Khi phục vụ Chúa, tôi đã hết lòng khiêm tốn, đã nhiều lần phải rơi lệ, đã gặp bao thử thách do những âm mưu của người Do-thái.”
1.2/ Phaolô nhìn thấy con đường gian khổ sắp tới nhưng vẫn can đảm tiến tới: Ông luôn sẵn sàng sống theo những hướng dẫn của Thánh Thần: “Giờ đây, bị Thần Khí thúc đẩy, tôi về Jerusalem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi.” Tuy biết như thế, nhưng ông sẵn sàng hy sinh tất cả, ngay cả mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng: “Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.”
1.3/ Phaolô trao Hội Thánh Ephesô lại cho các kỳ mục với lời răn dạy: Nói những lời trên, Phaolô không có ý kể công, nhưng muốn cho Hội Thánh Ephesô nhìn thấy đức tin họ có được là do công lao khó nhọc của những nhà rao giảng. Vì thế, ông nhấn mạnh họ có bổn phận phải gìn giữ và làm cho đức tin ngày càng tăng trưởng: “Giờ đây tôi biết rằng: tất cả anh em, những người tôi đã đến thăm để rao giảng Nước Thiên Chúa, anh em sẽ không còn thấy mặt tôi nữa. Vì vậy, hôm nay tôi xin tuyên bố với anh em rằng: nếu có ai trong anh em phải hư mất, thì tôi vô can. Thật tôi đã không bỏ qua điều gì, trái lại đã rao giảng cho anh em tất cả ý định của Thiên Chúa.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ trước Cuộc Thương Khó.
2.1/ Chúa Giêsu kiểm điểm Kế Hoạch Cứu Độ mà Chúa Cha đã trao cho Ngài để hoàn thành: Như một nhà lãnh đạo khôn ngoan luôn làm chủ tình thế, Chúa Giêsu ngồi kiểm điểm những gì đã, đang và sẽ xảy ra.
(1) Nhìn về tương lai sắp tới: Cuộc Thương Khó gần kề, nhưng Chúa Giêsu biết lúc Ngài bị treo trên Thập Giá là lúc Kế Họach Cứu Độ được hoàn thành, nên Đức Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha.”
(2) Mục đích của Kế-hoạch là để mang lại ơn cứu độ cho con người: “Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô.” Biết Cha và biết Con là điều kiện để đạt được cuộc sống đời đời. Động từ “biết” theo Do-thái không chỉ lý thuyết, nhưng phải thực thi những gì Thiên Chúa đòi hỏi.
(3) Nhìn về quá khứ: Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ biết Thiên Chúa và tin vào Ngài được Chúa Cha sai đến: “Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha. Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha. Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con.”
Chúa Giêsu biết Ngài đã hoàn tất bổn phận mặc khải và dạy dỗ các môn đệ. Giờ đây, Ngài phải vượt qua gian khổ cuối cùng để hoàn tất Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, là chấp nhận con đường Tử Nạn và chịu treo trên Thập Giá.
2.2/ Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ: “Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha.” Các môn đệ là quà tặng của Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu là quà tặng của Chúa Cha ban cho con người. Con người là sở hữu chung của cả Chúa Cha và Chúa Giêsu.
Giống như học trò thành công làm thầy dạy được nở mặt nở mày, hay bệnh nhân được chữa khỏi làm vinh danh bác sĩ, con người là lý do Chúa Giêsu được tôn vinh: Vì con người, Chúa Giêsu có cơ hội vâng lời Chúa Cha và chinh phục con người về cho Chúa Cha.
Khi còn sống trong thế gian, Chúa Giêsu đã bảo vệ những kẻ Chúa Cha ban cho Ngài. Giờ đây, Ngài phải từ giã họ, nên cầu xin với Chúa Cha để Ngài bảo vệ họ khỏi mọi nguy hiểm của thế gian: “Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô bảo đảm cho chúng ta phần rỗi đời đời. Đức tin này có được là do sự dạy dỗ và giá máu của Đức Kitô, của các Tông-đồ, của các thánh, và của tổ tiên chúng ta qua các thời đại; chứ không phải tự nhiên mà chúng ta có.
– Mỗi người chúng ta, sau khi đã lãnh nhận đức tin, đều có hai bổn phận: (1) làm cho đức tin ngày một vững mạnh, và (2) loan truyền Tin Mừng cho người khác.
– Chúng ta cần phải năng nhìn lại hai bổn phận này để xét xem: đức tin của chúng ta đã tăng trưởng tới đâu, và chúng ta đã hoàn thành sứ vụ Thiên Chúa trao trong việc rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người trong gia đình và cộng đòan của chúng ta chưa?
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


26/05/2020 – THỨ BA TUẦN 7 PS
Th. Phi-líp-phê Nê-ri, linh mục
Ga 17,1-11a

ĐỨC GIÊ-SU KHÔNG LỢI DỤNG
“Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha.” (Ga 17,9)
Suy niệm: Thời đại ngày nay có rất nhiều người lợi dụng người khác để làm lợi cho mình: có người lợi dụng sự nghèo khó của người khác để bóc lột họ, có người lạm dụng sự đơn sơ của trẻ em để làm những chuyện đồi bại, có người còn khai thác sự nhẹ dạ của người khác để làm tiền, có người lợi dụng chức quyền để vinh thân phì gia… Tình yêu chân chính là một tình yêu không tính toán, không vụ lợi, nhưng luôn luôn tôn trọng người mình yêu mến. Chúa Giê-su đã thực hiện điều ấy khi Ngài tâm tình với Chúa Cha: “Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha”. Chúa Giê-su không lợi dụng ai cả. Ngược lại, các môn đệ là những người mà chính Ngài đã tuyển chọn, Ngài rất đỗi yêu thương cầu xin cho họ để họ tiếp tục công việc rao truyền ơn cứu độ cho nhân loại.
Mời Bạn: Trong cuộc sống, bạn có lợi dụng lòng yêu mến của người khác để bán rẻ địa vị Ki-tô hữu của mình bằng cách lừa đảo, nói dối để thủ lợi cho mình không?
Chia sẻ: Người thích lợi dụng người khác là người không có tâm hồn quảng đại và là người không biết thông cảm với người khác, họ thường trở nên gánh nặng cho mọi người: gánh nặng tâm lý và khó nhọc của thân xác vì bị họ bóc lột. Bạn có nghĩ như vậy không?
(5 Phút Lời Chúa)

SUY NIỆM : Con cầu nguyện cho họ

Suy niệm :
Trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, trước khi bị bắt,
Đức Giêsu đã cầu nguyện trong xao xuyến ở núi Cây Dầu.
Còn trong Tin Mừng Gioan, Ngài đã cầu nguyện trước khi đến đó.
Hôm nay Giáo hội bắt đầu cho ta nghe lời nguyện long trọng này
mà Ngài dâng lên Chúa Cha, trước mặt các môn đệ trong bữa Tiệc ly.
Đức Giêsu không một chút xao xuyến trước cái chết gần kề.
Cả các môn đệ cũng như được nâng lên một tầm cao mới.
Đức Giêsu vẫn bắt đầu lời nguyện bằng tiếng Abba quen thuộc.
Ngài như muốn tóm kết công việc Cha giao phó,
đó là việc tôn vinh Cha qua cuộc sống trên trần gian này (c. 4).
Bây giờ đã đến giờ Ngài về với Cha, nên Ngài nài xin:
“Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha” (c. 1).
Cái chết tự hạ trên thập giá là cử chỉ vâng phục vì yêu thương của Con,
là cử chỉ cao nhất của Con nhằm tôn vinh Cha.
Nhưng tất cả không ngừng lại với thập giá,
vì Cha sẽ tôn vinh Con qua sự phục sinh vinh hiển.
Đức Giêsu được trao quyền năng trên mọi người (c. 2).
Ngài có thể ban sự sống đời đời
cho những ai nhận biết Cha và Con là người được Cha sai (c. 3).
Lời nguyện của Đức Giêsu đặc biệt hướng về các môn đệ
mà Ngài coi là quà tặng quý giá của Cha cho đời mình.
Nhiều lần Ngài nhấn mạnh họ là quà tặng (cc. 2. 6. 7. 9).
Đức Giêsu đã từng coi các môn đệ là những kẻ thuộc về Ngài (Ga 13, 1).
Nhưng Ngài lại không phủ nhận việc họ là người thuộc về Cha (cc. 6. 9).
Môn đệ thật là của chung giữa Cha và Con (c. 10).
Họ là những người được Cha chọn từ thế gian (c.6).
tuy họ vẫn ở trong thế gian (c.11).
Trong giây phút sắp đến cùng Cha, sắp được hưởng vinh quang bên Cha,
Đức Giêsu dâng lời cầu nguyện cho họ (c. 9),
những người còn phải chịu nhiều gian nan thử thách ở đời.
Khi còn sống với họ, Ngài đã cho họ biết Danh Cha (c. 6),
Ngài còn ban cho họ lời mà Ngài đã nhận từ Cha.
Khi đón nhận những lời ấy, họ biết Ngài từ Cha mà đến
và tin Ngài là người Cha sai (c. 8).
Hãy đi vào tâm tình yêu thương của Thầy Giêsu đối với các môn đệ.
Hãy nghe lời cầu nguyện của Ngài cho chúng ta.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn tiếp tục lời cầu nguyện tha thiết ấy.

Cầu nguyện :
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

26 THÁNG NĂM
Tin Mừng Cho Mọi Người
Bạn là tín hữu? Bạn hãy sống đức tin của mình và hãy chuyển trao đức tin cho con em mình. Hãy nêu chứng tá đức tin bằng chính cuộc sống. Bạn hãy yêu mến Giáo Hội như một hiền mẫu. Hãy sống trong Giáo Hội và vì Giáo Hội. Hãy dành chỗ cho mọi người trong trái tim bạn. Hãy thứ tha nhau và hãy gieo rắc hòa bình bất cứ nơi nào bạn có mặt.
Bạn không phải là tín hữu? Hãy tìm kiếm Thiên Chúa, vì Ngài đang kiếm tìm bạn đó!
Bạn đang gặp đau khổ? Hãy vững lòng. Vì Đức Kitô đã từng nếm cảm niềm đau; Người sẽ ban cho bạn sức mạnh để đương đầu với nỗi ê chề của bạn.
Bạn là người trẻ? Hãy làm một cuộc đầu tư tốt nhất cho cuộc đời mình, vì cuộc đời bạn là một kho tàng hết sức quí giá.
Và với tất cả mọi người, tôi sẽ nguyện chúc: Xin ân sủng Thiên Chúa đồng hành với các bạn trong mỗi phút giây của cuộc sống thường ngày.
Và xin đừng quên: Hãy ân cần đón nhận các trẻ thơ ngay từ khoảnh khắc đầu tiên của các em. Ước gì lời chào tốt lành từ ban sơ dành cho các em sẽ mở ra cho các em một cuộc sống tràn đầy ân phúc – đó là niềm mong mỏi của bạn, của tôi, và là niềm mong mỏi của toàn thể Giáo Hội.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II



Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 26/5
Thánh Philípphê Nêri, linh mục
Cv 20, 17-27; Ga 17, 1-11a.

Lời Suy Niệm: “Lạy Cha giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha.”
       Khi đã đến giờ của Chúa Giêsu; Người cầu nguyện cùng Chúa Cha. Lời cầu nguyện này chỉ một lần cho mãi mãi cho đến muôn đời.
       Lạy Chúa Giêsu. Lời cầu nguyện của Chúa trong “Giờ của Chúa” là “Lời nguyện tư tế Tôn Vinh Chúa Cha”. Xin cho trước mỗi lời cầu nguyện của chúng con cũng mang tính tôn vinh Thiên Chúa.
Mạnh Phương



Gương Thánh Nhân
Ngày 26-05: THÁNH PHILIPPHÊ NÊRÔ
Linh Mục (1515 – 1595)

Thánh Philipphê Nêrô sinh năm 1515 tạo Florence. Bị mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, nhưng Philipphê có một bà Dì nhất mực yêu thương. Ngược lại Philipphê cũng rất vui tươi và ngoan ngùy đang cho mọi người yêu thích. Ngài hấp thụ được đức tin sâu xa nôi cha mẹ và các cha dòng Daminh ở tu viện thánh Marcô.
Năm 1533 Ngài đến sống với người cậu ở gần Naples để tập nghề kinh doanh. Ong cậu không có con thừa tự nên muốn dành gia tài cho Philipphê, nhưng thánh nhân thấy mình không có ơn gọi để sống cuộc đời như vậy. Và Ngài đi bộ về Roma, không tính toán cũng không có đồ dùng chi, Philipphê sẽ sống và chết tại Roma.
Một người đồng hương ở Roma cho Philipphê một căn phòng với điều kiện là dành ít thời gian dạy dỗ cho con cái họ. Thánh nhân đã sống đời cầu nguyện và học hành trong cô tịch, ngày ăn một bữa với bánh mì, nước và trái ôliu, ngủ trên sàn nhà. Trong khi theo môn triết học và thần học, Ngài vẫn tìm cách lôi kéo bạn bè vào nếp sống đạo đức, lo cải hoá người khác. Như vậy chính thánh nhân cũng bị cám dỗ và phải cố gắng để tự chủ, Ngài tăng thêm lời cầu nguyện và các việc hy sinh hãm mình.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1544, trong khi cầu nguyện, Ngài thấy một vật gì như trái banh bằng lửa xoáy vào trong tim gây nên một cơn bệnh và một vết thương xưng lên dầu không đau đớn gì. Trong cuộc khám nghịệm sau khi chết người ta thấy hai xương sườn phía trên bị gãy và tạo ra một khoảng rộng lớn hơn.
Sau nhiều năm, Ngài bán hết sách vở và bắt đầu lo cho linh hồn người khác hơn là cho mình. Ngài hòa mình với các bạn trẻ ở các ngã tư , các cửa tiệm và các bờ sông, dùng đến sức thu hút tự nhiên lẫn siêu nhiên để dẫn họ về đường ngay.
Hòa mình vào nhóm các nhà giảng thuyết, Philipphê đã gây được nhiều ảnh hưởng nơi các giáo dân lẫn lương dân. Người ta cho rằng: Ngài làm nhiều phép lạ. Tuy nhiên, thánh nhân rất khiêm tốn và không dám nhận chức linh mục. Cuối cùng theo lời khuyên của cha giải tội, Ngài thụ phong linh mục năm 1551. Nhiệt tâm của Ngài thật mãnh liệt khi Ngài cử hành thánh lễ đầu tiên đến nỗi như có một luồng ánh sáng từ Ngài phát ra. Phần lớn thời gian trong ngày và cả ban đêm Ngài dành vào việc ngồi tòa giải tội. Nhận thấy có nhiều thanh niên và trẻ em biếng nhác, Ngài mở cửa không cho chúng vui tươi trò chuyện ca hát. Căn phòng ấy được mệnh danh là “Ngôi nhà của nịềm vui Kitô giáo”. Mỗi chiều Ngài tổ chức buổi cầu nguyện chung cho các tín hữu. Muốn cho lời cầu nguyện khởi sắc, Ngài nhờ người bạn danh tiếng là nhạc sĩ Palestrina phổ nhạc các thánh thi. Nhà nghệ sĩ này coi Ngài như một người cha và đã qua đời trong cánh tay Ngài. các linh mục muốn dấn thân phù giúp Ngài đã họp thành một hội ái hữu và đó là tiền thân của dòng giảng thuyết.
Thánh Philipphê làm việc với một tính khí vui tươi đặc biệt. Ngày kia cộng đoàn một bạn trẻ đến báo tin cho Ngài biết hạnh phúc của mình đã được thân phụ cho theo học luật. Sau khi phác họa niềm vui hạnh phúc của mình như thế nào rồi, anh nghe hỏi:
– Học xong anh sẽ làm gì ?
– Con sẽ đậu bằng tiến sĩ luật .
– Rồi sao nữa ?
– Con sẽ cãi những vụ kiện quan trọng, khó khăn để thành danh tiếng.
– Rồi sao nữa ?
– Con sẽ nên danh giá và giàu có thỏa lòng mong ước .
– Rồi sao nữa ?
– Con sẽ sống sung sướng và hạnh phúc.
– Rồi sao nữa ?
– Rồi sao nữa ? sao nữa ? rồi con chết.
– Thánh nhân cao giọng hỏi tiếp: Rồi sao nữa ?
Và bạn trẻ không biết trả lời ra sao nữa, nhưng câu hỏi đã lọt vào trong tâm hồn cho đến khi hiến mình trong tu viện và chết lành thánh.
Cũng với tính khôi hài này. Thánh Philipphê đã sửa dạy được nhiều nết xấu của người ta. Chẳng hạn một phụ nữ quen tật nói xấu người khác được nghe thánh nhân dạy hãy mua một con gà giết chết, rồi vừa đi vừa nhổ lông trên đường tới gặp Ngài. Chị ta ngạc nhiên làm và như vậy. Tới nơi thánh nhân dạy : – Chị hãy trở về đường cũ và lượm hết các lông đó lại.
Người phụ nữ la lối không thể được vì gió thổi bay khắp chốn rồi. Thánh nhân mới nói: – Những lời nói xấu vu oan cho người ta một khi ra khỏi miệng sẽ truyền từ tai này qua tai nọ. Chị có thể lấy lại được không ?
Và thánh Nhân khuyên nhủ : – Khi muốn nói về một người nào làm khổ mình, hãy nói với Chúa mà thôi để cầu nguyện và giúp họ sửa sai.
Với những bức thư của thánh Phanxicô Xavier từ phương Đông gởi về, thánh Philipphê đã tìm cách theo Ngài để gieo vãi chính máu mình cho Chúa Kitô. Nhưng một thày dòng khổ tu đã nói với thánh nhân : – Dân An độ của Ngài ở tại Roma này.
Thế là thánh nhân ở lại Rôma trở thành “Tông đồ thành Rôma”.
Năm 1622 khi được phong thánh, thì Phanxicô Xavie vị “Tông đồ của dân An độ” cũng được tuyên phong với Ngài.
Năm 1575, Đức giáo hoàng Gregoriô XIII đã cho Ngài và anh em linh mục thuộc nhóm Ngài một nhà thờ. Họ tái thiết thành một nhà thờ mới và ngày nay cũng chính là nhà mẹ ở Roma của dòng giảng thuyết. Philipphê được đặt làm bề trên của hội dòng mới, dòng giảng thuyết. Ngài hướng dẫn anh em trong dòng sống như như các linh mục triều, không có lời khấn nào đặc biệt, nhưng liên kết với nhau trong tình yêu thương nhau, trong một mục đích là phục vụ các linh hồn bằng việc cầu nguyện, giảng dạy và ban các phép bí tích. Ngài không đặt ra nhiều lề luật và ngày nay có tới 40 nhà dòng giảng thuyết gồm các phần tử sống theo đường lối của thánh Philipphê Nêrô.
Năm 1595, thánh Philipphê ngã bệnh. Ngày 25 tháng 5 Ngài dâng lễ và ngồi tòa như thường lệ. Nhưng sáng hôm sau Ngài bị thổ huyết, trong khi giơ tay chúc lành cho cộng đoàn và miệng lẩm bẩm : – Đây là tình yêu của con, hạnh phúc của lòng con và thánh nhân đã phó mình cho tình yêu.
(daminhvn.net)


26 Tháng Năm
Sức Mạnh Lời Chúa 
Tokichi Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi.
Hắn ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, phụ nữ, kể cả trẻ em. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn cũng bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn, nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ cũng không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với một cặp mắt dữ tợn như một hung thú.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn quyển Tân Ước, với một hy vọng mỏng manh là hắn ta sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực. Niềm hy vọng của họ đã trở thành sự thật. Ishi-I đã đọc và những câu chuyện trong Tân Ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Câu Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”, đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó anh thuật lại: “Ðọc đến câu này tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu hay tôi phải gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin”.
Ông Chrgwin, tác giả đã viết câu chuyện trên trong quyển sách mang tựa đề “Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo” đã kết thúc câu chuyện bằng sự ngạc nhiên tột độ của những nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn độ Ishi-I đi hành quyết. Họ đã không gặp được tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người hòa nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh.
Lời Chúa có sức mạnh vạn năng. Lời Chúa có thể biến đổi tâm hồn một tên sát nhân giết người không gớm tay như anh Tokichi Ishi-I và bao tâm hồn sa ngã khác. Lời Chúa có thể là động lực cho bao công tác bác ái của các tu sĩ nam nữ, đang dấn thân phục vụ những trẻ con bị bỏ rơi, những người già nua hấp hối không ai chăm sóc, những kẻ phải sống bên lề xã hội.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét