Chữ
“Nhân” của Khổng Tử trong Tác Phẩm Luận Ngữ
I. DẪN NHẬP
Nếu như triết học phương tây có
xu hướng đưa con người tới những chân trời mới của tri thức, nơi đó, các triết
gia tập trung nghiên cứu thế giới vật chất để nhận thức thế giới và cải tạo thế
giới, thì triết học Trung Quốc nói chung và nho học nói riêng lại phần nào có
xu hướng đưa con người khám phá ra “cái ngã” của bản thân mình. Đối với các
triết gia Trung Quốc, việc nghiên cứu triết học không phải là một hành trình
tìm kiếm tri thức vị tri thức. Nhưng đúng hơn, đó là làm sao để có thể vận dụng
những tri thức vào việc thực hành để mang lại hạnh phúc cho con người, thay vì
chỉ là những sự thảo luận suông. Đối với họ, điều quan trọng cần
chú ý là việc khám phá ra “con người là gì” hơn là “con người có cái gì”. Vì
thế, lý tưởng nà các triết gia muốn xây dựng là làm sao để con người có được
cái đức của thánh nhân, đồng thời có được công nghiệp của vương đế.
Khổng Tử cũng xây dựng hệ tư
tưởng của mình dựa trên quan điểm chủ đạo trên. Trong đó, ông phát huy đức
“Nhân” như là một trọng tâm của đời sống đạo đức con người; và đối với
ông, đức “Nhân” này là cái chi phối tất cả mọi hoạt động, tính cách của con
người. Do đó, ông cho rằng con người cần rèn luyện để có được đức Nhân trong
mối tương quan với chính mình và với người khác.
Trong phạm vi bài viết về đức
Nhân của Khổng Tử này, người viết không nghĩ rằng mình có thể trình bày cặn kẽ
tư tưởng cao sâu, thâm thúy của Khổng Tử trong việc bàn về đức Nhân. Điều
này thực sự là một công việc vượt quá khả năng hạn hẹp của người viết. Tuy
nhiên, để giúp người đọc có thể hiểu rõ hơn phần nào phạm trù Nhân trong
tư tưởng của Khổng Tử, người viết xin được trình bày cái hiểu nông cạn của mình
về chữ Nhân dưới cái nhìn của Khổng Tử qua tác phẩm “Luận Ngữ”; đồng thời hệ thống lại phương pháp
hành nhân mà Khổng Tử đã hướng dẫn ngang qua những cuộc đối thoại giữa Khổng Tử
và các học trò; từ đó nêu ra những suy tư khởi đi từ quan niệm giáo dục của ông
để phản tỉnh về sự giáo dục con người hôm nay. Tuy nhiên, trước khi đi vào
triển khai các đề mục này, người viết xin được trình bày khái quát khái
niệm về chữ Nhân theo cách hiểu chung về từ ngữ, cũng như theo quan niệm của
Khổng Tử.
II. KHÁI NIỆM CHỮ “NHÂN”
1. “Nhân” xét về mặt từ
ngữ
Theo học giả Trần Trọng Kim, chữ
Nhân (仁)gồm có bộ nhân (人)và bộ nhị (二) hợp
lại thành một chữ hội ý, nghĩa là nói cái thể và cái đức chung của mọi người
đều có với nhau như một[1]. Tương tự như vậy, học giả Phùng Hữu lan
cũng cho rằng “ Chữ Nhân 仁 gồm bộ thủ nhân (biến
thể của chữ nhân(人), nghĩa là nhân ghép
với chữ nhị(二). Tức nó
ngụ ý những phẩm chất đạo đức trong quan hệ giữa người với người[2].
ngoài ra, cũng dựa vào mặt từ ngữ này, người ta còn diễn tả chữ nhân này như
sau: từ nhân có hai bộ, bộ nhân người (人)vào bộ
nhị ( 二); nghĩa là có
ít nhất hai người trong thế giới này, và nhân là cách sống với nhau hay cách
đối xử với nhau[3]
Như thế, xét về mặt từ ngữ của
chữ “Nhân” từ các định nghĩa trên, chúng ta có thể tóm kết ý nghĩa của chữ
“Nhân” này như sau: Nhân là phương thế giúp người ta sống với nhau. Đó là cách
hành xử bình đẳng trong quan hệ giữa ta và người. Nhân là đức tính nối kết ta
với người thành một.
2. Khổng Tử quan niệm về
nhân
Để hiểu được quan niệm của
Khổng Tử về chữ “Nhân”, có lẽ chúng ta cần xét đến cách những người trước thời
Khổng Tử đã bàn luận thế nào về Nhân. Đồng thời chúng ta cũng cần tìm hiều một
chút bối cảnh xã hội trong thời ông sinh sống. Từ đó, chúng ta sẽ có cái hiểu
đúng hơn về quan niệm chữ “Nhân” của Khổng Tử.
Trước hết, các học giả nghiên
cứu về triết học và lịch sử Trung Quốc có quan điểm khác nhau về phạm trù
“nhân” trước thời Khổng Tử. Một quan điểm cho rằng chữ nhân chưa hề được đề cập
đến trong các tác phẩm trước thời Khổng Tử [4]. Trong khi đó, một quan điểm
khác lại nghĩ rằng thực ra người ta đã từng nói về chữ nhân trong một vài tác
phẩm trước đó; chẳng hạn như trong hai thiên “ Thục vu điền” và “Lư linh” của Kinh
Thi, hay trong thiên ‘Kim Đằng” của Thượng
Thư đều đã đề cập tới
chữ “Nhân” . Tuy vậy, chữ “Nhân” ở đây chỉ có ý nghĩa chính là “tình thương”.
Hơn thế nữa, quan niệm này còn cho rằng chữ nhân đã phát triển thành triết lý,
được coi như tiêu chuẩn tối cao trong hành vi của con người lại là sáng kiến
của Khổng Tử[5].
Từ đây chúng ta có thể phần nào
biết rằng, nếu chữ nhân đã được sử dụng trong các tác phẩm cổ điển trước thời
Khổng Tử thì nó cũng chỉ mang ý nghĩa rất sơ sài và hạn hẹp. Chỉ đến thời Khổng
Tử, chữ Nhân ấy mới được ông bổ sung và mặc cho nó nó những ý nghĩa
mới, biến nó trở thành tâm điểm, thành cái bản chất nhất trong bản tính con
người. Vậy, Khổng Tử đã quan niệm thế nào về phạm trù Nhân?
Sống trong thời điểm xã hội
đang bị suy hoại về đời sống: vua chúa không đảm nhận đúng vai trò của mình;
chư hầu, quần thần nổi loạn khắp nơi; dân chúng thì sống trong sự khốn khó, và băng
hoại về đạo đức, chắc hẳn Khổng Tử đã có nhiều băn khoan và trăn trở đối với
dân tình và quốc gia. Có lẽ tất cả những ưu tư này đã phần nào hình thành nên
tư tưởng của ông liên quan đến giáo dục và chính trị, cụ thể ở đây là đức nhân.
Đối với Khổng Tử, Nhân trước
hết là sự biểu lộ của thiên đạo trong đời sống con người. điều này ông
giả định rằng trong con người phải có cái gốc Nhân nơi bản tính của mình, mà
cái gốc Nhân ấy chính là cái con người đón nhận từ Thiên mà có. Nói khác
đi, trong quan niệm của Khổng Tử, Nhân chính là Đạo, là mệnh[6]. Cái đạo hay
mệnh ấy có suy có thịnh hay không thì lại do chính thiên mệnh quyết định: “Đạo
chi tương hành dã hựu, mệnh dã”. Và từ quan niệm chính Thiên phú bẩm đạo đức
cho con ngươi trên, ông cho rằng chẳng có ai có thể tước đoạt được cái đạo ấy,
cũng như nếu người nào không có cái đạo ấy thì không đáng được gọi là người
quân tử. Do đó, người quân tử phải là ngưởi kính sợ thiên mệnh, kính sợ đại
nhân và thánh nhân – là những người đã thuận theo thiên mệnh, là những người đã
thể hiện đạo. Như thế, có thể nói đối với Khổng Tử, ông cho rằng Nhân chính là
cái mà con người được nhận lãnh tử Thiên. Thế nên, điều quan trọng để có được
Nhân là hành động theo như mệnh chỉ bảo, không quan tâm tới sự thành bại bên
ngoài.
Hơn nữa, Khổng Tử không chỉ cho
Nhân là cái thiên mệnh, là đạo mà con người lãnh nhận được từ trời, ông còn cho
rằng Nhân là cái vốn đã có sẵn trong con người. Bởi lẽ con người vốn có
sẵn môt tiềm năng tự nhiên để trở nên tốt, nên thiện. “Nhân viễn hồ tai? Ngã dục nhân, tư
nhân chí hĩ” [7](điều nhân vốn có xa gì ta, ta muốn thì nó đến).
Tuy nhiên, vì cái Nhân vốn đã tồn hữu sẵn trong con người nhưng nó chưa được tỏ
lộ cách rõ ràng. Nó cần được trải qua tu dưỡng rèn luyện và thực hành thì Nhân
trong con người mới sáng lên. Đến lúc đó, Nhân mới có thể được tỏ hiện ra bên
ngoài. Vì lẽ đó, ta hiểu được tại sao Khổng Tử nói rằng: “tính tương cận, tập tương dã”[8].
Bản tính con người lúc đầu vốn rất gần nhau, nhưng chính do sự giáo dưỡng, tiếp
xúc và thực tập mà dần trở nên xa nhau. Ngoài ra, ông còn nói cho rằng: “chỉ
cần không oán thiên, không trách cứ người khác, có chí học tập, dưới học nhân
sự, trên đạt thiên mệnh”. Như thế, có thể tóm lại rằng Khổng Tử quan niệm
về chữ Nhân có tính hai chiều. Một đàng khi con người để cho thiên chi phối,
thuận lòng mình theo ý thiên thì có được Nhân. Đàng khác, con người có thể sở
đắc được Nhân qua việc tu dưỡng, rèn luyện của bản thân. Nói rõ hơn, Nhân chính
là thành quả, của sự chịu khó làm lụng “Nhân
giả tiên nan nhi hậu hạnh, khả vị, nhân hĩ”[9].
Ngoài ra, nếu xét quan niệm của
Khổng Tử trong một phạm vi lớn hơn là xã hội, ta thấy ông còn bàn luận về nhân
chính là lòng thương người. Nói đúng hơn, Nhân theo ông là một đức tính bao
quát tất cả đạo lý. Quả vậy, theo học giả W. T. Chan, Chính
Khổng Tử là người đầu tiên đã nói về chữ nhân như là nhân đức phổ quát, là toàn
đức (general virtue)[10]. Với ý nghĩa chữ Nhân theo nghĩa rộng này,
ta thấy Nhân đã chi phối toàn bộ tư tưởng triết học của Khổng Tử nói riêng và
của Nho giáo sau này nói chung. Quan niệm của ông về Nhân không chỉ dừng lại ở
việc tu luyện, giáo dưỡng bản thân cho thành danh thành tài, Nhưng Nhân phải hệ
ở tại “phù nhân giả, kỷ dục
lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”, đồng thời “sở kỷ bất dục vật thi ư nhân”[11] –
Phàm là người nhân thì khi mình muốn tự lập tự cường thì mình cũng khao khát
cho người khác được như thế; mình muốn thành đạt thì cũng cầu mong sao cho tha
nhân được thành đạt; và ngược lại, điều gì mình không muốn, không thích
thì cũng là điều mà mình cần tránh gây ra cho người ta. Chính vì quan niệm Nhân
như thế, Khổng Tử đã từng ví von những người bất nhân tương tự như chứng
bệnh tê “ma độc bất nhân” để diễn tả những người không có khả năng cảm
thông và liên đới với người khác bằng tình yêu.
Tuy nhiên, khi Khổng Tử nói
Nhân đòi hỏi phải yêu người, quý người nhưng điều đó không có nghĩa là ông chủ
trương yêu tha nhân cách “mù quáng”. Đối với ông, việc yêu người còn phải có sự
phân biệt thị phi, thiện ác. Ái nhân của ông không hàm nghĩa “ái vô sai đẳng”,
nhưng là yêu người nào đáng yêu và ghét người nào cần ghét[12]. Tuy nhiên,
trong cái ghét ấy của ông cũng cho thấy có sự phân biệt rõ ràng giữa người làm
điều xấu và việc làm xấu. Chính vì thế, khi ông nói cần ghét những người làm
điều xấu nhưng không phải vì vậy mà ông “loại trừ” hay ghét bỏ họ cho bằng ghét
những hành vi xấu xa của họ. Do đó, ông luôn chủ trương “giáo hóa vô loài”,
nghĩa là ông không có sự phân biệt thị phi người xấu kẻ tốt; và như thế,
chữ “Nhân” của ông không chỉ mang ý nghĩa là yêu người mà còn là hoàn thiện
người
Nói tóm lại, xét về quan niệm
Nhân của Không Tử, chúng ta có thể thấy ông bàn vể Nhân dưới hai phương diện.
Một đàng, chữ Nhân ấy được hiểu theo mối tương quan chiều dọc giữa người với
thiên; đàng khác, nó cũng được hiểu theo mối liên hệ chiều ngang giữa người với
người. Từ quan niệm về Nhân như thế này, Khổng Tử đã “mặc” cho Nhân một ý nghĩa
mới có tính toàn vẹn vào bao quát các nhân đức của con người.
III. HÀNH NHÂN THEO QUAN NIỆM
KHỔNG TỬ
Khi được các học trò hỏi vể
việc hành Nhân, Khổng Tử đã có những hướng dẫn khác nhau tùy theo phạm vi và
đối tượng
1. Xét về phạm vi
Khổng Tử nhìn nhận “Nhân” như
là một nhân đức toàn hảo. Tuy nhiên, nhân đức hoàn hảo này ai ai cũng có thể
đạt được, vì tự Nhân đâu có ở xa ta, nó ở trong lòng mỗi người. Hơn nữa, có
Nhân là có được sự hài hòa xã hội – một xã hội mà mọi người được bình
đẳng, yêu thương và tôn trọng lẫn nhau. Vì vậy, theo Khổng Tử, Nhân cần được
thực hành nơi các phạm vi bản thân, gia đình và xã hội.
Trước hết, xét trong mức độ bản
thân, Khổng Tử đòi hỏi người muốn có đức Nhân thì phải biết “khắc kỷ phục
lễ”[13]; nghĩa là phải làm chủ lòng dục vọng của mình, không để các dục vọng ấy
chi phối, gây rối loạn cuộc sống của mình cũng như của người khác. Hơn
nữa, lúc nào người ta còn quy kỷ, còn tìm và sống cho những tư dục của mình thì
người ta chẳng những không ra khỏi thế giới riêng tư của họ để hướng tới người
khác mà chính bản thân họ cũng trở nên băng hoại. Ngoài ra, bên cạnh việc khắc
kỷ, hành Nhân còn đòi hỏi người muốn có Nhân phải “phục lễ”; nghĩa là tuân theo
những lễ chế, những quy định của xã hội của truyền thống, văn hóa. Đối với
Khổng, Nhân và lễ dường như có một mối tương quan vô cùng mật thiết. Một đàng,
để có Nhân người ta phải thi hành lễ; nhưng đàng khác, nếu chỉ thi hành lễ mà
không có lòng nhân thì lễ nhạc cũng chẳng có ích gì[14]. Như thế, dù Nhân và lễ
cùng song hành nhưng Nhân là lẽ chính trong đời sống con người. Người không
Nhân thì dường như cũng không còn lương tri, lương năng; và nếu không có lương
tri, lương năng thì dùng lễ nhạc có ích gì. Hơn nữa, xét ở phạm vi cá nhân,
Khổng Tử nói người muốn có đức Nhân thì phải chịu làm lụng vất vả[15], sau đó
mới có được thành quả của đức Nhân.
Kế đến, trong phạm vi gia đình,
Khổng Tử cho rằng hiếu đễ chính là gốc của Nhân “hiếu đễ da giả, kỳ vi nhân chi
bổn dư” (Luận ngữ, Học nhi, 2). Trong mối tương quan gia đình, làm con thì phải
hiếu: khi cha mẹ còn sống thì phải phụng sự cho có lễ, khi cha mẹ đã khuất thì
phải chôn cất cho có lễ, cũng như phải cúng tế để tang. Hiếu với cha mẹ còn có
nghĩa là sống làm sao để cha mẹ vui, tránh khổ đau cho cha mẹ. Hơn thế nữa,
hiếu với cha mẹ còn phải thể hiện sự tôn kính, cung dưỡng trong đời sống hằng
ngày. Còn đối với người thân như anh chị, người trên…thì phải giữ nết đễ, nuôi
lòng hòa thuận, không xúc phạm đến người trên. Nói tóm lại, với Khổng Tử, bên
cạnh việc tu thân bằng cách “khắc kỷ phục lễ”, người muốn có đức nhân
phải sống sao cho hợp với đức hiếu đễ, bởi người ta có được đức Nhân một phần
là nhờ sự hiếu đễ.
Ngoài ra, xét trong phạm vi
rộng hơn là xã hội, Khổng Tử cho rằng việc hành nhân trước hết chính là yêu
người. Sự yêu người này được thể hiện qua việc trung và thứ với người.
Trong đó, trung nghĩa là tận tình với lòng mình, là yêu người, hết lòng
với người. Thứ là xét lòng mình mà làm cho người những gì mình muốn và tránh
làm cho người khác những điều mình không ưa thích. Thêm vào đó, Nhân còn còn
cần được thể hiện ra ngoài qua cung cách ứng xử “khi ra khỏi nhà, phải giữ cho
nghiêm trang kính cẩn…phải sống sao cho trong nước không ai oán mình, ở nhà
chẳng ai ghét mình”[16]; nghĩa là phải giữ gìn dung mạo cho thật khiêm cung,
khi ra làm việc thì phải thi hành cách kính cẩn, khi giao thiệp với người phải
giữ dạ trung thành (Luận ngữ, Tử lộ, 19).
Nhìn chung, xét việc hành nhân
theo phạm vi, ta có thể thấy Khổng Tử cho rằng hành nhân là một tiến trình từ
trong ra ngoài, hoàn thiện và cải biến từ bản thân đến việc xây dựng tốt tương
quan với gia đình và xã hội.
2. Xét về mặt đối tượng
Nếu như nhìn dưới khía cạnh
phạm vi, chúng ta thấy phương pháp hành nhân theo quan niệm của Khổng Tử
làm một tiến trình nhằm thay đổi giá nội tại nơi bản thân lẫn những giá trị
ngoại tại trong tương quan với gia đình và xã hội. Chúng ta cũng thấy những mức
độ hành nhân khác nhau tùy theo từng đối tượng mà Khổng Tử hướng dẫn.
Trước hết, đối với Mã Ngưu, vốn
là một người có tính nóng nảy, hay nói và phô trương, Khổng Tử khuyên ông hành
Nhân là phải biết nhịn nói[17], hay nói đúng hơn là phải cẩn trọng trong ăn
nói. Bởi lẽ nói thì dễ, làm mới khó. Nếu lời nói không đi đôi với làm, nếu ngôn
hành bất nhất thì không được chữ Tín đối với mọi người. Không có được chữ tín
đối với mọi người thì cũng chẳng tương quan được với người, và như thế hành
Nhân trong trường hợp của Mã Ngưu một phần khởi đi từ việc dựng “Tín”, cụ
thể là “ngôn hành hợp nhất”.
Còn đối với Phàm Trì, vốn là
người có phần nặng về tư lợi, không quan tâm nhiều tới người khác, Khổng Tử dạy
ông rằng “hành nhân
không gì khác hơn là yêu người”[18]. Chính vì tình yêu này, người
ta đòi hỏi phải ra khỏi lòng yêu mình. Hơn nữa, xuất phát từ lòng yêu người này
mà Khổng Tử khuyên Phàm Trì phải giữ cho mình được thái độ khiêm tốn và chân
thành trong ứng xử đối với người. Làm được như thế, đối với người trong địa vị
của Phàm trì thì đây cũng đáng được gọi là Nhân rồi! (Tử lộ, 19).
Trong trường hợp của Trọng
Cung, ông là người muốn làm chính trị, là người có đức hạnh, Khổng Tử khuyên
rằng hành nhân là phải biết thứ: “khi
ra khỏi nhà, mình phài sống sao cho nghiêm trang kính cẩn dường như sắp gặp
khách quý; khi sai dân làm việc công thì mình phải sáng suốt thận trọng nghĩ
tới dân” (Nhan Uyên 2). Tương tự như vậy, Tử Trương cũng là một
người ham muốn nghiệp chính trị, ham học hỏi, tính tình phóng khoáng, thích làm
việc khó nhưng đôi khi cầu thả. Đối với ông, Khổng Tử khuyên “hành nhân là thực hiện năm đức: tự
mình nghiêm trang chỉnh tề, có lòng rộng lượng, có đức tín thành, mau mắn siêng
năng, thi ân bố đức”. Quả vậy, “ nếu lòng mình rộng lượng thì mình thu
phục được lòng nhân, nếu mình có đức tín thành thì người tin cậy mình, nếu mình
mau mắn siêng năng thì làm được nhiều việc, nếu mình thi ân bố đức thì mình sai
khiến được người” (Dương Hóa, 6). Như thế, với những người mong
nghiệp chính trị và có tài đức như Trọng Cung và Tử Trương, Khổng Tử dường như
khuyên họ hành nhân bằng cách xây dựng mối tương quan giữa họ với người, cũng
như bằng cách sống gương mẫu cho dân chúng noi theo.
Ngoài ra, đối với Nhan Hồi,
người vốn được Khổng Tử đánh giá là một người giữ Nhân tốt nhất trong số các
học trò. Bàn về đức Nhân với ông, Khổng Tử cho rằng “hành Nhân chính là khắc kỷ phục lễ”
(Nhan Uyên 1); nghĩa là chế ngự lòng tư dục, thuận theo lễ tiết. Nói rõ hơn,
nếu cái gì mình thấy không hợp lễ thì đừng nhìn, đừng nghe, đừng nói và đừng
làm”. Như thế, có thể nói rằng hành Nhân ở đây chính là quay về với lòng mình,
nhận định, xem xét để có thể làm chủ ngũ quan, cũng như để hành động sao cho
hợp với đạo lý, lễ chế xã hội.
Nói tóm lại, tùy theo từng tính
cách, vị trí, nghề nghiệp mà Khổng Tử khuyên người ta sống sao cho hợp với
Nhân. Đây chính là qua điểm thuyết chính danh của ông: người làm chính trị thì
có cách hành Nhân của người chính trị, người làm thầy giáo thì có cách hành
Nhân của người thầy giáo,người bình dận có cách hành Nhân của người bình
dân…Dầu có một chút khác biệt tùy từng người từng hoàn cảnh, nhưng việc hành
Nhân theo Khổng Tử vẫn nằm trong việc xây dựng bản thân và mối tương quan giữa
người với ta. Hai điều này tùy theo phạm vi hay đối tượng mà có sự nhấn mạnh ở
đều này hơn hay điều kia hơn. Tuy vậy, hai điều này luôn song hành với nhau
trong việc hành nhân của con người.
IV. TẦM QUAN TRỌNG CỦA NHÂN –
CHIẾC CẦU NỐI KẾT TRONG ĐỨC DỤC VÀ TRÍ DỤC
Hiểu được quan niệm về phạm trù
nhân của Khổng Tử, cũng như hiểu được việc hành Nhân theo quan điểm của ông,
chúng ta không thể phủ nhận vai trò và tầm quan trọng của Nhân trong đời sống
con nguời. Đồng thời, ta cũng thấy được “Nhân” như là tâm điểm mà từ đó
Khổng Tử dùng để xây dựng hoặc phát triển các nhân đức khác cũng như xây dựng
tri thức trong giáo dục.
Vì lẽ đó, Nhân là cái đạo của
người quân tử. Người quân tử dừ có xảy ra điều gì chăng nữa cũng
không không bao giờ được phép bỏ điều Nhân. Ngay cả khi phải đối diện giữa giàu
có với nghèo hèn, điều Nhân vẫn luôn phải là “hành trang” họ mang bên
mình. Vì vậy, dù chỉ phải bỏ điều Nhân trong khoảng một bữa ăn, người quân tử
cũng không bao giờ làm điều sai trái ấy[19]. Hơn nữa, cũng vì tính chất quan
trọng của đạo Nhân, người ta cũng không thể làm tổn hại đến đức Nhân, dù không
làm như thế có thể phải hy sinh cả tính mạng (Vệ Linh Công, 8). Nói cách khác,
người ta phải sẵn sàng hy sinh cả bản thân để bảo vệ điều Nhân. Đời sống con
người chỉ có ý nghĩa khi sống và giữ gìn đức Nhân, và như thế nếu mất đức Nhân
thì cuộc sống ấy chẳng còn đáng sống. Ngoài ra, những người ao ước và khát khao
làm điều Nhân thì không khi nào để vuột mất cơ hội, dù cho có phải tranh giành
với thầy mình (Vệ Linh Công, 35).
Nói tóm lại, với Khổng Tử, đức
Nhân không cho phép người ta chần chừ hay làm trái đạo lý, dù chỉ trong
khoảng khắc ngắn. Người ta phải chiến đấu để bảo vệ Nhân, cũng như tận dụng mọi
cơ hội để hành Nhân, dù cho có phạm đến đời sống của mình về cả vật chất
lẫn tinh thần. Nhân dường như được ông đặt trên bậc cao nhất so với mọi thứ
khác. Đồng thời, ông để cho Nhân chi phối toàn bộ tư tưởng triết học của ông,
cụ thể là trong triết lý về giáo dục
Trước nhất, nhân được ông coi
là cái quy định bản tính con người thông qua Lễ, Nghĩa, Hiếu; quy định mối quan
hệ giữa người với người bằng Trung, Thứ, Tín. Nhân đã liên kết với các phạm trù
đạo đức khác để làm thành một hệ thống triết lý nhất quán, chặt chẽ. Do vậy, có
thể nói rằng nếu coi các phạm trù đạo đức khác là những vòng tròn đồng tâm thì
Nhân chính là tâm điểm, là cái bản chất nhất trong bản tính con người.
Từ việc đặt Nhân ở vị trí tâm
điểm này, Khổng tử đã nối kết việc giáo dục tri thức với việc giáo dục đạo đức
với nhau. Viêc giáo dục của ông không chỉ đặt nặng trên phương diện kiến thức
mà quan trọng hơn là giáo dục đạo đức. Vì lẽ đó, ông chấp nhận “giáo hóa vô
loài”, không phân biệt thị phi. Hơn nữa, ông dựa vào tính cách, nghề nghiệp của
từng người mà giáo dục nên giáo huấn của ông mang đậm nét đức dục hơn trí
dục. Thêm vào đó, Khổng Tử dạy học trò không phải vì muốn tạo lập cho mình một
học phái, một tôn giáo nhưng là muốn giúp cho môn sinh trở thành những nhà lãnh
đạo, những người có ích cho cộng đồng và xã hội. Với những mục đích như thế,
Khổng Tử góp phần làm cho Nhân trở thành một nhân đức quan trọng cũng như đã
biến nó thành chiếc cầu nối giữa trí dục và đức dục.
V. SUY TƯ PHẢN TỈNH VỀ GIÁO DỤC
CON NGƯỜI HÔM NAY
Từ những bàn luận của Khổng Tử
về Nhân, chúng ta đã thấy được đường hướng giáo dục con người của ông đặt trên
nền tảng đức dục lẫn trí dục. Đó là một phương pháp giáo dục có tính toàn vẹn,
tổng thể. Và kết quả là ông đã giúp “sản sinh” ra vô số những con người có ích
cho xã hội thời đó.
Ngày nay, chế độ xã hội đã khác
xưa rất nhiều. Tuy nhiên, điều này không làm cho tư tưởng Nhân của Khổng Tử không
còn ý nghĩa đối với việc giáo dục hôm nay.
Trước hết, chúng ta đang sống
trong một xã hội với nhiều tiện nghi, một xã hội đề cao trí dục. Người nào càng
có tri thức vững chắc, càng có nhiều tiền tài, càng được coi là thành công
trong xã hội. Mức thang giá trị con người dường như được đặt nền trên vốn trí
thức và tài sản mà người ta sở hữu. Tuy nhiên, khi quá nhấn mạnh tới những điều
này người ta lại vô tình và thậm chí là cố ý để bỏ quên đi vấn đề đức dục. Hệ
quả này dẫn đến một sự mất quân bình trong đời sống con người. Từ đó, không ít
những vấn đề mà xã hội chúng ta đang phải đối diện hiện nay liên quan đến đạo
đức truyền thống cần phải được đặt lại, chẳng hạn như hiếu đễ, tôn sư
trọng đạo, tín, trung, thứ…
Việc mất cân bằng giữa trí dục
và đức dục làm thành những “dị nhân” cho xã hội. càng có nhiều kiến thức trong
tình trạng thiếu đạo đức thì đời sống con người ngày càng băng hoại. Vì lẽ đó,
nhiều người trong xã hội ngày nay chỉ biết “ lao vào” đời sống hưởng thụ, buông
thả thay vì sống một lối sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
Nếu đem so sánh điều này với quan điểm giáo dục của Khổng Tử, điều này hoàn
toàn trái ngược với việc hành Nhân “ khắc kỷ phục lễ” của ông khi xưa.
Hơn thế nữa, càng có nhiều tiện
nghi, nhiều tự do về quyền cá nhân, con người ngày nay dường như lại càng trở
lên “đóng kín” vào chính mình. Hay nói đúng hơn, họ gần như ngày càng trở nên
vị kỷ và sống cho những giá trị bên ngoài như công danh, tiền tài…Người được
coi là “quân tử” thời nay dường như là những người có nhiều tiền nhiều địa vị
hơn là nhiều nhân đức.[20]
Ngoài ra, như đã nói ở trên,
chữ Hiếu vốn đã được Khổng Tử coi là gốc của Nhân. Trong xã hội ngày nay, chữ
hiếu dường như phần nào cũng bị suy giảm. Một mặt, xã hội chúng ta ngày càng
tiến bộ hơn, người ta không còn thói quen sống hai ba thế hệ chung trong một
mái gia đình. Điều này chắc hẳn phần nào cũng làm hạn chế mối tương quan giữa
con cái, cha mẹ, ông bà. Hơn thế nữa, con người ngày càng đẩy mạnh sự tự do cá
nhân và tự lập. Điều này phần nào cũng có những nét rất tích cực; nhưng đồng
thời nó cũng góp phần làm tổn hại đến tình cảm của các thành viên trong gia
đình. Và như vậy, Giáo dục chữ Hiếu cũng dần đánh mất giá trị tốt đẹp của nó.
Thêm vào đó, như mọi người đều nhìn nhận “gia đình chính là nơi việc giáo dục
đạo đức tốt nhất” nhưng những nhu cầu và nhưng gì xã hội hiện đại cung cấp cho
con người dễ làm cho họ đánh mất đi môi trường giáo dục nhân đức này.
Ngoài ra, một khía cạnh
khác từ hậu quả của sự mất quân bình trong giáo dục là sự rạn nứt các
tương quan xã hội. Nếu như quan điểm giáo dục của Khổng Tử đòi buộc người ta
“yêu người như mình” thì ngày nay giáo dục của chúng ta phần nào thiếu ý thức
về khía cạnh này. Thay vào đó, quan điểm được thay thế dường như là “kẻ nào
mạnh người ấy thắng” cùng với việc “đèn nhà ai người ấy tỏ”. Con người trong xã
hội dường như đánh mất dần mối tương quan của mình với người khác, hoặc nếu có
được mối tương quan, thì điều ấy có lẽ cũng chỉ nhắm đến mục đích vụ lợi cá
nhân. Sự đề cao độc quyền, đề cao chuyên môn hóa, toàn cầu hóa…một mặt chúng có
những đóng góp đáng kể cho xã hội, nhưng đồng thời chúng góp phần làm gia tăng
bất công và sự ích kỷ nơi con người.
Nói tóm lại, nếu lấy quan điểm
Nhân của Khổng Tử soi chiếu cho hiện trạng giáo dục hiện nay, chúng ta thấy có
quá nhiều vấn đề phát sinh từ việc coi nhẹ tầm quan trong của đức dục. Vì
thế, vấn nạn được đặt ra ở đây phần nào cho thấy con người ngày này có lẽ cần
quay lại với những giá trị tốt đẹp trong việc giáo dục mà Khổng Tử đã đưa ra là
sự kết hợp hài hòa giữa đức dục và trí dục, hay nói đúng hơn là sự ưu tiên cho
đức dục. Vì có lẽ, chẳng bao giờ là thừa nếu người ta biết sống thăng hoa vượt
lên những tư dục, đam mê bất chính của con người. Đồng thời, việc xây dựng mốt
mối tương quan lành mạnh với gia đình và xã hội theo đạo Nhân góp phần làm cho
con người ngày càng trở lên người hơn.
(Nguyễn Đức Thắng, SJ)
[1] Trần Trọng Kim, Nho Giáo, Quyển
Thượng, Trung tâm học liệu xuất bản, 1971, Trang 44.
[2]Phùng Hữu Lan, Lịch sử triết
học Trung Quốc ( bản dịch tiếng việt của Lê Minh Anh, nxb: Khoa học Xã hội,
2006).
[3]http://www.chinese-word-roots.org/cwr011.htm
(The word 仁 has two radicals,
radical ( 人 , man) and radical ( 二 two) . That is, there are at least two men in this world, and 仁 is the way to live with others or the way to govern others.)
[4] Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê,
Đại cương triết học Trung Quốc, Tập 2, Nxb: Thanh niên, 2006, Tr. 361 – 62.
[5]Ngô
Quân, Bảy Đại Triết Gia Trung Quốc Đời Chu – Tần (đọc từ website:
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237ntn3ntnqn31n343tq83a3q3m3237nvn
[6] x. Trương Lập Văn, Thiên,
Nxb: Khoa học xã hội, 2003, Tr. 100 – 105.
[7] Khổng Tử, Luận
ngữ, Thuật Nhi, 29 (Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, NXb: Văn Học,
1995).
[8] sđd, Dương Hóa, 2.
[9] sđd, Ung Dã, 20.
[10] Hall, David L.; Ames,
Roger T., Thinking Through Confucius,
State University of New York Press,1987, tr.111.
[11]Khổng Tử, Luận
ngữ, Ung dã, 28 và Nhan Uyên, 2.
[12] sđd, Dương Hóa, 24.
[13] sđd, Nhan Uyên, 1.
[14] sđd, Bát Dật, 3.
[15] sđd, Ung Dã, 20.
[16] sđd, Nhan Uyên, 23.
[17] Sđd, Nhan Uyên, 3.
[18] Sđd, Nhan Uyên, 21.
[19] Sđd, Lý nhân, 5.
[20]Quan điểm về “người quân
tử” của Khổng Tử là những người có đầy đủ các đức tính trongngũ thường: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, trong
đó Nhân là quan trọng nhất. Người quân tử cũng là người nắm được mệnh
trời và sống theo mệnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét