11/08/2014
Thứ Hai sau Chúa Nhật
19 Quanh Năm
Thánh Clara, trinh nữ. Lễ nhớ.
* Thánh nữ sinh năm 1193 tại Átxidi. Năm
18 tuổi, chị xin thánh Phanxicô cho được theo nếp sống khó nghèo. Thánh
Phanxicô đã cho chị ở trong một căn nhà tồi tàn, gần nhà thờ thánh Đamianô ở cửa
ngõ thành Átxidi. Em của thánh nữ tên là Anê và một số thiếu nữ khác gia nhập nếp
sống của chị: sống thanh bần triệt để. Đó là những nữ tu Phanxicô tiên khởi. Chị
qua đời năm 1253.
Bài
Ðọc I: (Năm II) Ed 1, 2-5. 24 - 2, 1a
"Ðây
là hình lạ trông giống vinh quang của Chúa".
Trích
sách Tiên tri Êdêkiel.
Ngày
mồng năm trong tháng, năm thứ năm vua Gioakim bị lưu đày, có lời Chúa phán cùng
tư tế Êdêkiel, con của Buzi, ở xứ Calđêa, trên bờ sông Côbar. Chính tại đây,
bàn tay Thiên Chúa đã đặt trên tôi.
Tôi
nhìn thấy có một cơn gió mạnh từ phương bắc thổi đến. Có một đám mây to lớn và
lửa bao bọc chung quanh và bốn bề có ánh sáng phát ra, và ở giữa bầu lửa như
vàng pha sáng chói. Chính giữa, có giống gì như bốn con vật hình dáng giống như
hình người.
Và
tôi nghe tiếng cánh của chúng như tiếng nước lũ, như tiếng của Chúa vạn năng;
khi chúng đi thì khác nào như đám đông người, như tiếng đạo quân: khi chúng dừng
lại thì chúng xếp cánh xuống. Vì khi chúng nghe có tiếng trên không trung, trên
đầu chúng, thì chúng dừng lại và xếp cánh xuống.
Và
trên không trung, trên đỉnh đầu chúng, có cái gì như một viên ngọc thạch, hình
như chiếc ngai, và trên ngai đó, phía trên hẳn, có hình giống như hình người.
Và tôi thấy người như vàng pha sáng chói, bên trong, tứ bề khác nào như lửa, từ
lưng người trở lên, và từ lưng trở xuống, tôi thấy có gì như lửa chiếu sáng
chung quanh, giống như cái mống hiện ra trên mây trong ngày mưa: đó là hình thể
chiếu sáng chung quanh. Ðây là hình lạ trông giống vinh quang của Chúa. Tôi nhìn
thấy thì sấp mặt xuống đất.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 148, 1-2. 11-12ab. 12c-14a. 14bcd
Ðáp: Trời đất đầy
vinh quang của Người.
Hoặc
đáp: Alleluia.
Xướng:
1) Hãy ca tụng Chúa từ muôn cõi trời, hãy ca tụng Người trên nơi cao thẳm. Các
thiên thần Chúa, hãy ca tụng Người đi; ca tụng Người đi, hỡi các đạo thiên
binh. - Ðáp.
2)
Quân vương địa cầu và tất cả chư dân, quan chức và các vị chính quyền nơi cõi đất,
các thanh nhiên và cả những cô trinh nữ, những ông cụ già với đoàn con trẻ. -
Ðáp.
3)
Họ hãy ca tụng danh Chúa, vì danh Người siêu phàm, độc nhất, oai nghiêm Người
tràn lan trên trời dưới đất, và Người nâng cao quyền thế dân Người. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 14, 23
Alleluia,
alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến
người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 17, 21-26
"Họ
sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng:
"Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày thứ
ba, Người sẽ sống lại". Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.
Khi
các ngài đến Capharnaum, thì những người thu thế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi rằng:
"Thầy các ông không nộp thuế "đền thờ' sao?" Ông nói: "Có
chớ".
Khi
ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: "Simon, con nghĩ sao? Vua
chúa trần gian thu thuế má hạng người nào? Ðòi con cái mình hay người
ngoài?" Ông thưa rằng: "Ðòi người ngoài". Chúa Giêsu bảo ông rằng:
"Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm,
con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó
ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và
phần con".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Nộp
Thuế Cho Ðền Thờ
Vào
thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là
thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Ðền thờ nữa: ngoại trừ đàn bà, các thiếu
niên và các nô lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp thuế để bảo
trì và tu sửa Ðền thờ Giêrusalem.
Câu
chuyện trong Tin Mừng hôm nay xẩy ra vào khoảng tháng 10, năm thứ hai cuộc đời
rao giảng của Chúa Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố Chúa Giêsu biến hình trên
núi Thabor. Chúa Giêsu và các môn đệ trở lại Capharnaum, và ở đó, những người
thu thuế đến yêu cầu Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.
Khi
Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa
trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: "Thưa,
người ngoài. Chúa Giêsu liền bảo thế thì con cái được miễn". Ðây cũng là một
mạc khải, bởi vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn
nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế;bởi vì qua câu:
"Thế thì con cái được miễn", Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính
Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế; nhưng xét về bản tính loài người, Ngài
cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Ðền thờ như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế
bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên,
trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo
Giuđa xuất quĩ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài
đã làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài.
Nếu
ngày xưa, người Do thái có bổn phận nộp thuế cho Ðền thờ để lo việc phụng sự
Nhà Chúa, thì ngày nay trong Giáo Hội cũng có những cách đóng góp hay dâng
cúng, đó cũng là một việc thờ phượng và là một sự chia sẻ cho những anh chị em
nghèo khó. Chúng ta hãy nhận ra nét đặc biệt trong nhân cách của Chúa, khi hòa
nhập vào nếp sống cụ thể của những người đồng thời với Ngài. Mầu nhiệm nhập thể
đòi buộc Chúa phải chia sẻ trọn vẹn đời sống con người. Ước gì chúng ta cũng biết
noi gương Chúa, chấp nhận như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để trổ sinh
nhiều hoa trái tốt đẹp.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 19 TN2
Bài đọc: Eze 1:2-5, 24-28;
Mt 17:22-27
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự hiện diện của
Chúa trong Đền Thờ.
Thiên
Chúa tuy là Đấng Vô Hình nhưng đã chọn để ở lại với con người trong Đền Thờ vì
yêu thương con người. Bắt đầu từ Đền Thờ Jerusalem và lan rộng ra các đền Thờ
khắp nơi trên thế giới. Một trong những bổn phận của con người là đóng thuế
(10%) để bảo trì và chi phí những thứ cần thiết cho Đền Thờ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Thị kiến đầu tiên của tiên tri Êzêkiel.
Bắt
đầu từ hôm nay, các bài đọc I trong chu kỳ II (năm chẵn) sẽ được lấy từ sách của
tiên tri Êzêkiel, một trong 4 tiên tri lớn. Ông sống trong Thời kỳ lưu đày
Babylon và họat động trong khỏang 593-571 BC. Tên của ông có nghĩa “Chúa kiện
tòan (người này).” Bởi vì ông thuộc giòng dõi tư tế, nên có lẽ ông được ăn học,
đặc biệt về Luật, kết hôn (Eze 24:18), và cha ông, Buzi (Eze 1:2) có thể có ít
nhiều ảnh hưởng trên thành Jerusalem. Truyền thồng nói ông được an táng trong một
ngôi mộ ở Al-Kift, gần thành phố Hilla (Iraq hiện nay), không xa thành Babylon
ngày xưa bao nhiêu.
Có
thể nói thế hệ của tiên tri Êzêkiel là thế hệ gạch nối giữa quá khứ (Israel và
Judah bị bại trận và lưu đày) và tương lai (Đền Thờ Jerusalem sẽ được xây dựng
lại và Israel sẽ được phục hồi) và sách của ông phản ánh rất rõ hai chủ đề này.
Thời gian lưu đày Babylon là khỏang 70 năm, như thế thời gian hồi hương và bắt
đầu xây dựng lại Đền Thờ Jêrusalem nằm trong khỏang 520-518 BC.
Đền
Thờ Jêrusalem là một trong những chủ đề chính của tiên tri Êzêkiel vì đây sẽ là
nơi Chúa các đạo binh ở với Dân Người. Ông ghi lại tỉ mỉ những chi tiết cần thiết
để xây dựng lại Đền Thờ trong tương lai, bắt đầu từ thị kiến đầu tiên: Tôi
nhìn, thì kìa một cơn gió bão từ phương Bắc thổi đến; có đám mây lớn, có lửa
loé ra và ánh sáng chiếu toả chung quanh; ở chính giữa như có một kim loại lấp
lánh, ở chính giữa lửa. Ở chính giữa, có cái gì tựa như bốn sinh vật. Đây là
dáng vẻ của chúng: chúng trông giống như người ta. Khi chúng đi, tôi nghe tiếng
cánh vẫy giống như tiếng nước chảy mạnh; như tiếng của Đấng Toàn Năng, tiếng ấy
ồn ào như tiếng trong một doanh trại. Khi chúng dừng lại, thì cánh rủ xuống.
Thị
kiến đầu tiên thuật lại việc ông nhìn thấy những gì từ trời xa xuống: tuy ông
không nhìn thấy rõ ai là người ngồi trên ngai, nhưng qua cách mô tả chúng ta biết
đó là Thiên Chúa. 4 sinh vật có cánh mà ông mô tả “chúng trông giống như người
ta,” đã được nhiều tác giả và họa sĩ đồng nhất với 4 Thánh Ký: Matthêu (đầu người),
Marcô (đầu sư tử), Luca (đầu bò), và Gioan (đầu phượng hoàng).
Những
gì tiên tri thuật lại dưới đây khuôn mẫu của Đền Thờ Đức Chúa cho Đền Thánh
Jerusalem sẽ được xây sau này: Có tiếng vọng xuống từ trên cái vòm, ngay trên đầu
chúng. Từ trên cái vòm, ngay trên đầu chúng, có cái gì giống như đá lam ngọc, tựa
như cái ngai, và trên cái gì tựa như cái ngai đó, có cái trông như hình dáng một
người ở trên ngai đó, ở trên cao. Và tôi thấy có cái gì giống như kim loại lấp
lánh, giống như một đám lửa bao quanh, từ khoảng coi như ngang lưng trở lên,
còn từ khoảng coi như ngang lưng trở xuống, tôi thấy có cái gì giống như một
đám lửa và ánh sáng chiếu toả chung quanh. Như hình cầu vồng xuất hiện trên mây
một ngày mưa thế nào, thì ánh sáng chiếu toả chung quanh cũng như vậy. Đó là một
cái gì trông tựa vinh quang của Đức Chúa.
2/
Phúc Âm:
Trả thuế Đền Thờ?
Đền
Thờ mà Chúa Giêsu và Phêrô phải đóng thuế hôm nay cũng là Đền Thờ Jerusalem mà
tiên tri Êzêkiel đề cập tới trong Bài đọc I. Có rất nhiều chi phí cho Đền Thờ:
lễ hy sinh sáng chiều qua việc sát tế con chiên một tuổi, rượu, bột, và dầu
ôliu. Những thứ này sau khi dâng sẽ là thức ăn nuôi hàng tư tế, ngòai ra còn phải
mua dụng cụ, hương lửa, và quần áo cần cho việc tế lễ. Sách Xuất Hành (Exo
30:13) ấn định: Tất cả các đàn ông Do Thái, 20 tuổi trở nên, phải đóng góp vào
thuế Đền Thờ mỗi năm ½ shekel (khỏang lương của 2 ngày làm việc). Phương pháp
trả tiền được ấn định như sau: Mỗi năm vào tháng Ba (Adar), người có trách nhiệm
trong các làng mạc sẽ ra thông cáo cho biết thời gian phải trả thuế Đền Thờ đã
đến và các quầy đóng thuế sẽ được đặt các nơi để thâu nhận thuế. Nếu ai không
trả thuế trước ngày 25 của tháng này, họ sẽ phải lên Jerusalem để trả.
Nhà
của Phêrô rất gần Hội đường Capernaum, nên không lạ khi những người thu thuế
cho Đền Thờ đến hỏi ông Phêrô: "Thầy các ông không nộp thuế sao?" Ông
đáp: "Có chứ!" Những người thu thuế có thể hỏi vì thói quen nhưng
cũng có thể hỏi để lấy cớ tố cáo Chúa Giêsu nếu Ngài không chịu đóng thuế.
Vừa
về tới nhà, Đức Giêsu hỏi ông trước: "Anh Simôn, anh nghĩ sao? Vua chúa trần
gian bắt ai đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài?" Ông Phêrô
đáp: "Thưa, người ngoài."
Hai
lý do thật rõ ràng Chúa Giêsu có thể dùng để miễn trừ đóng thuế: Thiên Chúa là
Cha Ngài, và Đền Thờ là nơi ngự của Thiên Chúa, là nhà Cha của Ngài (Lk 2:49).
Chúa
Giêsu liền bảo: "Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để khỏi làm gai mắt họ,
anh ra biển thả câu; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó
ra: anh sẽ thấy một đồng tiền bốn quan; anh lấy đồng tiền ấy, nộp thuế cho họ,
phần của Thầy và phần của anh." Nhiều nhà chú giải đặt câu hỏi cho phép lạ
này vì lý do nó quá nhỏ đế cần làm phép lạ. Phần đông cho rằng nó chỉ là một kiểu
nói của người Do Thái. Chúa bảo Thánh Phêrô: Hãy mang lưới ra biển và thả lưới
bắt cá để lấy tiền trả thuế Đền Thờ cho Thầy và anh.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Đền Thờ là nơi Chúa ở với con người, và vì thế cần bảo trì xứng đáng.
-
Để bảo trì cần giáo dân phải đóng góp. Rất nhiều giáo dân đã quên bổn phận này
hay đóng góp chưa đủ.
-
Là người lãnh đạo, Chúa được hưởng đặc quyền miễn trừ; nhưng vì không muốn làm
gương mù cho người khác, Ngài bảo Phêrô hãy chu tòan việc đóng thuế Đền Thờ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM - MÙA QUANH NĂM - TUẦN 19
Thứ Hai :
Mt 17,22-27
A. Hạt giống...
Đoạn Tin Mừng này gồm 2 chuyện :
1. Chúa Giêsu loan báo lần thứ hai Ngài sẽ chịu
nạn : Nội dung hầu như giống y lần thứ nhất (x. 16,21), chỉ khác một chi tiết
nhỏ là Ngài sắp bị nộp vào tay “người đời”) (lần thứ nhất : “chịu nhiều đau khổ
do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư”).
2. Vấn đề nộp thuế cho Đền thờ :
- Mọi đàn ông do thái, kể cả những người sống
ngoài lãnh thổ Palestina, đều phải nộp cho Đền thờ hằng năm một món tiền thuế
là hai đồng drachme, tương đương với giá hai ngày công. Số tiền này dùng để
trang trải các chi phí của Đền thờ. Người ta bắt đầu thu thuế này vào quãng 15
ngày trước Lễ Vượt qua. Vấn đề được nêu ra là Chúa Giêsu có phải nộp thứ thuế
này không.
Chúa Giêsu trước hết đưa ra một định hướng nền
tảng cho vấn đề, sau đó mời độc giả tìm đến một giải pháp thực tế.
- Định hướng nền tảng được trình bày bằng một dụ
ngôn : các bậc vua chúa thường không thu thế con cái họ mà chỉ thu thuế các
thần dân khác. “Vậy, con cái thì được miễn” : được miễn bởi vì chúng không phải
nộp thù lao hay phải làm tạp dịch để được bố chúng xem chúng là con. Tương quan
phụ tử phát sinh từ một sự nhưng không mà tương quan chủ tớ không hề có. Chúa
Giêsu đã kiên nhẫn dạy cho các môn đệ mình cư xử với Thiên Chúa như với người
cha của họ là Đấng ngự trên trời và là Đấng luôn trung tín với con cái mình mà
chẳng hề đòi buộc chúng phải nộp thuế (Claude Tassin).
- Một giải pháp thực tế : “Nhưng để khỏi làm gai
mắt họ… anh hãy lấy đồng tiền ấy nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của
anh”. Các kitô hữu gốc do thái luôn tự do trong việc nộp thuế Đền thờ. Họ luôn
chu toàn bổn phận nộp thuế để tránh gây hoang mang vô ích cho đồng bào mình,
bởi vì nếu không nộp thuế thì họ sẽ khiến cho đám người kia có cảm tưởng họ đã
ly khai khỏi dân Israel.
B.... nẩy mầm.
1. “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” :
Động từ “bị nộp” ở thể thụ động hiểu ngầm người nộp là chính Thiên Chúa. Thiên
Chúa nộp ai và nộp cho ai ? Thưa nộp Chúa Con cho người thế gian.
- Ta hãy suy gẫm về tình thương của Thiên Chúa :
Ngài ban cho loài người Người Con độc nhất mà Ngài rất yêu quý.
- Ta cũng hãy suy gẫm về sự hy sinh tự hạ của
Chúa Giêsu : Là Con Thiên Chúa, Ngài sẵn lòng bị nộp vào tay người đời để cho
người đời hành hạ và giết chết.
2. “… nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Các môn
đệ rất đỗi buồn phiền” : các môn đệ buồn phiền vì chỉ nhớ phần thứ nhất của lời
loan báo (Chúa Giêsu bị giết) chứ không để ý tới phần thứ hai (Ngài sẽ sống
lại).
Xin cho con luôn nhớ rằng Thập giá là đường dẫn
tới vinh quang, vì có nhớ như thế con mới có thể lạc quan vác thập giá theo
Chúa.
3. Câu chuyện này nhắc mọi tín hữu góp phần mình
vào Đền thờ, vào việc chung của Giáo Hội. Đây là một bổn phận công bằng, vì ta
đã hưởng những ơn ích của Giáo Hội thì ta cũng phải góp phần mình vào đấy, góp
phần bằng vật chất và bằng tình thần.
4. Thánh Mat-thêu viết Tin Mừng trong giai đoạn
Do thái giáo đã khai trừ các kitô hữu. Cho nên lẽ ra họ không còn bổn phận đóng
góp cho Đền thờ Giêrusalem nữa. Thế mà, “để khỏi làm cớ vấp phạm” (làm dịp cho
người do thái kết án là tại kitô hữu bỏ bổn phận trước), họ vẫn chu toàn bổn
phận nộp thuế cho Đền thờ.
Có nhiều việc tôi không bị buộc làm, nhưng “để
khỏi gây cớ vấp phạm” và vì bác ái, tôi vẫn nên làm.
5. Chúa Giêsu nói với Phêrô : “Anh ra biển thả
câu ; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra : anh sẽ thấy
một đồng tiền 4 quan. Hãy lấy số tiền ấy nộp thuế cho họ, phần của Thầy và của
anh” (Mt 17,27)
Là một ngư phủ, việc câu cá với Phêrô quả là dễ
dàng. Chúa Giêsu đã sai Phêrô làm một việc trong tầm tay của ông để tuân hành
luật lệ xã hội. Nhưng đồng thời, trong cuộc sống, Ngài luôn lưu ý Phêrô và các
môn đệ về thế đứng của họ : sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian.
Qua đó, tôi đọc ra nơi Chúa Giêsu một khả năng hội nhập tinh tế : hoà mình vào
thế giới nhưng không đánh mất bản sắc riêng của mình.
Trong thực tế, nhiều lần tôi đã lạm dụng hai chữ
“hội nhập” để ngụy biện cho những ích kỷ, lười biếng, và những hành động thiếu
yêu thương, công bằng trong bổn phận của một Kitô hữu.
Lạy Chúa, xin cho con biết tìm kiếm và xây dựng
những giá trị Nước Trời trong những bổn phận trần thế và những hành động yêu
thương nhỏ bé của con. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ
11/08/14 THỨ HAI TUẦN
19 TN
Th. Clara, trinh nữ
Mt 17,22-27
Th. Clara, trinh nữ
Mt 17,22-27
Suy niệm: Là
nhà truyền giáo, Chúa Giê-su tận dụng mọi cơ hội để loan báo Tin Mừng, loan báo
chính Ngài, hầu người nghe được ơn cứu độ. Hôm nay cũng thế, Ngài cho Phê-rô
biết Ngài là ai. Qua nghĩa vụ nộp thuế đền thờ, thứ thuế đòi buộc mọi người Do
Thái trưởng thành phải thi hành, Chúa Giê-su xác nhận với Phê-rô rằng Ngài đích
thực là Con Thiên Chúa như lời ông tuyên xưng: Đền Thờ là nhà của Thiên Chúa,
mà Ngài là Con, không buộc phải đóng thứ thuế chỉ đòi buộc đối với thần
dân. Hơn thế, Ngài còn tỏ cho Phê-rô biết Ngài là chủ tể có quyền trên vũ
trụ khi bảo Phê-rô đi câu cá, con cá có đồng bạc trong miệng, để đi nộp thuế.
Phê-rô nhờ thế đã nhận biết Chúa Giê-su hơn, biết Tin Mừng Chúa Giê-su loan
báo.
Mời Bạn: Thiên
Chúa không muốn chúng ta đóng bất cứ thứ thuế nào cho Ngài; trái lại, Ngài muốn
chúng ta có một kho tàng trên trời. Kho tàng đó là: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần
các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các
ngươi làm cho chính Ta vậy.”
Sống Lời Chúa: Mỗi
ngày làm một việc bác ái cho người anh em đang sống gần gũi với bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin dạy con biết tận dụng mọi cơ hội để nói về
Chúa cho anh chị em con, nói như một người con nói về cha yêu thương của mình,
nói như chưa từng được nói, nói như người vừa tìm gặp được kho báu lớn lao
trong đời.
Để khỏi làm cớ sa ngã
Chúng ta cần lưu tâm đến những người “yếu” trong
cộng đoàn. Chính tình yêu đối với họ khiến tôi cân nhắc điều mình được phép
làm. Tự giới hạn tự do của mình là một cách để biểu lộ tình yêu.
Suy niệm:
Đọc bài Tin Mừng hôm nay,
chúng ta không khỏi mỉm cười,
khi nghĩ đến việc anh Phêrô
đi ra hồ Galilê để thả câu bắt cá,
một chuyện bắt cá rất bất
thường, vì một mục đích cũng bất thường.
Thầy Giêsu dặn anh hãy túm
lấy con cá đầu tiên câu được,
bắt lấy, mở miệng nó ra,
thấy ngay một đồng tiền trị giá bốn quan,
vừa vặn để nộp thuế Đền Thờ
cho cả Thầy lẫn trò.
Đây là thứ thuế mà hàng năm,
theo sách Xuất hành (30, 14)
những người đàn ông Do Thái
trên hai mươi tuổi phải nộp
để lo việc tu bổ Đền Thờ và
việc tế tự trong đó.
Ta không thấy kể chuyện anh
Phêrô đã vâng lời Thầy ra sao,
và phép lạ đã xẩy ra như thế
nào.
Chỉ biết chẳng khi nào trong
Tân Ước
Thầy Giêsu lại có ý làm một
phép lạ vì lợi ích cho mình như vậy.
Nhưng chuyện bắt cá để lấy
tiền nộp thuế
lại không phải là chuyện
quan trọng của đoạn Tin Mừng này.
Điểm chính yếu nằm ở những
câu nói của Thầy Giêsu.
Ai cũng biết con cái của vua
chúa trần gian thì được miễn thuế,
vì các vua chỉ đánh thuế
người ngoài thôi (c. 26).
Đức Giêsu chính là Người Con
tuyệt hảo của Vị Vua thiên quốc.
Và những Kitô hữu cũng là
con cái của Đức Vua tối cao.
Họ là những người đã mở lòng
đón nhận Nước Trời (Mt 13, 38),
và đã gọi Thiên Chúa là Cha
trên trời của chúng con (Mt 6, 9).
Như thế Thầy Giêsu và các
môn đệ của mình đều được miễn thuế.
Thầy trò không phải nộp thuế
Đền Thờ như những người Do Thái khác.
Tuy Thầy trò có quyền không
nộp thuế,
nhưng Thầy Giêsu lại không
muốn làm cớ cho người khác vấp phạm.
Khi về đến nhà của anh Phêrô
ở Caphácnaum,
Thầy Giêsu bày tỏ ý muốn nộp
thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.
Thầy chấp nhận giữ luật mà
các người đàn ông Do Thái đều giữ.
Thầy biết mình có tự do,
nhưng Thầy cũng dám hy sinh
tự do ấy vì lợi ích cho người khác.
Thánh Phaolô cũng sẽ nói về
nguyên tắc này khi bàn về việc ăn đồ cúng.
“Đành rằng mọi thức ăn đều
thanh sạch,
nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã,
thì là điều xấu” (Rm 14, 20).
Chúng ta cần lưu tâm đến
những người “yếu” trong cộng đoàn.
Chính tình yêu đối với họ
khiến tôi cân nhắc điều mình được phép làm.
Tự giới hạn tự do của mình
là một cách để biểu lộ tình yêu.
Thế giới hôm nay ca ngợi tự
do, nên cũng đầy cớ gây vấp phạm.
Bao sa ngã của giới trẻ là
do sự phóng túng của người lớn.
Con người hôm nay quá gần
nhau bởi các phương tiện truyền thông,
nên ảnh hưởng xấu lan đi vừa
nhanh lại vừa rộng.
Nếu chúng ta tự ý làm hay
tránh làm một điều gì đó
chỉ vì tôn trọng lương tâm
mong manh của người khác,
thì Thiên Chúa cũng sẽ giúp
ta bằng những phép lạ thật ngỡ ngàng.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh.
Amen.
(dịch theo Learning Christ)
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy niệm
Trên đường từ núi Tabor đến Caphárnaum, Đức Giêsu
lại nhắc lần hai về cuộc khổ nạn. "Con Người sắp bị nộp vào tay người
đời…": Động từ "bị nộp" ở thể thụ động hiểu ngầm người nộp chính
là Thiên Chúa. Thiên Chúa nộp ai và cho ai? Thưa nộp Chúa Con cho thế gian.
"… nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại. Các
môn đệ rất đỗi buồn phiền": Các môn đệ buồn phiền vì chỉ nhớ đến phần thứ
nhất của lời loan báo (Chúa Giêsu bị giết) chứ không để ý đến phần thứ hai
(Người sẽ sống lại).
Tình thương của Thiên Chúa dành cho nhân
loại qua việc trao nộp Con Một của Ngài. Ngài ban cho loài người Con độc nhất
mà Ngài rất yêu quý. Chúng ta cũng hãy suy gẫm về sự hy sinh tự hạ của Chúa
Giêsu: là Con Thiên Chúa, Người sẵn lòng bị nộp vào tay người đời để cho người
đời hành hạ và giết chết. Mỗi người chúng ta hãy tự xét mình xem mình đã đáp
lại tình thương đó như thế nào? Thậm chí chúng ta có còn nhớ vì yêu chúng ta mà
Chúa Giêsu đã nộp mình chịu chết?
Chúa Giêsu loan báo sự đau khổ và sự chết của
Người sắp chịu. Ngài tâm sự nỗi đau khổ thầm kín của Người cho các môn đệ, một
đàng có tính cách loan báo và một đàng để chia sẻ với người thân. Tuy nhiên các
môn đệ không hiểu nỗi khổ của Người nên Người phải kiên nhẫn chịu đựng thêm.
Cũng vậy chúng ta phải can đảm chịu đựng những thái độ dửng dưng hoặc hiểu lầm
của những người thân về những đau khổ kín đáo của mình. Xin cho chúng ta luôn
nhớ rằng Thập gía là con đường dẫn tới vinh quang, vì có nhớ như thế con người
mới có thể lạc quan vác Thập giá theo Chúa.
Xin cho mỗi người chúng ta biết ăn năn thông hối
về những tội lỗi mình đã phạm, vì chính vì tội lỗi của chúng ta mà Chua Giêsu
đã phải chết cách nhục nhã trên thập giá. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG TÁM
Thiên Chúa Đã Yêu Thế Giới Đến
Nỗi …
“Thế giới ở đây là thế giới của con người,
thế giới ấy, người Kitôhữu tin là đã được tình yêu của Đấng Tạo Hóa tác thành
và bảo trì. Thế giới ấy, đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi, nhưng, nhờ Chúa Kitô chịu
đóng đinh và sống lại mà bẻ gãy uy quyền của Thần Dữ, đã được giải thoát để
thay hình đổi dạng theo dự định của Thiên Chúa mà tiến tới sự viên mãn” (MV 2).
Định nghĩa ấy gồm tóm toàn bộ giáo thuyết về
sự quan phòng, hiểu như kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa trong công trình sáng
tạo, hoặc hiểu như sự hoàn thành chung cục của vũ trụ. Điều này đặc biệt đúng đối
với thế giới con người theo như “được tiền định trong Đức Kitô”, Đấng là trung
tâm và là nguồn gốc của mọi sự.
Bằng cách này, Vatican II làm cho sắc bén
giáo huấn tín lý của Công Đồng Vatican I: “Thiên Chúa gìn giữ và điều khiển mọi
loài Ngài đã dựng nên với sự quan phòng của Ngài, từ chân trời này tới chân trời
kia (Kn 8,1). ‘Tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Ngài’ (Dt 4,13), ngay
cả những gì xảy ra thông qua sáng kiến tự do của tạo vật” (Dei Filius, DS
3003).
Ngay từ đầu, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng tập
chú đến một vấn đề vừa liên quan với chủ đề của chúng ta ở đây vừa bức thiết với
con người hiện đại: Bằng cách nào sự phát triển của Nuớc Thiên Chúa và sự phát
triển của thế giới có thể hòa điệu với nhau?
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời
Chúa Trong Gia Đình
Ngày
11-8
Thánh
Clara, trinh nữ
Ed
1, 2-5.24-28c; Mt 17, 22-27.
LỜI
SUY NIỆM: “Anh Simon, anh nghĩ sao” Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu, nộp
thuế? Con cái mình hay người ngoài?”
Nhân
câu chuyện Chúa Giêsu và Thánh Phêrô nộp thuế cho Đền Thờ. Điều này giúp cho
người Kitô hữu luôn phải tuân theo luật pháp và những quy định của chính quyền
nơi mình đang sống. Phải cọng tác với chính quyền vì công ích, đồng thời thể hiện
đức công bình và bác ái của người Kitô hữu trong cuộc sống.
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa muốn mỗi Kitô hữu phải làm việc với ơn ban của Chúa, nhờ đó sẽ
chu toàn nghĩa vụ của mình. Xin thương ban cho mọi người trong gia đình chúng
con luôn biết làm việc với ơn ban của Chúa và chu toàn nghĩa vụ với xã hội.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
11-08
Thánh
CLARA
Đồng
Trinh (1193 - 1253)
Thánh
Clara sinh năm 1193 tại Assisi miền Umbria. Thuộc dòng họ danh gái Offreducciô.
Người ta nói thánh nữ sinh ra với nụ cười trên môi và không bao giờ thấy Ngài
khóc. Ngài dành nước mắt để tưới chân Chúa Giêsu chịu đóng dinh. Nghe biết một
thanh niên giàu có đã trở nên người nghèo thành Assisi, người thiếu nữ danh giá
cảm kích trước mẫu gương của thánh nhân. Trong khi gia đình nhắm cưới gả cho
nàng, thì nàng chỉ nhắm đến cuộc sống sám hối khiêm hạ. Sau khi nghe bài giảng
của thánh nhân, Ngài đã đi tới quyết định.
Khi
ấy thánh Clara 18 tuổi. Vào ngày Lễ Lá, 18 tháng 3 năm 1212, thánh nữ ăn mặc
sang trọng tới nhà thờ chính tòa dự lễ. Theo thói quen, các bà tiến lên nhận lá
từ tay Đức giám mục. Hôm ấy Clara quá xúc động, khiến chính đức giám mục phải rồi
ghế đưa lá đến cho Ngài. Chiều về, Ngài đã cùng với một người bạn lén bỏ nhà
theo lối cửa hậu rồi theo ánh đuốc tới gặp thánh Phanxicô tại Porsiuncola...
Giai
thoại thật cảm động, một cô gái 18 sang trọng đã bỏ tất cả những gì là quen thuộc
và an toàn để đi theo Đấng vô hình, còn Phaxicô 30 tuổi không có lấy một xu
dính túi đã nhận lấy trách nhiệm về cả tinh thần lẫn vật chất đối với cô. Giữa
đêm xuân trong rừng cây và dưới ánh đuốc của đoàn anh em. Clara buông xõa mái
tóc huyền trên bàn thờ cho Phanxicô cắt bỏ. Hành động hoàn toàn ngoại lệ và
không với một chút quyền hạn theo giáo luật. Phanxicô đã lãnh bản ly dị của
Clara đối với thế gian, rồi gởi đi vào một nữ tu viện Benedicto gần đó.
Biến
cố nổ lớn làm cả thành phố xúc động. Thế gian kết án Clara. Ong Monaldo, cậu
thánh nữ đến nhà dòng bắt thánh nữ về, nhưng Ngài ôm cứng chân bàn thờ quyết chọn
Chúa mà thôi. Phanxicô dẫn thánh nữ tới một nữ tu tu viện Bênêdictô khác, cùng
với em của mình là Anê. Sau cùng Phanxicô thiết lập cho Clara và cộng đoàn đã
tăng số một tu viện tại San Damianô, nơi đây bà Ortolanta, mẹ của thánh nữ cũng
nhập dòng. Trong một thời gian cộng đoàn độc lập như những người hành khất đầu
tiên. Phanxicô viết cho cộng đoàn một bản luật sống vắn gọn, đòi kỷ luật gắt
gao và chay tịnh khắc khổ.
Dầu
vậy, Clara con người đi xa hơn cả ước muốn của thánh Phanxicô. Năm 1215
Phanxicô đặt Clara làm tu viện trưởng và có lẽ đã trao cho Ngài một bản luật
dòng thánh Bênêdictô. Nhưng một mục chương nói rằng sự đơn sơ và nhiệt tình của
chị em khiến cộng đoàn tăng số rất nhanh.
Vào
những năm cuối đời thánh Phanxicô, mọi liên hệ với San Đômianô bị gián đoạn.
Câu chuyện hay về bữa ăn tối với Clara không được chính xác lắm. Nhưng cơn đau
cuối cùng Phanxicô đã được Clara cho trú ngụ trong một mái chòi bằng lá cây ở cổng
tu viện Damianô, nơi Phaxicô trước tác bài ca mặt trời. Ngài ban phép lành cuối
cho Clara rồi về Porziuncola và qua đời tại đó. Ngài cũng xin anh em đưa xác về
Assisi qua ngã San Đamianô. Thánh Clara và chị em tiếp rước và có dịp chiêm ngưỡng
các vết thương ở tay và chân Ngài.
Clara
thực hiện đúng lý tưởng của người nghèo thành Assisi. Đức Innôcentê III đã đích
thân ban phép cho Ngài được giữ đức nghèo khó tuyệt đối. Nhưng Đức Grêgôriô IX
nguyên là hồng y Ugôlinô đã muốn cải sửa luật cho phép nhà dòng có đất đai nhà
cửa. Clara cưỡng lại và năm 1228 đã được hưởng đặc ân như sở nguyện. Ngài đã
thưa với Đức Grêgôriô: - Thưa Đức Cha, xin tha tội cho chúng con, nhưng đừng
tha cho con khỏi theo lời Chúa.
Năm
1247, một lần nữa đức Innocentê IV kiểm soát lại luật thánh Phanxicô, muốn sống
đời khó nghèo truyệt đối. Luật này được Đức Innocente chấp thuận vội vã, hai
ngày trước khi thánh nữ qua đời. Năm 1893 người ta tìm thấy sắc chỉ nguyên thủy
trong mộ thánh nữ.
Cuộc
sống còn được ghi nhớ bởi cuộc tàn phá năm 1241 của vua Frêdêrico II, nhờ lời cầu
nguyện đắc lực của Ngài. Trong cơn bệnh của Ngài, Đức hồng y Rainalđô, tức là đức
giáo hoàng Alexandrô sau này, đã đến trao mình Chúa và khuyyên nhủ thánh nữ,
thánh nữ trả lời: - Từ khi nếm thử chén đắng và cuộc tử nạn của Chúa, con thấy
không còn gì làm con đau đớn nữa.
Sau
khi chúc lành cho các nữ tu đến thăm, Ngài nói với mình: - Hãy an tâm, ngươi đã
theo đúng đường, cứ tin tưởng vì Chúa tạo thành đã thánh hiến và không ngừng
gìn giữ ngươi, đã yêu ngươi với tình mẹ thương con, ôi lạy Chúa xin chúc tụng
Chúa vì đã dựng nên con.
Thánh
nữ qua đời ngày 11 tháng năm 1253 và năm 1255 được tôn phong hiển thánh.
(daminhvn.net)
11
Tháng Tám
Cô
Bạn Của Thánh Phanxicô Assisi
Một
trong những cuốn phim có giá trị diễn tả về cuộc đời của thánh Phanxicô thành
Assisi mới được thực hiện cách đây vài năm đa thi vị hóa vai trò của Clara, vị
thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay. Ðạo diễn của cuốn phim đã giới thiệu Clara
qua hình ảnh một nữ tài tử trẻ đẹp với mái tóc vàng óng ả, thích tung tăng chạy
nhảy giữa cánh đồng hoa hướng dương chạy dài mút mắt.
Trong
thực tế, quãng đời thanh xuân của Clara đã cống hiến nhiều chi tiết có thể được
sử dụng làm chất liệu để quay phim. Vào tuổi trăng tròn 15, Clara đã từ chối kết
hôn vì tâm hồn của nàng bị xúc động mãnh liệt qua lời rao giảng có chiều sâu của
Phanxicô. Từ đó cho đến lúc Clara trút hơi thở cuối cùng, Phanxicô là một người
bạn tinh thần, một cha linh hướng của nàng.
Lúc
lên 18 tuổi, Clara thoát ly gia đình và trong một buổi lễ đơn sơ cử hành vào
đêm, nàng đã cởi bỏ những xiêm y đắt tiền để mặc lấy một chiếc áo dòng bằng vải
thô, đã thay chiếc dây nịt quý giá bằng một sợi dây thắt lưng đơn sơ và đã để
cho Phanxicô cắt mái tóc óng ả của mình tượng trưng cho tinh thần từ bỏ.
Khi
một số thiếu nữ khác cùng một chí hướng, kể cả Agnes, em gái của Clara, theo
chân nàng vào tu viện, họ đã bắt đầu một cuộc sống nghèo nàn, khổ hạnh và ẩn dật,
cắt đứt mọi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Họ đi chân không, ngủ trên nền
nhà, không ăn thịt và giữ thinh lặng hầu như hoàn toàn. Ðó là những dấu hiệu
bên ngoài biểu lộ ý hướng bên trong của họ muốn sống khó nghèo theo tinh thần
Phúc Âm như Ðức Giêsu đã dạy.
Ðế
sống cuộc đời từ bỏ, các nữ tu dòng thánh Clara khước từ quyền sở hữu của bất cứ
của cải nào, kể cả với tính cách là của chung.
Nhu
cầu lương thực hằng ngày được giải quyết bằng của bố thí. Khi Ðức Thánh Cha
khuyên họ giảm bớt cách thực hành sống nghèo cách tuyệt đối như vậy, Clara đã
khẳng khái trả lời: "Thưa Ðức Thánh Cha, chúng con cần cha tha tội, chứ
chúng con không mong ước cha tha chúng con khỏi những bổn phận phải giữ để
trung tín dõi theo chân Chúa Giêsu".
Trong
bốn bức tường tu viện tại San Ðamianô gần Assisi, Clara ân cần chăm sóc các bệnh
nhân, khiêm nhượng hầu bàn và rửa chân cho các nữ tu sau khi họ đi cầu thực trở
về và dành nhiều thời giờ để tâm hồn chìm sâu trong kinh nguyện. Các nữ tu đồng
thời thuật lại rằng: Khi Clara cầu nguyện xong, mặt chị chiếu sáng làm chói mắt
mọi người.
Trong
27 năm cuối đời, Clara bị đau ốm luôn, nhưng chị đã thu hút được nhiều Giám Mục,
Hồng Y, kể cả các giáo chủ đến để tham khảo ý kiến của chị.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét