Trang

Thứ Ba, 10 tháng 11, 2015

11-11-2015 : THỨ TƯ TUẦN XXXII MÙA THƯỜNG NIÊN - THÁNH MACTINO, GIÁM MỤC - Lễ Nhớ

11/11/2015
Thứ Tư sau Chúa Nhật 32 Quanh Năm
Thánh Máctinô, giám mục. Lễ nhớ.

* Thánh nhân sinh khoảng năm 316 trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận bí tích thánh tẩy, sau đó bỏ binh nghiệp. Trước tiên, người làm đồ đệ của thánh Hilariô, lập đan viện Liguygê, nước Pháp. Rồi khi được đặt làm giám mục giáo phận Tua (372), người thành lập nhóm đan sĩ truyền giáo. Cùng với họ, người đi giảng Tin Mừng ở các vùng quê thuộc miền Turen và các vùng phụ cận. Người qua đời năm 397.

Bài Ðọc I: (Năm I) Kn 6, 2-12
"Hỡi các vua chúa, hãy lắng nghe và học biết sự khôn ngoan".
Trích sách Khôn Ngoan.
Hỡi các vua chúa, hãy nghe và hãy hiểu. Hỡi các thủ lãnh trần gian, hãy học biết. Hỡi các vị lãnh đạo quần chúng, các ngươi kiêu hãnh, vì dân các ngươi đông đảo, xin lắng nghe: Quyền bính của các ngươi là do Chúa ban, và uy lực của các ngươi cũng do Ðấng Tối Cao. Người sẽ chất vấn mọi hành động và kiểm soát những tư tưởng các ngươi. Vì nếu các ngươi là những quản lý nước Chúa mà không xét xử công minh, không giữ luật công bình, không sống theo thánh ý Thiên Chúa, thì Người sẽ xuất hiện trên các ngươi cách kinh hoàng mau lẹ. Vì đối với những kẻ cầm quyền, Người sẽ xét xử nghiêm nhặt. Ðối với những kẻ thấp hèn, thì Người sẽ thương xót, còn những người quyền thế, Người sẽ lấy quyền thế mà trừng trị. Thiên Chúa không lùi bước trước mặt ai, chẳng sợ chức bậc nào, vì kẻ hèn người sang đều do chính Người tác tạo, và Người săn sóc tất cả đồng đều. Nhưng Người sẽ xét xử nghiêm nhặt hạng quyền thế. Vậy hỡi các vua chúa, đây là lời ta nói với các ngươi, để các ngươi học biết sự khôn ngoan và khỏi sa ngã. Vì chưng, những ai kính cẩn nắm giữ những điều công chính, sẽ nên người công chính, và những ai học hỏi các điều này, sẽ biết cách trả lời. Vậy các ngươi hãy say mến lời ta, thì các ngươi sẽ được giáo huấn.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 81, 3-4. 6-7
Ðáp: Ôi Thiên Chúa, xin Chúa đứng lên xét xử địa cầu (c. 8a).
Xướng: 1) Hãy bầu chữa kẻ bị ức và người phận nhỏ; hãy bênh vực quyền lợi người khốn khó và kẻ cơ hàn. Hãy cứu chữa người bị áp bức và kẻ bần cùng; hãy giải thoát họ khỏi bàn tay đứa ác. - Ðáp.
2) Ta đã nói: các ngươi là những bậc chúa tể, và hết thảy các ngươi là con Ðấng Tối Cao. Tuy nhiên, cũng như người ta, các ngươi sẽ chết, cũng như một quân vương nào đó, các ngươi sẽ té nhào. - Ðáp.

Alleluia: 1 Tx 2, 13
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy đón nhận lời Chúa, không phải như lời của loài người, mà là như lời của Thiên Chúa và đích thực là thế. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 17, 11-19
"Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người: Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Thể Hiện Của Tự Do Thực Sự
Trong suốt nhiều thế kỷ, người Do thái đã phải còng lưng dưới sức nặng của lao động khổ sai bên Ai Cập. Dưới sự lãnh đạo của Môsê, Thiên Chúa đã giải phóng họ và đưa họ vào vùng đất tự do. Ðể đánh dấu cuộc giải phóng khỏi các thứ khổ sai đó, Thiên Chúa đã thiết lập một ngày trong tuần như ngày Hưu Lễ. Ðó là lý do tại sao người Do thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu lễ. Nó chính là biểu trưng của tự do, bởi vì thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày, người Do thái không thể có được một ngày nghỉ ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ của tự do, và đó là ý nghĩa nguyên thủy của ngày Hưu lễ.
Thế nhưng, dần dà qua dòng thời gian các nhà thần học Do thái đã thay đổi ý nghĩa ấy của ngày Hưu lễ: thay vì là biểu tượng của tự do, họ đã biến ngày Hưu lễ thành một gánh nặng đầy đọa và trói buộc con người; họ đã kéo dài ngày Hưu lễ thành một bản kê khai tỉ mỉ những gì không được phép làm trong ngày Hưu lễ và như vậy dấu chỉ của tự do giờ đây chỉ còn là một hình thức nô lệ mới đối với người Do thái: thay vì là dấu chỉ của tự do đưa con người vào gặp gỡ với Thiên Chúa, ngày Hưu lễ đã trở thành một gánh nặng chồng chất trên vai con người, nhất là làm cho con người xa cách Thiên Chúa.
Ðó cũng là tình trạng của lề luật nói chung thời Chúa Giêsu. Luật lệ không còn là vì con người, nghĩa là giải phóng con người, mà trở thành gánh nặng đè bẹp con người và tách lìa con người khỏi Thiên Chúa; con người chú tâm thi hành lề luật hơn là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Thái độ của 9 người phong cùi người Do thái trong Tin Mừng hôm nay phản ánh tâm thức chung của người Do thái thời đó. Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi, trong đó chỉ có một người Samari không phải tuân hành luật Do thái. Theo đúng đòi hỏi của lề luật, Chúa Giêsu đã yêu cầu 9 người Do thái đến trình diện các tư tế để được xác nhận là đã khỏi bệnh, riêng người Samari không phải tuân giữ điều đó, nhưng đây lại là người duy nhất trở lại cám ơn Chúa Giêsu và ngợi khen Thiên Chúa.
Câu truyện trên cho chúng ta thấy luật lệ đã cản trở con người đến gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm tạ Thiên Chúa. Người Samari vì không bị chi phối bởi lề luật, nên đã được tự do để nói lên tình cảm chân thật của mình, người này gần với tôn giáo đích thực bởi vì ông có tự do hơn. Thiên Chúa thi ân một cách nhưng không thì con người cũng phải đáp trả một cách tự do. Một tương quan như thế không thể có được trong một xã hội lề luật, trong đó con người chỉ biết tính toán theo thứ công bình hoán đổi. Người Do thái vốn quen thuộc với tâm thức ấy, họ tính toán chi ly về công đức của mình, họ lượng giá phần thưởng dựa trên công nghiệp của mình. Chúa Giêsu đã đánh đổ một quan niệm như thế về tương quan giữa con người và Thiên Chúa: ơn cứu rỗi mà Ngài loan báo và thực hiện là ơn cứu rỗi nhưng không, đến độ con người chỉ được cứu độ nhờ lòng tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa, đến độ những kẻ tội lỗi là những người đầu tiên được vào Nước Chúa.
Ngày nay, có lẽ nhiều người chúng ta cũng giống như 9 người phong cùi Do thái trong Tin Mừng hôm nay. Họ đã bị lề luật giam hãm trong Ðền thờ để không còn có thể nói lên lời tạ ơn đối với Ðấng đã thi ân cho mình; họ xem lề luật trọng hơn điều thiết yếu của niềm tin là lòng biết ơn và niềm tín thác. Cũng như họ, có lẽ chúng ta đã tỏ ra trung thành một cách chi ly với luật Hội Thánh, nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn còn tự hỏi: Tôi phải đọc bao nhiêu kinh? Tôi phải lần bao nhiêu chuỗi? Tôi phải ăn chay bao nhiêu lần? Tôi phải bố thí cho bao nhiêu người nghèo khó? Tính toán như thế là quên rằng Thiên Chúa như Chúa Giêsu mạc khải là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài ban ơn cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta chờ đợi và tính toán. Một Thiên Chúa như thế, con người không thể có một tâm tình nào xứng hợp hơn là lòng tri ân, niềm tín thác. Ðó là sự thể hiện của một tâm hồn tự do đích thực, nhờ đó con người có thể vượt qua bốn bức tường nhà thờ để không ngừng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống mỗi ngày.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 32 TN1, Năm lẻ.
Bài đọc: Wis 6:1-11; Lk 17:11-19.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy học hỏi để biết nguồn gốc mọi sự
Có một sự khác biệt lớn lao giữa người có học và người thất học: Người có học biết dùng kiến thức của mình để biết đối xử đúng đắn trong các mối liên hệ với Thiên Chúa, với tha nhân, và với các tạo vật trong vũ trụ. Người thất học, vì không biết mọi sự đến từ đâu, nên chỉ biết phản ứng theo những gì mình suy nghĩ. Hậu quả họ phải lãnh nhận là sự phán xét của Thiên Chúa, sự ghét bỏ của tha nhân, và mọi thất bại trong cuộc đời.
Các Bài Đọc hôm nay dạy con người phải biết học hỏi suy xét về nguyên do những gì mình có. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan xác quyết về nguồn gốc của quyền hành: Mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa. Ngài ban quyền bính cho con người để lãnh đạo và cai trị. Ngài cũng sẽ xét xử công minh cho những người nắm quyền cai trị trong các quốc gia; vì thế, họ phải cai trị dân chúng theo thánh ý của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa lành mười người phong hủi; nhưng chỉ có một người ngoại đạo biết nguyên do của việc được chữa lành và trở lại cám ơn Thiên Chúa. Chúa hỏi: " Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?"

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Mọi quyền bính xuất phát từ Thiên Chúa.
1.1/ Quan niệm của Sách Khôn Ngoan về quyền bính: Một người sẽ nhận ra đây là những quan niệm rất mới lạ về quyền bính, vì người thế gian cho sở dĩ họ có quyền là vì công sức hay tài cán của họ; vì thế, họ cai trị dân chúng theo sự khôn ngoan của họ, mà không bao giờ thắc mắc về kết quả của sự cai trị của họ. Ngược lại quan niệm này, tác giả Sách Khôn Ngoan dạy:
(1) Quyền bính của con người được ban xuống từ Thiên Chúa: "Vì chính Đức Chúa đã ban cho chư vị quyền bính và chính Đấng Tối Cao đã ban quyền thống trị. Cũng chính Người sẽ kiểm tra các việc chư vị làm và dò xét những điều chư vị toan tính." Quan niệm này không chỉ áp dụng cho người nắm quyền bính trong Giáo Hội, mà còn bao trùm cả những người cai trị các quốc gia, cho dù họ có biết hay không: "Vậy, hãy lắng nghe, hãy cố hiểu, hỡi các bậc quân vương; hãy học cho biết, hỡi những vị đang nắm quyền trên khắp cõi trần gian. Mở tai ra, hỡi những ai đứng đầu trong thiên hạ, đang tự hào vì có đông đảo chư dân."
(2) Kẻ nắm chức vụ cao mấy đi nữa cũng chỉ là bề tôi của Thiên Chúa: "Chư vị là bề tôi phụng sự vương quyền Người."
(3) Thiên Chúa sẽ xét xử những kẻ có quyền bính. Ngài sẽ luận phạt những kẻ không biết xét xử công minh: "Quả vậy, người phận nhỏ được thương tình miễn thứ, kẻ quyền thế lại bị xét xử thẳng tay. Chúa Tể muôn loài không bao giờ vị nể, kẻ quyền cao chức trọng, Người cũng chẳng kiêng dè."
1.2/ Những điều quan trọng mà kẻ có nắm quyền bính phải thực hiện:
(1) Họ phải biết xét xử công minh, tuân giữ lề luật, và tuân hành theo ý Thiên Chúa. Nếu không, Thiên Chúa sẽ có "một án quyết thật nghiêm minh vẫn dành sẵn cho những kẻ có chức có quyền."
(2) Mọi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa; nhưng người có quyền hành sẽ bị xét xử nặng hơn những người phận nhỏ: "Sang hay hèn đều do Người tạo tác, đều được Người chăm sóc hệt như nhau, nhưng kẻ quyền cao sẽ bị tra vấn nghiêm nhặt."
(3) Càng quyền cao chức trọng càng phải học biết khôn ngoan để biết xét xử cho đúng đắn: "Vậy, hỡi các bậc vua chúa quan quyền, những lời tôi nói đây, xin gửi tới chư vị để chư vị học biết lẽ khôn ngoan, mà khỏi phải sẩy chân trật bước."
(4) Người nắm quyền phải biết Lề Luật để sống thánh thiện: "Ai sống thánh và tuân giữ luật thánh, thì được kể là bậc thánh nhân. Ai học hỏi luật thánh, thì sẽ tìm được lời bào chữa."
2/ Phúc Âm: Lòng biết ơn.
Bài Phúc Âm này thường được đọc trong ngày Lễ Tạ Ơn mỗi năm. Mục đích là để nhắc nhở cho mọi người biết nhận ra ơn và cám ơn Thiên Chúa.
2.1/ Phải biết ơn trước khi cám ơn: Trên đường lên Jerusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilee. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!"
- Tình trạng bi thảm của những người phong cùi: Vì người Do-Thái rất chú trọng đến vấn đề thanh sạch bên ngòai, những người phong cùi không được ở chung với dân; mà phải sống cách biệt bên ngòai làng của dân ở (Lev 13:46, Num 5:2). Họ không được phép tiếp xúc trực tiếp với dân và phải la lớn để mọi người được biết sự có mặt của họ mà tránh đi (Lev 13:45).
- Để chứng tỏ mình đã hết bệnh phong cùi, họ phải được xem xét cẩn thận bởi các tư tế. Khi nào các tư tế tuyên bố họ đã sạch; bấy giờ họ có thể trở về sinh họat bình thường với dân trong làng (Lev 14:2-3). Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế." Đang khi đi thì họ được sạch.
2.2/ Những người “ở ngòai” dễ nhận ra ơn hơn những người “ở trong”:
- Tâm tình biết ơn của người Samaria: Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samaria. Đức Giêsu nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?"
- Người Do-Thái khinh thường và sống xa cách với người Samaria. Điểm lạ ở đây là 9 người phong Do-Thái khi bị chính dân mình khai trừ đã mở rộng vòng tay cho người phong Samaria được sống chung với họ. Khi con người bị đau khổ và bỏ rơi, có lẽ con người dễ đòan kết và sống chung với nhau hơn.
- Người Samaria, tuy bị người Do-Thái khinh thường, nhưng nhiều lần được chính Chúa Giêsu khen tặng. Trong câu truyện “Ai là người thân cận của tôi?” Chúa Giêsu đã đề cao người Samaria Nhân Hậu hơn các thầy tư tế và Lêvi, vì ông là người biết tỏ lòng thương xót với người bị đánh trọng thương dọc đường: ông đã vực người trọng thương lên lừa và đưa về quán trọ săn sóc cẩn thận và hứa sẽ trả mọi phí tổn tương lai cho chủ quán trọ (Lk 10:30-37). Trong cuộc đàm thọai giữa Đức Kitô và người phụ nữ xứ Samaria, chị đã trở thành nhà truyền giáo đầu tiên của Chúa Giêsu, nhiệt thành loan báo về Người cho các dân trong làng của chị (Jn 4:39-41).
- Biết ơn là xứng đáng đón nhận thêm ơn: Rồi Người nói với anh ta: "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh." Không phải chỉ được thanh sạch bên ngòai, anh còn được thanh sạch cả bên trong. Chính vì lòng tin mà anh đã xứng đáng được hưởng ơn cứu độ.
2.3/ Tại sao con người vô ơn? Có nhiều lý do: (1) vì con người không chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy nghĩ tại sao nó có; (2) họ giả sử tất cả mọi người phải hành động như vậy: là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học sinh; và (3) họ sợ nếu nhận ra ơn, họ phải trả ơn. Vì thế, họ vô ơn:
(1) với Thiên Chúa: Đấng đã dựng nên và không ngừng ban mọi ơn lành cho họ. Ngày Lễ Tạ Ơn là dịp để con người nhận ra và tạ ơn Thiên Chúa qua việc tham dự Thánh Lễ và làm ơn cho những người kém may mắn; nhưng thử hỏi được bao nhiêu người làm những điều này? Thay vào đó, họ lo tổ chức ăn uống vui chơi cho bản thân và cho gia đình họ.
(2) với cha mẹ: những người đã cưu mang, nuôi nấng, và dạy dỗ họ trong suốt một phần tư của cuộc đời. Lẽ ra, khi cha mẹ về già không còn tự săn sóc mình được nữa, họ phải phụng dưỡng và săn sóc trở lại, thì họ lại cho vào các nhà hưu dưỡng rồi tự an ủi mình: “chính phủ sẽ săn sóc các ngài tốt hơn ta.”
(3) với tha nhân: những người đi trước nhiều khi đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu, xây dựng, và phát minh ra những tiện nghi mà chúng ta đang được hưởng. Bổn phận của những người thụ hưởng là tiếp tục để làm cho thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn chứ không phải chỉ ù lỳ thụ hưởng.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần khôn ngoan để học hỏi và nhận định: mọi sự có trên đời này đều đến từ Thiên Chúa. Nếu Chúa đã ban nhiều, Ngài sẽ đòi lại nhiều. Người nắm quyền thế sẽ chịu xét xử nghiệm nhặt; vì thế, cần biết khôn ngoan để phục vụ và hướng dẫn những người thuộc quyền mình theo đường lối của Thiên Chúa.
- Chúng ta phải biết nhìn nhận và so sánh để nhận ra ơn. Đã nhận ơn phải biết nói lời cám ơn. Cám ơn xuông chưa đủ, mà còn phải biết thi ơn cho người đã làm ơn hay cho người khác để sự tốt lành tiếp tục lan tràn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

11/11/15 THỨ TƯ TUẦN 32 TN
Th. Mác-ti-nô, giám mục
Lc 17,11-19


Suy niệm: Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” Câu hỏi của Chúa Giê-su như xoáy vào ruột gan người nghe, lột trần tình trạng đức tin rỗng tuếch bên trong họ, một tình trạng như Chúa Giê-su đã từng nói rõ:  “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đó nhận” (Ga 1,11). Trong lúc đó, một người ngoại bang hay ngoại giáo được ơn tha thứ và được chữa lành bệnh tật cùng với “chín người kia,” lại mau mắn trở lại cảm tạ Chúa và tin vào Chúa. Việc trở lại thờ lạy và cảm tạ Chúa làm cho người ngoại giáo này khác biệt với chín người kia, hay nói cách khác, mười người được chữa lành nhưng chỉ có một người được cứu độ. Đối với người Do Thái, người ngoại giáo này đứng ngoài giao ước, ngoài lời hứa, ngoài dân Chúa, thế nhưng ông đã biết đi thẳng đến với Chúa Giê-su, hết lòng khiêm cung sấp mình dưới chân Đấng Thánh và tạ ơn Ngài. Lòng tin giúp ông biết đi “con đường tắt” đến với Chúa để lãnh ơn cứu độ, như Chúa nói: “Lòng tin của con đã cứu chữa con.”
Mời Bạn: Ơn Chúa dành cho bạn không đếm xuể, vậy đã có mấy lần bạn cảm tạ ơn Chúa và tin tưởng vào Ngài hơn? Trở lại, thờ phượng và cảm tạ Chúa là hành động của lòng biết ơn Chúa và của đức tin.
Sống Lời Chúa: Tham dự một thánh lễ trong tuần để cảm tạ Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con luôn biết ơn Chúa và dùng đời sống của con diễn tả lòng biết ơn. Xin đừng để con câm nín trước vô vàn ơn Chúa ban.

Sấp mình tạ ơn
Đôi khi người Kitô hữu chúng ta cũng thiếu thái độ tạ ơn khi cầu nguyện. Dường như chúng ta ít mãn nguyện với những ơn đã được tặng ban. Chúng ta chỉ buồn Chúa về những ơn xin mãi mà không được.


Suy nim:

Giáo dục cho trẻ em về lòng biết ơn là điều quan trọng.
Cha mẹ thường dạy con cám ơn người làm ơn cho mình.
Cám ơn là đi từ món quà đến người trao tặng.
Mỗi người chúng ta đã nhận biết bao quà tặng trong đời,
nên chẳng ai là người trọn vẹn nếu không có lòng biết ơn.
Bản thân tôi là một quà tặng do nhiều người cho :
cha mẹ, ông bà tổ tiên, các anh hùng dân tộc…
Chỉ cần để  lòng biết ơn đi lên mãi, lên tới nguồn,
tôi sẽ gặp được Thiên Chúa như Người Tặng Quà viết hoa.

Đức Giêsu đã làm bao điều tốt đẹp cho người thời của Ngài.
Nhưng ít khi Tân Ước nói đến chuyện họ cám ơn,
mà Đức Giêsu cũng chẳng bao giờ đòi ai cám ơn mình sau phép lạ.
Bởi đó bài Tin Mừng hôm nay thật độc đáo.
Mười người phong ở với nhau trong một ngôi làng.
Họ biết tiếng của Đức Giêsu và biết cả tên của Ngài.
Họ vui mừng thấy Ngài vào làng, nhưng họ chỉ được phép đứng xa xa.
Tiếng kêu của họ vừa bi ai, vừa đầy hy vọng được chữa lành:
“Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi!” (c. 13).
Đức Giêsu đã chẳng chữa lành cho họ ngay lập tức,
như từng làm với một người phong khác trước đây (Lc 5, 12-16).
Dù họ chưa được sạch, Ngài đã bảo họ đi trình diện với các tư tế
để cho thấy là mình đã khỏi rồi.
Họ đã tin tưởng, vâng phục, ra đi, và được khỏi bệnh.

Chỉ có một người, khi thấy mình được khỏi, liền quay lại.
Anh ấy lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa, và sấp mình tạ ơn Đức Giêsu.
Đó là một người Samaria, thời đó bị coi như người nước ngoài (c. 18).
Anh được ơn lành bệnh, và hơn nữa anh có lòng biết ơn.
Tôn vinh Thiên Chúa thì làm ở nơi nào cũng được.
Nhưng anh muốn trở lại để gặp người Thiên Chúa dùng để thi ân cho mình.
Cám ơn, biết ơn, tạ ơn, là mở ra một tương quan riêng tư mới mẻ.
Người phong xứ Samaria không chỉ được chữa lành.
Anh còn có kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa và người thi ân là Thầy Giêsu.
Ơn này còn lớn hơn ơn được khỏi bệnh.

Đức Giêsu có vẻ trách móc khi hỏi ba câu hỏi liên tiếp (cc. 17-18).
Ngài ngạc nhiên vì không thấy chín người Do thái kia trở lại cám ơn.
Đôi khi người Kitô hữu chúng ta cũng thiếu thái độ tạ ơn khi cầu nguyện.
Dường như chúng ta ít mãn nguyện với những ơn đã được tặng ban.
Chúng ta chỉ buồn Chúa về những ơn xin mãi mà không được.
Nhận ra ơn Chúa ban cho đời mình và biết tri ân: đó là một ơn lớn.
Người có lòng biết ơn bao giờ cũng vui.
Họ hạnh phúc với những gì Chúa ban mỗi ngày, vào giây phút hiện tại.
Biết ơn là con đường đơn sơ dẫn đến kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa.
Khi tôi biết đời tôi là một quà tặng nhận được,
thì tôi sẽ sống nó như một quà tặng để trao đi.
Cầu nguyn:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.

Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG MƯỜI MỘT
Nguồn Tài Nguyên Cho Tương Lai
Quả là mối đe dọa khủng khiếp đang tiềm ẩn trong sự thay đổi kỹ thuật đã đánh thức lương tâm chúng ta, giúp chúng ta thấy cần phải khôn ngoan và cần phải nhớ lại những giá trị đạo đức của nền văn minh của mình. Chính sự tiến bộ khoa học đã đặt ra "vấn đề đạo đức" như là "vấn đề xã hội" mới của tương lai. Và đâu là câu trả lời?
Chúng ta phải bắt đầu bằng việc theo đuổi sự khôn ngoan. Vì sự khôn ngoan đích thực là tinh túy của lương tâm các dân tộc, nên vai trò của công chúng trong việc quyết định tương lai thế giới là một cái gì rất hiển nhiên. Chẳng hạn, hãy xem xét lãnh vực di truyền học đang ngày càng phát triển. Những nghiên cứu hiện nay cho thấy rằng con người có thể đạt được những thành tựu rất lớn. Những cũng có nhiều khả năng hủy hoại tàn khốc đối với loài người chúng ta. Các nhà khoa học và các chính quyền có trách nhiệm không thể tránh né việc tự hỏi mình những câu hỏi hệ trọng của triết học và thần học. Con người là ai? Định mệnh của con người là gì?
Trong khi theo đuổi sự khôn ngoan, nhiều người bắt đầu khám phá lại câu trả lời của chân lý Kitô giáo. Họ bắt đầu thấy rằng sự bảo đảm đích thực duy nhất cho nhân tính trong xã hội tương lai chính là sự tôn trọng đối với con người và đối với sự sống. Chúng ta đang về nguồn. Con người đang nhận ra rằng các giá trị dường như cũ kỹ trong quá khứ đang tỏ ra là những của gia bảo cần phải được trân trọng giữ gìn cho tương lai.
Và sự khôn ngoan này trong việc nhận biết con người và bản tính con người xuất phát từ chính lương tâm của các dân tộc trên trái đất. Sở dĩ tôi đi khắp nơi trên thế giới và gặp gỡ người ta thuộc mọi nền văn hóa và tôn giáo, đấy bởi vì tôi tin rằng Chúa Thánh Thần ươm trồng những mầm khôn ngoan trong lương tâm của mọi dân tộc. Đó là nguồn tài nguyên thực sự cho tương lai của thế giới chúng ta, một tương lai trong đó con người biết phục vụ cho con người.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 11-11
Thánh Martinô, giám mục
Kn 6, 1-11; Lc 17, 11-19

LỜI SUY NIỆM: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”
Qua câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành Mười người phung hủi, nhưng chỉ có một người ngoại giáo trở lại quỳ dưới chân Chúa tôn vinh Thiên Chúa. Điều này không phải là các biệt; bởi phần đông trong chúng ta cũng đang mắc phải chứng tật không biết cám ơn, ngay trong cuộc sống làm người và làm con cái của Chúa, mỗi khi lâm cơn nguy khốn, thì chạy đến với Chúa với Đức Mẹ, cầu khấng, xin lễ, xin làm Tuần Cửu Nhật; nhưng khi tai qua nạn khỏi, thì vắng mặt trong mọi Thánh Lễ, kinh nguyện chung và những sinh hoạt của cộng đoàn giáo xứ.
Lạy Chúa Giêsu. Phận làm người của chúng con lắm phen đã ngã quỵ, nhưng cho đến nay  còn được nguyên vẹn, hoàn toàn là do bởi lòng thương xót của Chúa, Chúa đã ban ơn, gìn giữ, nâng đỡ, giúp chúng con vượt thắng. Chúng con xin tạ ơn Chúa, và xin tiếp tục thương xót chúng con.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 11-11
Thánh MARTINÔ Thành Turinô
Giám Mục (khoảng 315 - 397)

Chúng ta biết được thánh Martinô nhờ Sulpicô Sêvêrê, thân hữu và nhà chép sử của Ngài. Nhiều phép lạ động trời ông kể lại tuy khó tin nhưng đầy sống động và xác tín khiến các phép lạ chỉ còn khó tin đối với những ai chối bỏ thế giới thiêng liêng. Một cách chính yếu chúng ta có thể tin vào Sulpiciê được.
Martinô sinh ra khoảng năm 315 ở Sabaria... miền Pannonia (hay là Hungaria) là con của một sĩ quan. Cha mẹ Ngài đều là lương dân, nhưng còn trẻ Ngài đã ghi tên làm dự tòng.
Lúc 15 tuổi, Martinô nhập ngũ và sớm được phái sang miền Gaule ngoại đạo (nước Pháp ngày nay). Các binh sĩ trong trại sống không gương mẫu gì, nhưng Martinô tin vào Chúa Kitô nên sống như một Kitô hữu. Ngài phân phát một phần tiền lương cho người nghèo và có những hành vi bác ái ít gặp thấy, chẳng hạn đảo ngược vai trò để đánh giày cho người hầu. Ơ cửa thành Amiens một ngày mùa đông, chàng hiệp sĩ sẽ trẻ gặp người ăn xin dường như trần truồng. Martinô nói: - Tôi chỉ có áo quần và khí giới.
Rồi rút kiếm ra, Ngài xẻ đi chiếc áo cho người ăn xin.
Câu chuyện kết thúc với giấc mơ trong đó Martinô thấy Chúa Kitô hiện ra mặc nửa chiếc áo và nói với các thiên thần. - Chính Martinô đã mặc cho Ta đây.
Sau đó ít lâu vào khoảng 20 tuổi, Martinô lãnh nhận phép rửa tội, nhưng vẫn phải miễn cưỡng ở lại trong quân đội hai năm sau khi quân rợ xâm lăng Gaule, Martinô xin cấp chỉ huy, có lẽ là Constantinô để được từ nhiệm: - Tôi là binh sĩ Chúa Kitô, thật sái phép nếu tôi phải phục vụ trong quân ngũ.
Bị coi là hèn nhát, Ngài bị giải pháp trong hành tiền quân tại chiến điạ. Tuy nhiên, quân rợ đã bao vậy nhưng không động binh. Martinô được giải ngũ có lẽ năm 339.
Danh tiếng của thánh Hilariô giám mục Poitier đã thu hút Martinô trở thành môn đệ của Ngài. Nhưng ao ước cho cha mẹ trở lại đạo, Martinô đã trở về sinh quán ở Pannonia. Khi qua núi Alple, Ngài bị bọn cướp vây bắt. Martinô đã nói với người sắp dùng búa giết Ngài:
- Một người Kiô hữu không sợ gì, nhưng chính anh lại phải sợ tất cả. Anh sẽ trả lời thế nào với Chúa khi anh phải trả lẽ cho đời sống đầy tội ác của anh ?
Ngài đã được tên cướp giải phóng và đưa hắn trở về với Chúa.
Tương truyền rằng: bên ngoài Milan, thánh Martinô gặp qui và satan tuyên cáo rằng: - Đi đâu mày cũng sẽ phải gặp tao. Đáp lại, thánh Martinô hứa hẹn với qủi một cuộc chiến cam go: - Cả hai bên đều phải giữ lời nhé.
Thánh Martinô được hạnh phúc thấy mẹ trở lại nhưng người cha không muốn nghe gì hết. Bị bắt bớ và bị người đồng hương đánh đòn, thánh Martinô đi Gaule. Nhưng Ngài biết rằng: thánh Hilariô đã bị những người theo Kitô bắt đi đày. Ngài rút vào một tu viện gần Milan, nhưng bị những người theo lạc giáo săn đuổi và chạy ẩn vào một hoang đảo gần Ghênes, sống bằng cây cỏ. Ngày kia, Ngài bị trúng độc và như sắp chết. Theo thói quen, Ngài chống lại bệnh tật bằng lời cầu nguyện và cơn bệnh biến mất, Ngài gặp lại thánh Hilariô trên đường lưu đày trở về và xây dựng ở Lihugné. Gần Poitiers một nơi ẩn tu mà chẳng bao lâu đã trở thành cộng đoàn của các nhà ẩn tu.
Ngài được chọn làm giám mục thành Tour vì danh tiếng và sự thánh thiện của Ngài. Nhưng để đưa được Ngài ra khỏi tu viện, người ta phải kiếm cớ là có bệnh nhân ở Tours cần được chữa khỏi. Thày dòng vội vã ra đi nhưng chĩ gặp và một số giám mục đến tấn phong cho Ngài ngày 4 tháng 7 năm 371. Trong khi đó những người quí phái và lãnh Chúa chống lại "một người ăn mặc bẩn thỉu và đầu tóc rối bù".
Vị tân giám mục vẫn giữ được chiếc áo len thô, ngai tòa Ngài là một chiếc ghế đẩu bằng gỗ. Càng nặng trách nhiệm Ngài càng cảm thấy cần hồi tâm. Ngài lập tu viện Marmoutiers với chủng viện và nhà trường. Các linh mục được đào tạo tại đó để nâng hàng giáo sĩ buông thả lên. Marmuotiers sắp sinh ra trường công lập đầu tiên là mẹ đại học Oparis.
Công cuộc truyền giáo của thánh Martinô mở rộng khác thường. Đời sống luân lý của dân quê thật khắc khổ. Có những Kitô hữu hợp nhau với lương dân để mừng kính thần Jupiter, tập hợp quanh những dòng nước, nhưng cây cổ thụ. Vị giám mục truyền giáo không dừng lại ở giáo phận Ngài, nhưng đi khắp nơi tìm kiếm các linh hồn. Ở mỗi sào huyệt của ngẫu tượng, Ngài dừng lại giảng dạy cải hóa thay thế đền miếu bằng một thánh đường, và đặt linh mục Marmoutiers dẫn dắt. Thế là một giáo xứ thành hình.
Thiên Chúa luôn giúp đỡ Ngài. Ở Ambroisé có một ngôi đền vĩ đại thờ thần Mars. Không ai dám nghĩ đến việc phá đổ. Martinô cầu nguyện suốt đêm. Hôm sau một cơn bão lớn nổi lên phá đổ ngẫu tượng. Một nhà thờ được dựng lên và thế là giáo xứ Ambroise được thành lập.
Trong một thị trấn nhỏ, vị tông đồ truyền chặt bỏ cây cổ thụ được thần thánh hóa. Những người thờ ngẫu tượng nói: - Nếu Thiên Chúa ông thờ quyên phép như ông nói, ông hãy nằm dưới chỗ cây đổ xuống, nếu ông thoát nạn, chúng tôi sẽ tin Thiên Chúa.
Martinô nhận lời, cây bị đốn lung lay ngã xuống... sắp nghiền nát Đức giám mục... nhưng Ngài bỉnh tĩnh làm dấu thánh giá và cây bỗng quay ngược về phía đối diện.
Ở Apris Ngài chữa lành một người cùi, ở Treves Ngài làm phép dầu để chữa lành một cô bé bất toại, trên đường về Ngài phục sinh đứa con duy nhất Chúa một phụ nữ và toàn dân hò vang niềm tin vào Thiên Chúa. Tới gần Vandome tái diễn phép lạ: sau bài giảng làm động lương tâm người nghe, một phụ nữ đưa tới cho Ngài một em bé đã chết, quỳ xuống cầu nguyện và trả đứa bé sống lại cho mẹ nó.
Đây là một giai thoại đẹp về chiếc áo thánh Martinô mặc, biến thành áo choàng sáng láng. Các Vua Chúa nhận lời thề của các chư hầu trên "chiếc áo choàng thánh Martinô này" và người ta có lẽ đã hay gọi nơi giữ áo choàng này là nguyện đường (tiếng Pháp là Capelle hay Chapelle). Aix, nơi Charlemanghe ở trẻ thành Aix-la-chapelle, và tên chapelle này lan rộng để chỉ mọi nơi người ta đến cầu nguyện.
Tới 80 tuổi, thánh Martinô vẫn truyền giáo không mệt mỏi. Ngài còn chuộc các tù nhân, tham dự các cộng đồng. Ngài chỉ nghỉ ngơi đôi chút nơi các tu sĩ của mình, ở Marmoutiers để lại ra đi bằng bất cứ phương tiện nào dùng được cho việc truyền giáo. Trong một sứ vụ cuối tại địa phận, khi thấy cái chết tới gần, thánh Martinô báo cho môn đệ biết, nhưng vẫn dâng lao lực của mình cho Chúa.
- "Lạy Chúa, nếu dân Chúa còn cần đến con, con không từ chối đau khổ và công việc nào, nguyện cho ý Chúa được thực hiện".
Nằm trên tro như Ngài muốn. Thân thể lên cơn sốt, Đức giám mục vẫn đưa tay ngước mắt lên trời. Các tu sĩ xin Ngài xuôi tay, Ngài nói: - "Các anh để tôi nhìn trời hơn là nhìn thế gian để hồn tôi theo đường ngay mà tới Chúa".
Quỉ dữ tấn công Ngài lần chót, người ta nghe tiếng người hấp hối nói: - "Đồ súc vật độc ác, mầy làm gì đó ? mầy không tìm được nơi tao điều gì đâu, đồ bị chúc dữ ! Chính lòng Abraham sẽ đón nhận tao".
Đó là những lời sau cùng trước khi Ngài chết vào ngày 8 tháng 11 năm 379. Ba ngày sau ngày được mai táng ở Tours. Ngài là vị thánh đầu tiên không phải là tử đạo hay lừng danh vì cuộc tử đạo. Mộ của Ngài ở Tours là thành trì vững chắc chống lại dân man di. Toàn dân Pháp và các vị thánh của nước này suốt nhiều thế kỷ vẫn hành hương để khấn cầu vị cải hóa Gaule che chở.
(daminhvn.net)


11 Tháng Mười Một
Xẻ Áo

Trong một ngày đông giá lạnh, Martinô, lúc ấy đang còn phục vụ trong quân ngũ và chưa lãnh nhận niềm tin Kitô, gặp một ông ăn mày nghèo khổ đến độ không có lấy một mảnh vải che thân, đang ngồi tựa lưng vào bức tường giơ bàn tay khẳng khiu van xin từng đồng xu nhỏ của những người qua lại. Không sẵn tiền trong túi và cũng không có lương thực để cho, Martinô nhanh nhẹn leo xuống ngựa, tuốt gươm cắt phân nửa áo choàng của mình và quàng lên tấm thân gầy guộc của người ăn xin đang run rẩy vì cái lạnh buốt xương. Kẻ qua đường đồng thanh cười nhạo cử chỉ khác lạ của người thanh niên.
Ðêm hôm đó, Martinô nằm mơ thấy chính Chua Giêsu bận nửa áo choàng mà chàng đã trao tặng cho người ăn mày và Chúa nói: "Martinô, tuy chưa lãnh nhận Phép Rửa Tội, đã đắp lên tôi chiếc áo này".
Ai trong chúng ta cũng biết câu chuyện truyền khẩu trên về hành động bác ái của thánh Martinô, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay.
Chào đời vào khoảng thế kỷ thứ 4 tại Sabaria, nay thuộc nước Hungari, năm 20 tuổi, Martinô được gửi theo học tại Italia. Tuy là người không theo đạo Kitô, nhưng vì sống giữa các sinh viên Công Giáo, nên chàng đã suy nghĩ nhiều khi nghe bạn bè nói đến Ðức Giêsu. Chàng nhất định tìm hiểu xem Giêsu là ai?
Nhưng chẳng bao lâu chàng bị động viên. Khoảng năm 350, rời khỏi quân ngũ, Martinô xin làm đồ đệ thánh Hilariô, giám mục thành Potiers. Nhận thấy Martinô là người đầy nhân đức và có học thức, giám mục Hilariô đã phong cho chàng các chức thánh.
Năm 350, bè rối Ariô bắt thánh Hilariô đem đi đày vì ngài chống lại họ. Martinô cũng bị giám mục thành Milan là người bệnh vực bè rối trục xuất khỏi giáo phận và sống trên một hòn đảo cùng với một linh mục khác. Sau khi thánh Hilariô được tha, Martinô trở lại Poachi và lập một dòng tu tại Luguygé. Năm 370, khi đến Cadet để hòa giải một bất bình giữa một số linh mục và tu sĩ, ngài đã ngã bệnh và từ trần tại đó.
Mỗi năm gần đến ngày lễ thánh Martinô thành Tôrinô, các trẻ em vùng nói tiếng Ðức cũng náo nức như các trẻ em Việt Nam nôn nao đếm từng ngày trước lễ Trung Thu. Vì đây cũng là ngày các em rước đèn đi đến khoảng sân rộng để xem diễn tuồng thánh Martinô, với những bài hát ca ngợi tình yêu thương cụ thể của chàng sĩ quan trẻ tuổi, với vở tuồng được trình diễn bằng người ngựa thật và nhất là với những quà bánh thơm ngon được trình bày bán chung quanh chỗ diễn tuồng.
Chủ đích của cuộc lễ này vẫn là khắc ghi đậm nét vào lòng các trẻ em mẫu gương "xẻ áo" của thánh Martinô để giúp các em hiểu rõ lời Chúa Giêsu tuyên bố trong ngày phán xét: "Ta bảo thật: mỗi lần anh chị em làm những điều ấy cho một kẻ hèn mọn trong anh em Ta, thì là làm cho chính Ta vậy".
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét