15/11/2015
Chúa Nhật
33 Quanh Năm Năm B
(phần I)
Bài Ðọc I: Ðn 12, 1-3
"Khi ấy dân ngươi sẽ được cứu thoát".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Khi ấy, tổng lãnh sứ thần Micae sẽ chỗi dậy can thiệp cho con
cái dân ngươi, đó sẽ là thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc
cho tới bây giờ. Trong thời kỳ ấy dân ngươi, hễ ai đã có ghi tên trong sách, sẽ
được cứu thoát.
Nhiều kẻ an giấc trong bụi đất sẽ chỗi dậy; có người sẽ được hưởng
phúc trường sinh, có kẻ phải tủi nhục muôn đời.
Những người thông minh sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những
kẻ khuyên dạy sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại
muôn ngàn đời.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 5 và 8. 9-10. 11
Ðáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa (c.
1).
Xướng: 1) Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính
Người nắm giữ vận mạng của con. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa
ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.
2) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến
xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong
âm phủ, cũng không để thánh nhân của Người thấy điều hư nát. - Ðáp.
3) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh: sự no đầy
hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! -
Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 10, 11-14. 18
"Người đã làm cho những kẻ được thánh hoá nên hoàn hảo đến
muôn đời".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Trong khi mọi tư tế hằng ngày đứng gần bàn thờ chu toàn chức vụ
mình và hiến dâng cũng ngần ấy của lễ nhiều lần, nhưng không bao giờ xoá được tội
lỗi, còn Người khi dâng xong của lễ duy nhất đền tội, đã ngự bên hữu Thiên Chúa
đến muôn đời, và từ đây, Người chờ đợi cho đến khi thù địch bị đặt làm bệ dưới
chân Người. Vì chưng, nhờ việc hiến dâng duy nhất mà Người đã làm cho những kẻ
được thánh hoá nên hoàn hảo đến muôn đời. Vậy nơi nào tội lỗi được thứ tha, thì
không còn việc dâng của lễ đền tội nữa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Kh 2, 10c
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ngươi hãy giữ lòng trung
thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống". -
Alleluia.
Phúc Âm: Mc 13, 24-32
"Người sẽ quy tụ những người được tuyển chọn từ khắp bốn
phương trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong những
ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các
ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy
giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh
quang. Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã
được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất.
Nhìn vào cây vả, các con hãy tìm hiểu dụ ngôn này. Khi nó đâm chồi nảy lộc, các
con biết rằng mùa hè gần đến. Cũng vậy, khi các con nhìn thấy tất cả những điều
đó xảy ra, thì các con hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi. Thầy bảo thật
các con: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xảy đến. Trời đất sẽ
qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi.
"Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù
các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết
thôi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Thời kỳ cuối cùng
Hai tuần lễ tới đây là những ngày cuối cùng của năm phụng vụ
này. Thế nên không có gì ngạc nhiên, khi thấy Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về
thời gian sau hết cũng gọi là cánh chung. Chúng ta thường nôm na gọi đó là thời
tận thế.
Ước gì từ nay chúng ta bỏ hết mọi suy đoán của loài người, mọi
điều thường được gọi là bí mật bà thánh này ông thánh kia, hoặc của nơi hành
hương này chỗ thánh điện khác, để chỉ giữ lấy Lời Chúa và các mạc khải của Người.
Khi ấy chúng ta sẽ thấy bình tĩnh hơn, sáng suốt hơn và sống chân thật hơn.
Chúng ta sẽ sống bằng đức tin của Hội Thánh, chứ không nghe những chuyện nhảm
nhí. Và chúng ta sẽ làm cho người khác kính trọng niềm tin của chúng ta hơn.
Vậy, phụng vụ hôm nay cho chúng ta biết những gì về cánh chung,
hay là tận thế? Bài tiên tri Daniel, bài Tin Mừng Marcô, bài thư Hipri, tuy không
bao gồm hết mọi lời trong Kinh Thánh về vấn đề, nhưng có thể nói đã nói lên hầu
hết. Chúng ta hãy lần lượt đọc lại.
1. Bài Sách Daniel
Daniel là một trong bốn sách tiên tri lớn, tức là dài, và là tác
phẩm khó. Người ta cứ tưởng nó giống như các sách Ysaia, Yêrêmia, Êzekiel, được
viết vào thời lưu đày Babylonia và về hoàn cảnh đó. Nhưng ngày nay người ta đã
thấy nó ra đời muộn hơn nhiều. Có lẽ nó được viết vào khoảng năm 164 trước kỷ
nguyên. Phần đầu tác giả nói đến những biến cố xảy ra ở Cận Ðộng và trong Dân
Chúa sau thời gian lưu đày. Một số người đã được hồi hương, cố gắng dựng lại
giang sơn tổ quốc cũ. Nhưng hết bị Batư cai trị, lại bị Hylạp thôn tính, Dân
Chúa gặp một cơn bắt đạo khủng khiếp dưới thời Antiôchô. Ðền thờ bị biến thành
nơi thờ thần dân ngoại. Truyền thống Dothái bị ngăn cấm. Nhiều người bị bắt. Tiếng
các Tử đạo vang lên tới Chúa.
Người mạc khải ý định của Người trong phần hai của sách Daniel.
Ðó là một viễn tượng đầy trông cậy. Nhưng đọc kỹ người ta dễ nhận ra ngay đó chỉ
là niềm tin rất cổ điển: sự dữ còn gia tăng... cho đến lúc chín mùi. Lúc ấy
Thiên Chúa sẽ can thiệp. Sứ thần của Người sẽ được sai đến giao tranh với thần
dữ, cứu vớt những người lành, phục hồi các thánh nhân.
Ðọc Daniel hôm nay nằm trong phần thứ hai này. Nhà tiên tri được
báo cho biết: đến thời cứu độ, Mikael vị tướng cả của Thiên Chúa sẽ được sai đến
biểu lộ sức mạnh của Người để gìn giữ con cái của Chúa. Vì lúc ấy sẽ là thời quẫn
bách, thời thử thách xưa nay chưa từng thấy xảy ra. Chỉ những kẻ nào đã được tiền
định mới thoát nguy. Họ đã có tên ghi trong cuốn sách hằng sống ở trên trời. Và
điều an ủi nhất cho Daniel và trả lời trực tiếp cho thắc mắc của dân Chúa thời
bấy giờ, là sẽ có sự sống lại. Người thánh sẽ được sống đời đời, bậc lãnh đạo
dân Chúa sẽ chói sáng; và kẻ truyền đạo, đưa người khác trở về đàng công chính,
sẽ như tinh sao muôn kiếp.
Với những lời lẽ này, Daniel đã an ủi Dân Chúa không ít. Họ đang
trong cơn bắt đạo, thấy máu của nhiều người lành chảy ra. Họ tự hỏi về định mệnh
của các thánh nhân; và đồng thời cũng nêu lên nghi vấn: có bõ công tiếp tục đi
trong đàng ngay chính để có ngày bị bắt và bị giết hay không? Daniel chẳng có lời
tiên tri nào nói với họ cả, theo nghĩa hứa hẹn cho người ta một tương lai sáng
sủa nào ở trần gian này hết. Ông tuyên xưng niềm tin "chính thống" và
cổ điển của mình: Thiên Chúa mới có tiếng nói cuối cùng; Người sẽ can thiệp,
lúc đó người lành được gìn giữ, còn kẻ dữ sẽ bị tiêu diệt. Rồi sẽ có sự sống lại
cho người thánh đã chết; còn kẻ dữ cứ tiếp tục bị trừng phạt.
Như vậy Daniel cũng đã có góp thêm một phần mới mẻ vào kho tàng
mạc khải. Trước ông, như trong Êzêkiel chẳng hạn, người ta đã được biết sẽ có sự
sống lại. Nhưng dường như đó chỉ là việc phục sinh phục hồi của dân đang bị
tiêu diệt và nghiền nát. Cánh đồng xương khô lấy lại gân cốt và da thịt để sống
lại trong Êzêkiel là một hình ảnh về cuộc phục hưng dân Chúa sau thời gian tiêu
điều, hơn là một phát biểu niềm tin về sự sống lại trong ngày sau hết.
Ở đây, Daniel rõ ràng nói đến sự sống lại không phải của hết thảy
mọi người, nhưng riêng chỉ có những người lành. Cũng như ông đã khẳng định khi
ngày của Chúa đến, chỉ những người thánh mới được gìn giữ, còn bao nhiêu kẻ dữ
sẽ bị tiêu diệt. Nói đúng ra theo Daniel, kẻ lành sẽ được sống muôn đời, còn kẻ
dữ sẽ phải chết. Trong ngày của Chúa, ai lành thánh sẽ không phải chết, và cho
dù đã chết, cũng sẽ sống lại; còn kẻ tội lỗi cho dù đang sống cũng sẽ chết, huống
nữa là khi những kẻ ấy đã chết rồi. Niềm tin của Daniel xác định công trạng của
mỗi người, nhưng chưa nghĩ đến sự xác thịt sống lại như chúng ta đọc trong kinh
Tin Kính. Ông cũng đã chú ý riêng đến những người có công với dân và so sánh
vinh quang bất diệt của họ sau này như những tinh sao muôn đời muôn kiếp.
Ý kiến của Daniel nhất định đã thổi một luồng gió tin tưởng mạnh
mẽ vào trong tâm hồn nhiều người. Họ sẽ cương quyết trung thành với đức tin hơn
và hoàn toàn phó thác định mệnh cuối cùng của mình trong tay Chúa. Sách của ông
được các thế hệ sau dùng rất nhiều, như bài Tin Mừng hôm nay sẽ cho chúng ta thấy;
nhưng chẳng ai có thể lợi dụng tư tưởng của ông để thêu dệt những chuyện nhảm
nhí về thời cánh chung.
2. Bài Tin Mừng Ðức Yêsu
Trong đoạn sách Marcô hôm nay, cũng nói với chúng ta về thời kỳ
cuối cùng này. Dường như Người đề cập tới sau khi nói về thời Yêrusalem bị tàn
phá. Chúng ta biết hôm các môn đồ trỏ cho Người thấy cảnh huy hoàng của Ðền thờ.
Mà rực rỡ thật khi thánh điện Yêrusalem được ánh mặt trời chiếu vào! Nhưng cảnh
ấy có ngày sẽ không còn nữa và sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào của
Ðền thờ hiện nay, vì Yêrusalem không biết đón nhận ngày Thiên Chúa đến viếng
thăm mình.
Ðức Yêsu đã nhìn thấy trước ngày tàn phá đó. Người dùng những
hình ảnh về thời kỳ chiến tranh, cũng như các công thức về thời cánh chung
trong các sách tiên tri, để mô tả cảnh tàn phá của Yêrusalem. Rồi từ đó, Người
nói sang thời kỳ cùng tận.
Nhưng lời của Người lại được các tác giả thánh diễn lại sau khi
đã được chứng kiến ngày Ðền thờ sụp đổ và đã từng sống những ngày thánh Hội
Thánh bị bắt bớ vì danh Chúa. Do đó, bài sách Marcô hôm nay chẳng hạn, thu góp
tất cả mọi nhân tố trên làm cho việc đọc trở nên phức tạp và khó hiểu. Ở đây
chúng ta chỉ nói đến những tư tưởng trong bài đọc hôm nay.
Trước hết có những câu nói về sự suy sụp thay đổi trong trời đất:
mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống và các thiên thể lay
chuyển. Có lẽ chính ý tưởng cuối cùng này lại phải để ý đến trước hết. Là vì
theo các tác giả thánh, mỗi khi có hiển linh là trời đất rung chuyển. Vậy hiện
tượng các thiên thể lay chuyển là điềm báo Chúa đến, là dấu hiệu của ngày cuối
cùng. Còn việc mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống, chẳng
qua muốn nói rằng vũ trụ này sẽ qua đi và biến mất. Tất cả như lại trở về lúc
khởi nguyên, lúc còn hỗn mang và chưa có ánh sáng gì cả. Và như thế, với nhiều
hình ảnh mượn lại trong các sách tiên tri, ở đây thời sau hết được xác định như
là thời thay đổi vũ trụ này, để rồi sẽ có một cảnh mới với trời mới và đất mới.
Và người ta không phải chờ lâu. Sách Marcô đã viết ngay: bấy giờ người ta sẽ thấy
Con Người đến trong mây... Rõ ràng tác giả mượn lại chương 7 sách Daniel, câu
13. Nhưng ông đã đem vào một nội dung mới.
Trong tiên tri Daniel, Con Người chỉ đến sau, khi triều đình
thiên quốc đã bày biện xong. Thiên Chúa đã ngự trên ngai rồi, thì bấy giờ Con
Người mới tiến lại. Người là ai? Theo Daniel đó là dân thánh của Thiên Chúa đến
lãnh phần thưởng đời đời của mình. Về sau nhiều người đã đồng hóa Người với Ðấng
Cứu thế Con Một Thiên Chúa. Ở đây, trong sách Marcô, Người là chính Ðức Yêsu
Kitô Cứu thế.
Như vậy, "ngày của Chúa" không còn phải là ngày của
Thiên Chúa nữa sao? Vì ở đây, người ta không thấy Thiên Chúa hiện đến, mà chỉ
có Ðức Yêsu được mệnh danh là Con Người. Thật ra, khi nói Người đến trong mây,
tác giả không có ý tưởng trong mây như là xa giá đưa Con Người đến. Nhưng cùng
với công thức viết sau nói rằng: Người đến trong quyền năng cao cả và vinh
quang, hình ảnh mây trời ở đây chỉ có ý nhấn mạnh đến tính cách "hiển
linh" của việc Người đến. Và như vậy Con Người sẽ đến với Thần Tính và như
là "Thiên Chúa bởi Thiên Chúa" khiến "ngày của Chúa" bây giờ
trở thành "ngày của Thiên Chúa đến trong Con Người và nhờ Con Người".
Rồi khác với nhiều tác giả, thánh Marcô không nhắc đến việc phán
xét và trừng phạt kẻ dữ. Người chỉ mô tả diện tích cực của ngày Chúa đến. Người
sai các Thiên Thần đi khắp cùng mặt đất thâu họp những kẻ được chọn lại, dĩ
nhiên là để đưa họ vào vinh quang của Người.
Và như vậy cái nhìn của Marcô về cánh chung rất bình an và đẹp đẽ.
Nó đem tin tưởng lại cho lòng người ngay và tạo nên một cảm giác hạnh phúc.
Nhưng khi nào điều ấy xảy ra? Ðó là thắc mắc của mọi thế hệ loài
người. Theo thánh Marcô, thì Ðức Yêsu trỏ tay bảo các môn đệ cứ xem cảnh vật
thiên nhiên. Cây vả khi trổ lá thì báo tin mùa hè sắp đến sao? Cũng vậy, khi
các điều kia xảy ra, thì phải biết Con Người đã gần bên cửa.
Trước hết, Người đã khéo léo gợi đến danh từ mùa hè. Ðó là mùa gặt
hái. Và hình ảnh mùa gặt hái vẫn được Kinh Thánh dùng để nói đến thời cánh
chung và chung thẩm. Còn khi Người nói "các điều kia" thì phải hiểu
như thế nào?
Trên đây, Người đã nói đến việc Ðền thờ bị phá, chiến tranh nổi
lên, Kitô giả xuất hiện, niềm tin trở nên lạnh lẽo... và các tầng trời bị lay
chuyển v.v... Do đó mỗi khi thấy các điều trên xảy ra, người ta đã tưởng tận thế
đến rồi. Hơn nữa sau đó, Ðức Yêsu còn nói: "Thế hệ này sẽ không qua đi cho
đến khi mọi điều ấy xảy đến". Người ta càng tin những ngày tận cùng không
còn xa�
Nhưng có lẽ người ta không để ý đủ đến lời cuối cùng của Người:
"Về ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được... cả Con Người nữa, trừ
phi là Chúa Cha".
Dĩ nhiên có vấn đề: có phải chính Ðức Yêsu đã nói tất cả những
điều trên đây không và trong cùng một văn mạch không? Hay đó là những lời nói ở
những hoàn cảnh khác nhau và đã được xếp gần lại để diễn tả ý kiến về một vấn đề?
Nếu thế thì ở đây chúng ta có thể thấy tác giả vừa muốn khẳng định thời kỳ cánh
chung đã gần, vừa không gần vì hiện nay đã có những dấu hiệu như cảnh chiến
tranh tàn phá, lòng tin ra nguội lạnh, nhiều sự dữ lộng hành, nhiều người lành
khổ sở... nhưng chưa chắc đã là điềm báo cuối cùng, vì dù sao cũng chẳng ai biết
được giờ nào, ngày nào, vì đó là bí mật Chúa Cha không muốn tiết lộ cho ai...
Vì thế thái độ chân thực là luôn luôn phải sẵn sàng và tỉnh thức.
Thánh Marcô đã kết luận như vậy. Và chúng ta, không nên thêm gì
vào ý kiến của người. Chúng ta chỉ cần nhớ: vũ trụ này sẽ được biến đổi khi Con
Người đến trong vinh quang. Người sẽ tập họp các kẻ được chọn lại. Người không
muốn cho ai biết ngày nào giờ nào. Nhưng Người mong muốn ai nấy cũng hãy sẵn
sàng và bền vững cho đến cùng.
Bài thư Hipri có thêm gì cho chúng ta không?
3. Ðức Kitô Ðang Chờ Ðợi
Tác giả còn so sánh vị Thượng tế đạo mới với các tư tế đạo cũ.
Những người này, như người ta thấy hằng ngày vẫn đứng nơi bàn thờ để dâng những
của lễ không hoàn toàn. Họ tỏ ra rộn ràng; vì thế "đứng" là cung cách
làm việc vất vả. Và công việc của họ không kết quả vì cứ phải làm mãi, không
xóa bỏ được tội lỗi là điều họ mong muốn.
Trong khi đó, Ðức Kitô chỉ dâng lễ một lần trong mầu nhiệm Vượt
qua, và đã lên ngồi ngự bên hữu Thiên Chúa. Chứng tỏ lễ dâng của Người đã hoàn
toàn và tẩy xóa được tội lỗi. Người không còn vất vả nữa và chỉ còn ngồi chờ đợi
mọi người hàng phục để kết nạp họ vào sự thánh thiện của Người.
Tác giả không suy đoán. Thánh Kinh cũng nói rõ như vậy vì trong
Thánh vịnh 110, Thiên Chúa đã đặt vị Kitô của Người làm Vua và làm Thượng tế
theo kiểu Melkisedek, đợi ngày quân thù của Người quy phục dưới chân. Chúng ta
chẳng nên hiểu quân thù nói đây là ai khác những sức mạnh tội lỗi mà Người đang
muốn dẹp bỏ ở nơi mỗi người để tất cả chỉ còn ở trong sự thánh thiện của Người.
Như vậy, lời thư Hipri có thể bổ túc cho những điều chúng ta đa
biết về thời cánh chung qua các bài sách Daniel và Tin Mừng theo thánh Marcô.
Thời sau hết thực ra đã khởi sự từ khi Ðức Yêsu tiến vào cung lòng Thiên Chúa.
Sức mạnh của Thiên Chúa đã biểu lộ nơi sự phục sinh của Người. Ơn Thánh Thần mà
Người gửi xuống cho môn đệ không thực tế hơn hình ảnh Ðức Mikael đến bảo vệ những
người được Chúa chọn sao? Các người thánh đang được thâu họp lại từ khắp mặt đất
để được tham dự vào sự thánh thiện của thân thể mầu nhiệm Ðức Kitô. Họ được lấy
ra từ bao thử thách và gian khổ, khỏi những sự mê hoặc của các Kitô giả khác.
Và cùng với Ðức Kitô, họ đang chờ đợi ngày Nước Cha trị đến... Và như vậy quả
thực thời cánh chung đã đến và chưa đến. Thế hệ nào cũng sẽ không qua đi trước
khi những điều này xảy tới, kể cả thế hệ chúng ta.
Mầu nhiệm cánh chung giờ đây không những cũng được chúng ta
tuyên xưng trong bản kinh Tin Kính. Nhất là nó sẽ được nổi lên trong mầu nhiệm
Thánh Thể, trong đó chúng ta tuyên xưng Ðức Yêsu đã chết và đã sống lại để rồi
sẽ lại đến. Và trong khi chờ Người đến trong vinh quang, chúng ta tin Người
đang đến trong Thánh Thể để thâu nạp chúng ta vào sự thánh thiện của Người. Một
cảnh sống mới, làm ra một trời mới và một đất mới, tức là xây dựng một quê
hương mới và một dân tộc mới, có theo sau thánh lễ này hay không? Ðiều đó còn
tùy ở cố gắng của chúng ta hết thảy.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lễ Thánh Anrê
Trần An Dũng Lạc,
và các bạn Tử
Ðạo
(Lễ Các Thánh
Tử Ðạo Việt Nam)
LễTrọng
Bài Ðọc I: Kn 3, 1-9
"Chúa chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu".
Trích sách Khôn Ngoan.
Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự
chết không làm gì được các ngài. Ðối với con mắt của người không hiểu biết, thì
hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi
tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu
các ngài có chịu khổ hình, lòng trông cậy của các ngài cũng không chết. Sau một
giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao; vì Chúa đã thử thách
các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.
Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ
sáng chói và chiếu toả ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét sử các
dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài
muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung
thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người
Chúa chọn.
Ðó là Lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng
rỡ hân hoan (c. 3).
Xướng: 1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi
dường như Người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt
lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: "Chúa đã đối xử
với họ cách đại lượng". Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng
tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở
miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. - Ðáp.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về
hân hoan, vai mang những bó lúa. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 1, 17-25
"Vì tiếng nói của Thập Giá là sức mạnh của Thiên Chúa ban
cho chúng ta".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, Ðức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là rao giảng
Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo Thập giá của Ðức Kitô ra hư
không.
Vì chưng lời rao giảng về Thập giá là sự điên rồ đối với những kẻ
hư mất; nhưng đối với những người được cứu độ là chúng ta, thì điều đó là sức mạnh
của Thiên Chúa. Vì như đã chép rằng: "Ta sẽ phá huỷ sự khôn ngoan của những
kẻ khôn ngoan, sẽ chê bỏ sự thông thái của những người thông sáng. Người khôn
ngoan ở đâu? Người trí thức ở đâu? Người lý sự đời này ở đâu?" Nào Thiên
Chúa chẳng làm cho sự khôn ngoan của đời này hoá ra điên rồ đó sao? Vì thế gian
tự phụ là khôn, không theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà nhận biết Thiên
Chúa, thì Thiên Chúa đã muốn dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu độ những
kẻ tin. Vì chưng, các người Do-thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp
tìm kiếm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng
đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với
các người ngoại giáo. Nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do-thái hay
Hy-lạp, thì Ngài là Chúa Kitô, quyền năng của Thiên Chúa, và sự khôn ngoan của
Thiên Chúa, vì sự điên dại của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài
người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sức mạnh của loài người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: 1 Pr 4, 14
Alleluia, alleluia! - Nếu anh em bị sỉ nhục vì danh Chúa Kitô,
thì phúc cho anh em, vì Thánh Thần Chúa sẽ ngự trên anh em. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10, 17-22
"Các
con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và
cho dân ngoại biết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con hãy
coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con
nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy,
để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các
con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì. Vì trong giờ ấy sẽ
cho các con biết phải nói gì: vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là
Thánh Thần của Cha các con nói trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con,
con cái sẽ chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con
sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm : Cảm Mến Công Ơn Của Các Anh
Hùng Tử Ðạo
Ngày lễ Các Thánh Tử Ðạo Việt Nam là dịp để chúng ta ca tụng
Thiên Chúa đã làm những việc vĩ đại trên Quê hương Ðất nước và nơi Dân tộc anh
hùng chúng ta. Chúng ta chiêm ngưỡng lại khuôn mặt đẹp đẽ và ý chí quật cường của
bao bậc tiền bối. Chúng ta học để quý mến sự sống mà chúng ta đang mạng trong
mình và do các ngài để lại. Và chúng ta sẽ cố gắng phát huy cơ nghiệp mà tiền
nhân đã hy sinh mạng sống để giữ lại cho chúng ta.
A. Cảm Mến Công Ơn Của Các Anh Hùng Tử Ðạo
Bài sách Macabê thuật lại câu truyện tử đạo của một gia đình 7 mẹ
con ở thời Cựu Ước. Ðó là một gia đình không tên không tuổi; và vì thế được phụng
vụ coi như là tiêu biểu cho bao bậc tử đạo vô danh. Chúng ta có thể tựa vào câu
truyện ấy để nhắc tới những bậc tử đạo quá nhiều trên Ðất nước chúng ta.
Thực vậy, Hội Thánh Việt Nam có nhiều tử đạo bậc nhất thế giới:
xét cả về tổng số, cả về tỷ số... Người ta đã nói tới con số 300,000 tử đạo ở
Việt Nam. Ðược mấy Giáo hội có nhiều tử đạo như vậy! Và con số 300,000 kia ở thời
bấy giờ, chắc phải chiếm tới 3, 4 phần trăm tổng số tín hữu. Chúng ta rùng mình
khi nghĩ đến điều ấy. Nhưng thật như lời người ta nói: máu tử đạo làm nảy sinh
kẻ có đạo. Chính Ðức Yêsu cũng đã dạy trong Phúc Âm: hạt thóc có rơi xuống đất,
thối đi thì mới mọc lên cây, đem lại mùa màng phong phú. Chúng ta ngày nay có đời
sống đạo, là nhờ có đông đảo tiền nhân đã cương quyết giữ vững niềm tin cho đến
cùng� Chắc chắn có nhiều bậc phụ
huynh ngồi đây, nhiều gia đình Công giáo ở bên cạnh chúng ta có thể tính lên đời
thứ ba thứ tư và gặp thấy một hay nhiều tử đạo trong gia tộc của mình. Ít nhất
ai cũng nói được rằng tổ tiên của mình đã phải giữ đạo một cách rất vất vả. Và
tất cả chúng ta đều là con cháu các tử đạo theo cả hai nghĩa thiêng liêng và
xác thịt.
Ðiều đó chắc chắn không cần phải nói thêm. Nhưng phải nói lên điều
này, là: 300,000 tử đạo kia là một đoàn thể đông đảo đủ mọi màu sắc, khác nào một
cánh đồng bát ngát đủ mọi sắc hương. Giám mục, linh mục và tu sĩ nam nữ có;
nhưng số giáo dân đông hơn nhiều. Và già có, trẻ có; thanh niên, phụ nữ, nhi đồng
cũng có: không thiếu một hạng người nào. Ðặc biệt hơn nữa là rất nhiều người đã
tử đạo trong y phục lý trưởng cũng như quân nhân. Họ là những người dân tốt, phục
tùng Nhà nước, làm việc tận tâm, được lòng quan chức nêu gương cho mọi người.
Tổng đốc Trịnh Quang Khanh là viên chức có lẽ đã giết rất nhiều
tín hữu ở miền Bắc. Thế mà dưới quyền ông vẫn có nhiều người lính có đạo. Và những
người này nhiều khi lại gương mẫu và xuất sắc. Ông quý mến họ và ra sức dụ dỗ họ
bỏ đạo... Ông không hiểu rằng chính đức tin họ đang giữ là động lực cho đời sống
công dân tốt lành kia. Thấy họ cương quyết trung thành với tín ngưỡng đang khi
vẫn nhiệt tình với chức năng, ông tìm cách bao che cho họ. Nhưng họ không chịu.
Ông Huy, ông Thể, ông Hiếu và nhiều người khác dưới quyền Trịnh Quang Khanh đã
ra xưng đạo, trước sự khâm phục và xót thương của bao nhiêu chiến sĩ, không
cùng một quan điểm tôn giáo nhưng không thể không cảm mến những người chiến hữu
và đồng bào giá trị như vậy.
Chúng ta không thể kể hết ở đây về đời sống gia đình, xã hội của
các Tử đạo Việt Nam. Chúng ta thường chỉ biết các ngài tử đạo nghĩa là chịu chết
vì đạo. Cùng lắm chúng ta chỉ hay nghĩ tới lòng can đảm, chí chịu đựng của các
ngài khi bị tra tấn, hành hạ. Nhưng chúng ta cần phải biết: Tử đạo là ơn rất lớn.
Nó đưa thẳng người ta về thiên quốc và lên bàn thờ các thánh ngay ở đời này. Một
ơn như vậy không dành cho bất cứ một người nào đâu, nhưng chỉ dành để cho những
phần tử ưu tú được Chúa lựa chọn. Ở thời các tử đạo, rất nhiều tín hữu đã bị bắt.
Có những người đã chối Chúa. Vì họ không mến đủ! Và sở dĩ như vậy vì như lời
thánh Yoan nói: người ta không mến Chúa vô hình khi không yêu mến Người nơi anh
em hữu hình. Các tử đạo, dù ở chức năng nào, trước khi tuyên chứng lần cuối
cùng về lòng yêu mến Ðấng vô hình, cũng đã trải qua nhiều thử thách trong đời sống
phục vụ tha nhân. Chúng ta cứ đọc lại mà xem! Hết mọi hạnh thánh tử đạo Việt
Nam đều kể rằng trước khi ra pháp trường hay chịu chết trong ngục để xưng đạo,
các ngài đã là những người mẹ, người cha chu toàn phận sự gia đình; những người
chồng người vợ thi hành tốt mọi phận sự công dân; những người con hiếu thảo và
những người lính dũng cảm; những y sĩ và lý trưởng được đồng bào quý mến việc
phục vụ. Bởi vì không ai có thể trở thành công dân Nước Trời sau này, nếu đã
không là những công dân tốt trên mặt đất.
Ngay cái chết của các tử đạo Việt Nam cũng khiến chúng ta phải
suy nghĩ về khía cạnh vừa nói. Anh em Macabê được tử đạo trong một hoàn cảnh
đơn giản hơn. Họ là những người Israel bị ngoại xâm Batư bắt phải bỏ đạo của tổ
tiên. Trong một cái chết họ đã tỏ ra trung thành với Thiên Chúa và Tổ Quốc. Trường
hợp các tử đạo Việt Nam éo le hơn. Những người bắt các ngài bỏ đạo lại là vua
quan "phụ mẫu chi dân". Thế nên các ngài không có một lời nào xúc phạm
đối với các quan tòa. Và cho đến lúc chết các ngài vẫn chứng tỏ đã chu toàn tốt
đẹp mọi nghĩa vụ xã hội. Các ngài đã chết trong tình mến Chúa yêu người và
thương nhà thương Nước. Các ngài đã hy sinh mạng sống cho đức tin và chân lý ở
trên giải đất này... Cho nên Giáo hội toàn cầu chỉ biết các ngài là tử đạo của
Việt Nam.
Do đó khi mừng lễ các ngài, chúng ta phải biết để ý đến nét Việt
Nam nơi các ngài. Chúng ta phải soi gương các ngài chu toàn các nhiệm vụ xã hội
một cách thánh thiện. Và cho được như vậy chúng ta phải tìm hiểu động lực bên
trong thúc đẩy đời sống của các ngài.
Bài thư Phaolô có thể giúp chúng ta làm công việc này.
B. Ði Theo Ðường Lối Của Các Tử Ðạo
Quả thật các Tử đạo Việt Nam có thể mượn những lời thư Phaolô
hôm nay để nói với chúng ta. Một đàng các ngài không giấu giếm sự thật. Bí quyết
khiến các ngài có thể vượt thắng trăm ngàn thử thách là chính sự sống và sự sống
lại của Chúa Yêsu trong thân xác yếu hèn của các ngài. Các ngài nói: chúng tôi
chứa đựng những kho tàng ấy trong những bình sành để biết rằng quyền lực vô
song ấy là của Thiên Chúa chứ không phải phát xuất tự chúng tôi. Các ngài chịu
khổ cực tư bề nhưng không bị đè bẹp, bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi... bởi vì
sự sống của Ðức Kitô tỏ hiện nơi thân xác của các ngài. Chính Ðức Kitô trong
bài Tin Mừng cũng đã nói không phải các tử đạo ở trước tòa nhưng là Thánh Thần
nói trong các ngài.
Và để có Thánh Thần và sự sống của Ðức Kitô ở trong mình như vậy,
các tử đạo đã phải hư vô hóa mình, tức là chết cho bản thân, không sống theo
xác thịt tự nhiên nữa, nhưng theo Thần trí của Ðức Kitô, tức là đường lối của
Người. Hết mọi tử đạo đều đã chết cho đức tin và vì đức tin; nhưng đức tin ở
đây không phải là một hệ thống tư tưởng vũ trụ nhân sinh quan mà là đức tin sống
động, tin Thiên Chúa và tin Ðức Yêsu Kitô đã yêu thương mình cho đến chết. Ðó
là đức tin đầy lòng mến và đầy lòng trông cậy, chắc chắn rằng nếu cùng chết với
Ðức Kitô và vì Ðức Kitô thì sẽ được sống lại với Ngài và được đồng thừa tự với
Ngài. Thế nên, các tử đạo là những người đầy Chúa Yêsu sau khi đã tát cạn bản
ngã và các khuynh hướng xấu xa ở nơi mình.
Và cũng chính nhờ đó mà đàng khác, các vị tử đạo trước khi hy
sinh mạng sống mình vì Chúa, đã có một đời sống xã hội đáng khâm phục. Ðiều này
cũng rất dễ hiểu! Lời thư Phaolô viết: sự chết hoành hành nơi chúng tôi còn sự
sống hoạt động nơi anh em. Các tử đạo cũng có thể nói: chúng tôi đã chết cho bản
thân để sự sống tăng trưởng nơi anh em. Thật vậy, con người đã chết đi cho
chính mình, thì sống cho Chúa. Nhưng đối với họ, Thiên Chúa không phải chỉ là Ðấng
Vô hình, mà hơn nữa còn là Ðấng đang hiện diện trong Hội Thánh và trong anh em.
Mọi hành vi làm cho người anh em nhỏ mọn nhất là làm cho Chúa. Thành ra các đấng
thánh là những người nhìn thấy Thiên Chúa ngay ở đời này và cụ thể trên mặt đất
này nơi Hội Thánh và nơi anh em. Và vì họ không còn sống cho chính bản thân và
vì bản thân nữa, nên mọi phục vụ của họ chỉ còn quy vào một đối tượng. Ðó là
Thiên Chúa nơi tha nhân... Ðó là tha nhân trong cái nhìn của đức tin và lòng mến.
Các tử đạo làm tốt các nhiệm vụ xã hội là vì thế. Và mọi người thật có lý để
nghi ngờ những kẻ đã phản bội đức tin của mình.
Như thế, nếu hôm nay mừng lễ các Tử đạo Việt Nam, chúng ta phải để
ý đến nét Việt Nam nơi các ngài, tức là phải soi gương các ngài trong đời sống
xã hội phục vụ anh em đồng bào, thì chúng ta � người có đức tin �
phải luôn duy trì và phát triển động lực thúc đẩy đời sống xã hội kia tức là
Thánh Thần và Ðức Kitô ở trong mình. Và cho được như vậy, chúng ta phải mang sự
chết của Ngài trong thân xác, là biết chết cho bản thân và các khuynh hướng vị
kỷ. Phải làm như vậy mới đi vào được đường lối của các tử đạo và mới có thể
theo các ngài cho đến cùng. Bởi vì muốn nên giống các ngài hoàn toàn, chúng ta
không những phải biết sống như các ngài mà còn phải biết chết như các ngài. Mà
muốn chết như các ngài, chúng ta phải sống đạo như trên mà vẫn không quên Lời
Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay.
C. Tin Tưởng Như Các Tử Ðạo
Chúa nhắc nhở chúng ta biết số phận thông thường của các môn đệ
Người: "Người ta sẽ bắt bớ các con". Và trong sách Tin Mừng Yoan, Người
còn nói rõ hơn: đó là điều thật dễ hiểu, vì tôi tớ không trọng hơn Thầy. Có lạ
chăng là việc thế gian yêu các con chứ các con có thuộc về thế gian nữa đâu mà
thế gian quý mến các con! Và lịch sử làm chứng Hội Thánh của Ðức Yêsu, Hội
Thánh tiếp nối sứ mạng cứu thế của Người, luôn luôn có các tử đạo, không ở nơi
này thì ở nơi khác, không dưới hình thức này thì dưới hình thức khác. Ðó là mầu
nhiệm, nhưng là mầu nhiệm tương đối dễ hiểu.
Sứ mệnh của Ðức Yêsu cũng như của Hội Thánh Người là sứ mệnh
tuyên chứng. Tuyên chứng về chân lý, về những chân lý siêu phàm; thế mà chân lý
thì như ánh sáng và thế gian đã bị tối tăm bao phủ nên luôn luôn muốn vùi dập
ánh sáng. Và cũng đồng thời tuyên chứng về tình yêu, tình yêu của Thiên Chúa
yêu thương loài người và chẳng tình yêu nào lớn bằng tình yêu nơi người hy sinh
mạng sống vì người mình muốn yêu.
Thế nên chính khi chịu chết vì đạo, người tín hữu trở thành chứng
tá hoàn toàn hơn cả. Cái chết của họ vừa nói lên niềm tin chắc chắn, vừa nói
lên tình mến tận cùng. Chỉ những kẻ có niềm tin yếu ớt mới sợ tử đạo. Nhưng nếu
chúng ta yếu thì đã có Chúa ban Thánh Thần của Người đến nâng đỡ sự yếu đuối nơi
chúng ta. Và việc này tùy ở chúng ta trong lúc bình thường có cầu xin và sống đạo
để nhận được nhiều Thánh Thần hay không?
Giờ đây chúng ta cử hành thánh lễ. Chung quang bàn thờ này hiện
diện vô hình đoàn thể các tử đạo Việt Nam. Các ngài ước mong chúng ta dâng lễ
này sốt sắng và hiệu quả. Nếu chúng ta cầu xin và nhất là phó thác bản thân
trong tay Chúa thì Người sẽ ban sự sống của Chúa Yêsu và Thánh Thần của Người
cho chúng ta. Chính Thánh Thần sẽ là sức mạnh cải tạo cho chúng ta một nếp sống
mới để chúng ta dần dần sống bớt đi cho mình và nhiều hơn cho Chúa, tức là cho
Người ở trong anh em. Như vậy chúng ta sẽ có đời sống trần gian này tốt để
chúng ta cũng sẽ chết tốt như các tử đạo. Chúng ta sẽ tuyên xưng Chúa khi sống
và khi chết. Chúng ta sẽ khơi được lòng ngưỡng mộ của mọi người. Chúng ta sẽ xứng
đáng với tổ tiên đức tin của mình, những vị mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 33 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Dan 12:1-3; Heb 10:11-14,
18; Mk 13:24-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ngày Đức Kitô đến lần thứ
hai
Trong những ngày cuối năm, chúng ta được nghe Phụng Vụ Lời Chúa
nhắc nhở rất nhiều về Ngày Đức Kitô đến lần thứ hai để xét xử con người. Khi
nghe những báo trước về Ngày Tận Thế, con người có thể có ba thái độ: Thứ nhất,
có người tin Lời Chúa và bắt đầu chuẩn bị cho Ngày ấy tới như Thiên Chúa nói, bằng
cách khử trừ tội lỗi và luyện tập để sống thánh thiện. Thứ hai, có người cho là
Ngày ấy còn xa, cứ việc ăn chơi cho thỏa chí; khi nào Ngày ấy gần xảy ra sẽ ăn
năn cũng không muộn. Sau cùng, có những người cho đó là chuyện hoang đường bầy
ra để dọa nạt trẻ con. Đối với họ, chết là hết; bao lâu còn sống cần phải thụ
hưởng tối đa những gì thế gian dâng tặng.
Các Bài Đọc hôm nay nêu bật những báo hiệu về Ngày Tận Thế và những
gì con người cần làm để chuẩn bị cho Ngày ấy. Trong Bài Đọc I, tiên tri Daniel
báo hiệu đó là Ngày khốn khổ chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Ngày ấy, Tổng
Lãnh Thiên Thần Michael sẽ bảo vệ những người được Thiên Chúa chọn, và mọi người
sẽ sống dạy để chịu phán xét và lãnh nhận thưởng phạt tùy theo công việc họ làm
khi còn sống. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái nhắc nhở cho con người về
hiệu quả Hiến Lễ của Đức Kitô. Tuy chỉ xảy ra một lần, nhưng có sức mạnh tẩy trừ
mọi tội của con người, và làm cho con người được trở nên tinh tuyền thánh thiện
mỗi ngày một hơn. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng báo trước cho các môn đệ hai
điều: về những điềm trời xảy ra trước Ngày Tận Thế: các hành tinh của Thái
Dương Hệ sẽ thôi chiếu sáng và đêm tối sẽ bao trùm mặt đất; và ngày ấy chắc chắn
sẽ đến; nhưng không ai biết được ngày và giờ nào; vì thế, con người phải luôn
biết chuẩn bị.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có nhân loại cho đến
bây giờ.
1.1/ Những điều sẽ xảy ra khi Ngày Tận Thế đến: Sách tiên-tri Daniel được
viết rất lâu sau Thời Lưu Đày, khoảng 165 BC, sau cái chết của Antiochus IV
Epiphanes, người Hy-lạp. Đây là thời kỳ mà con cái Israel bị đe dọa bởi áp lực
quân sự và văn hóa Hy-lạp. Mục đích của Sách là để khuyến khích con cái Israel
đứng vững trước những tai tọa sắp xảy ra và trung thành với Lề Luật của Thiên
Chúa. Sách Maccabees và Khôn Ngoan cũng được viết trong thời kỳ này. Tuy nhiên,
như truyền thống của Giáo Hội tin tưởng, Sách có thể áp dụng cho thế hệ thời
tiên-tri Daniel, nhưng cũng có thể áp dụng cho những thời đại sau này. Trình
thuật của Marcô trong Phúc Âm và đặc biệt Sách Khải Huyền chịu ảnh hưởng thể
văn khải huyền của Sách Tiên-tri Daniel.
Tác giả liệt kê những điều sau đây sẽ xảy ra: Thứ nhất là sự xuất
hiện của Tổng Lãnh Thiên Thần Michael, người được Thiên Chúa sai đến để che chở
cho dân trong thời kỳ khốn khổ sau hết. Trong Sách Khải Huyền, TLTT Michael
cũng xuất hiện để chiến đấu chống lại con rồng, tượng trưng cho quyền lực của
Satan (x/c Rev 12:7). Thứ hai là thời kỳ khốn khổ chưa từng thấy, từ khi có các
dân cho đến bây giờ. Sau cùng, những ai có tên trong Cuốn Sách của Thiên Chúa sẽ
được thoát nạn. Truyền thống Do-thái tin tưởng Thiên Chúa có một Cuốn Sách ghi
tên tất cả những ai được Thiên Chúa coi là bạn hữu hay công chính (Cf. Exo
32:32-33, Psa 69:28). Sách Khải Huyền đề cập rất nhiều lần đến "Cuốn
Sách" hay "Sổ Trường Sinh," trong đó ghi tên tất cả những người sẽ
được cứu thoát (Rev 3:5, 13:8, 17:8, 20:12, 15; 22:7, 9, 10, 18, 19). Sách này
chỉ có Con Chiên, đã bị giết nhưng vẫn đang sống, mới có thẩm quyền để mở mà
thôi.
1.2/ Ai nấy sẽ chỗi dậy và phải chịu trách nhiệm về việc làm của
mình: Đây là lần
đầu tiên trong lịch sử Cựu Ước mặc khải về thân xác loài người sẽ sống lại. Trước
đó, truyền thống Do-thái tin hạnh phúc Thiên Chúa ban chỉ giới hạn ở đời này
qua việc sống lâu, có sức khỏe, đông con cháu, và của cải vật chất. Quan niệm về
thân xác sống lại cũng được đề cập đến trong các Sách viết vào thời gian này
như (x/c II Mac 7:9, 12:43 và Wis 2-5). Trong Tân Ước, Chúa Giêsu và các thánh
ký cắt nghĩa rõ ràng hơn về sự sống lại này (x/c Mk 12:18, Jn 11:23-24, Acts
7:59-60, I Thes 4:13, I Cor 15:12-20). Thân xác loài người sống lại là để chịu
phán xét và thưởng phạt.
(1) Người công chính sẽ được ban thưởng từ Thiên Chúa: Hai điều
Thiên Chúa ân thưởng cho những người trung thành là: hưởng phúc trường sinh
(x/c Jn 6:39-40) và các người khôn ngoan sẽ trở nên rực rỡ. Những ai giúp cho
người khác nên công chính cũng sẽ "chiếu sáng muôn đời như những vì
sao."
(2) Kẻ tội lỗi sẽ "chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời."
Tân Ước đề cập nhiều lần tới chốn tối tăm và lửa muôn đời không hề tắt. Sách Khải
Huyền cũng đề cập tới một Sách khác bên cạnh Sách Trường Sinh. Sách này ghi
chép các việc làm của kẻ dữ, và họ sẽ bị phán xét theo những điều ghi chép này
(Rev 20:12).
2/ Bài đọc II: Nơi nào đã có ơn tha tội, thì đâu cần lễ đền tội nữa.
Mục đích của tác giả trong trình thuật hôm nay là nêu bật hiệu
quả Hiến Lễ của Đức Kitô trong việc thanh tẩy tội lỗi và thánh hóa con người,
qua việc so sánh với hy lễ của các tư tế trong Cựu Ước.
2.1/ Hy lễ của các tư tế: "Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự
mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng
bao giờ xoá bỏ được tội lỗi." Hy lễ của các tư tế không thể so sánh với Hiến
Lễ của Đức Kitô vì chỉ có thể tha những tội nhẹ hay vô tình, và phải lặp đi lặp
lại mỗi khi con người phạm tội. Hy lễ để đền tội trong Đền Thờ của Cựu Ước chấm
dứt với Hiến Lễ của Chúa Giêsu trên đồi Golgotha. Một lý do nữa là sau khi Chúa
Giêsu chịu chết ít lâu, Đền Thờ Jerusalem cũng bị tiêu hủy bởi quân đội Rôma,
và không bao giờ được tái thiết nữa. Câu hỏi có thể được đặt ra cho người
Do-thái không tin Đức Kitô: làm sao tội họ có thể được tha thứ nếu không còn chỗ
để dâng hy lễ đền tội?
2.2/ Hiến lễ của Đức Kitô: "Còn Đức Kitô, sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho
nhân loại, Người đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời. Và từ khi đó, Người
chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân. Quả thật, Người chỉ dâng hiến
lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hoá được nên hoàn hảo.
Mà nơi nào đã có ơn tha tội, thì đâu cần lễ đền tội nữa."
Nhờ hiệu quả của Hiến Lễ của Chúa Giêsu trên đồi Golgotha, Ngài
lập ra Bí-tích Rửa Tội để tẩy sạch tội lỗi con người. Sau đó, nếu còn phạm tội,
con người có thể chạy đến với Bí-tích Giao Hòa để xưng thú và nhận ơn tha thứ.
Đây là món quà vô giá cho con người: Nếu Bí-tích Hòa Giải có sức mạnh tha mọi tội,
ngay cả tội trọng cho con người; tại sao con người không biết lợi dụng khử trừ
tội lỗi, để không phải trả lời Thiên Chúa trong Ngày Phán Xét? Người xưa phải
mua lễ hy sinh để đền tội và phải hành hương lên Đền Thờ Jerusalem, chúng ta
ngày nay chỉ cần một bước vào Tòa Cáo Giải của giáo-xứ để xưng tội là được
Thiên Chúa xóa sạch mọi tội.
Hơn nữa, Hiến Lễ của Đức Kitô còn được tái diễn trên bàn thờ mỗi
ngày để tha mọi tội nhẹ và ban ơn thánh cho con người trong giai đoạn hiện tại.
Tại sao con người không biết dùng để thanh tẩy mỗi ngày và lãnh nhận ơn thánh để
trở nên hoàn hảo hơn?
3/ Phúc Âm: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.
3.1/ Những gì sẽ xảy ra trước Ngày Tận Thế: Trình thuật hôm nay tiếp liền
trình thuật chiến tranh sẽ xảy ra và các tai ương dồn dập tới. Chúa Giêsu nói với
dân chúng: "Nhưng trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ
ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và
các quyền lực trên trời bị lay chuyển." Các hành tinh của thái dương hệ sẽ
không còn chiếu sáng thường được đề cập tới trong sách Tiên-tri như (Amo 8:9,
Joel 2:10, 3:15, Eze 32:7, 8, Isa 13:10, 34:4).
Sau những sự kiện này, là sự xuất hiện của Con Người, như Chúa
Giêsu tiên báo với dân chúng: ''Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền
năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ
đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu
mặt đất cho đến cuối chân trời."
3.2/ Con người phải biết đọc điềm trời đất để biết Ngày Tận Thế tới:
"Anh em cứ
lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì
anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh
em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. Thầy bảo thật anh
em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.''
Trong cuộc đời, ngoài những điềm trong vũ trụ, con người còn được
Thiên Chúa cho chứng kiến sự ra đi của những người thân trong gia đình, bạn bè,
và những người chung quanh. Những sự ra đi này nhắc nhở cho con người biết sẽ đến
ngày ra đi của mình, và con người không biết lúc nào vì trong những người đã ra
đi không phải chỉ có những người lớn tuổi, mà còn đủ mọi hạng tuổi. Sự giả định
mình chỉ chết khi lớn tuổi không có gì vững chắc cả; vì thế, cách tốt nhất là
luôn chuẩn bị như ngày hôm nay là ngày tận thế của đời mình và sống làm sao để
khỏi ân hận.
3.3/ Không ai biết được khi nào Ngày Tận Thế sẽ xảy ra: "Còn về ngày hay giờ
đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay Người Con cũng
không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi." Chúa Giêsu muốn dạy con người hai điều:
(1) Ngày Tận Thế chắc chắn sẽ xảy ra, vì Ngài xác tín: "Trời
đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu." Khi nào xảy ra,
không ai biết được, ngoại trừ Chúa Cha.
(2) Nếu những sự huy hoàng của thế gian sẽ qua, con người đừng bấu
víu hay dựa vào phù du của thế gian; nhưng hãy biết tìm kiếm những giá trị vĩnh
cửu trên trời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần phân biệt hai ngày tận thế: của cuộc đời chúng ta
và của toàn thể vũ trụ. Khi chúng ta xuôi tay nằm xuống, đó là ngày tận thế của
cuộc đời chúng ta. Ngày này cũng nghiêm trọng như Ngày Tận Thế của vũ trụ vậy,
vì đó là ngày chấm dứt việc thay đổi lập trường hay lập công đền tội.
- Khi Thiên Chúa phán điều gì, mọi việc đều xảy ra như thế.
Chúng ta đừng đánh bạc cuộc đời chúng ta, kẻo khi bừng tỉnh đã quá muộn màng và
phải hư đi cả đời.
- Nhiều người chúng ta đã quá khinh thường và lơ là với hai
Bí-tích vô cùng quan trọng trong cuộc đời. Bí-tích Hòa Giải có sức mạnh tha thứ
mọi tội chúng ta phạm để khỏi lo lắng trả lời tội đã phạm với Chúa trong Ngày
Phán Xét. Bí-tích Thánh Thể tha mọi tội nhẹ và giúp con người càng ngày càng trở
nên thánh thiện hơn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
15/11/15 CHÚA NHẬT TUẦN
33 TN – B
Kính Trọng Thể Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Lc 9,23-26
Kính Trọng Thể Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Lc 9,23-26
Suy niệm: Hình ảnh chàng trai trẻ trong
“Chinh phụ ngâm” thật hào hùng:
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao”
Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao”
Thân nam nhi dám vì đại nghĩa
là bảo vệ quê hương giống nòi, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, sẵn sàng xông
pha trận mạc nơi biên thuỳ, chết lấy da ngựa bọc thây, thế mới là người có chí
khí, đáng mặt anh hùng hào kiệt. Thế thì các vị tử đạo, những người vì cái
nghĩa lớn hơn, đó là làm chứng cho Đức Ki-tô, mà dám liều mạng sống mình, những
người đó chẳng những đáng được tôn vinh mà còn được tưởng thưởng bội hậu: họ sẽ
cứu được mạng sống mình và được sống hạnh phúc đời đời ở bên Thiên Chúa.
Mời Bạn: Trước khi dám chết vì Đức Ki-tô, các vị tử đạo
đã phải dám sống vì Ngài. Chết vì Đức Ki-tô thì chỉ có một lần. Nhưng sống vì
Đức Ki-tô, bạn có thể thể hiện mỗi ngày, bao lâu bạn còn sống trên đời này, mỗi
lần một mới mẻ hơn và sâu sắc hơn. Cụ thể là hôm nay, ngay bây giờ, bạn làm gì
để sống cho Đức Ki-tô, để làm chứng nhân cho Ngài?
Chia sẻ: Thế nào là một hành vi làm chứng cho Đức
Ki-tô?
Sống Lời Chúa: Làm thật tốt công việc bổn phận của bạn ngày
hôm nay để làm chứng cho Đức Ki-tô.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tiếp tục công cuộc rao
giảng Tin Mừng của các bậc tiền nhân, biết làm chứng cho Chúa Giê-su Ki-tô bằng
đời sống tin yêu và phó thác, biết nói về Chúa cho đồng bào lương dân, biết cầu
nguyện và hy sinh cho việc truyền giáo. Amen.
Ðể
Làm chứng cho Vua Quan (15.11.2014 – Chúa nhật – Lễ Kính Trọng Thể Các Thánh Tử
Ðạo Việt nam)
Suy Niệm
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm
sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay:
bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan,
bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết.
Tất cả những gì các ngài phải chịu
đều vì Ðức Giêsu (c.18), vì Danh Ðức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em”
để tuyên xưng niềm tin vào Ðức Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa
được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối.
sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay:
bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan,
bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết.
Tất cả những gì các ngài phải chịu
đều vì Ðức Giêsu (c.18), vì Danh Ðức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em”
để tuyên xưng niềm tin vào Ðức Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa
được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối.
Chết vì Ðạo là một cách làm chứng.
Làm chứng cho một niềm tin kiên vững:
Vì tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Ðấng Cứu Ðộ,
nên các ngài không bước qua thánh giá.
Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng:
“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu
của người hiến mạng vì bạn hữu” (Ga 15,13)
Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt:
có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu,
cái chết đưa tôi giáp mặt với Ðấng tôi yêu.
Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết.
Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống.
Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi,
vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.
Làm chứng cho một niềm tin kiên vững:
Vì tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Ðấng Cứu Ðộ,
nên các ngài không bước qua thánh giá.
Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng:
“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu
của người hiến mạng vì bạn hữu” (Ga 15,13)
Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt:
có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu,
cái chết đưa tôi giáp mặt với Ðấng tôi yêu.
Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết.
Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống.
Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi,
vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.
Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh giá.
Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn.
Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt,
mất tất cả và mất chính mạng sống.
Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi.
Ðã có người bước qua, và cũng có người không.
Có người bị khiêng qua thánh giá,
nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Ðích.
Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận.
Ðó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân:
Âutinh Huy, Nicôla Thể và Ðaminh Ðạt.
Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá
để quan có cớ mà tha, như thánh Micae Hồ Ðình Hy,
nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Ðứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn.
Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi?
Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.
Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn.
Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt,
mất tất cả và mất chính mạng sống.
Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi.
Ðã có người bước qua, và cũng có người không.
Có người bị khiêng qua thánh giá,
nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Ðích.
Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận.
Ðó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân:
Âutinh Huy, Nicôla Thể và Ðaminh Ðạt.
Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá
để quan có cớ mà tha, như thánh Micae Hồ Ðình Hy,
nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Ðứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn.
Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi?
Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.
Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng.
Quyết định không bước qua thánh giá
là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện,
của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo,
của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm,
của những Vườn Dầu trong ngục thất…
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá,
dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ.
Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá,
bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
Quyết định không bước qua thánh giá
là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện,
của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo,
của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm,
của những Vườn Dầu trong ngục thất…
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá,
dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ.
Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá,
bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài
cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,
các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài
cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,
các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin
mà các ngài đã thắp lên
bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
mà các ngài đã thắp lên
bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài
thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
Lm.
Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm
Hồn Lên
15 THÁNG MƯỜI MỘT
Đức Giêsu Trân Trọng Những Thực Tại Đời Thường
Tiệc cưới Cana trong Tin Mừng Gioan là một câu chuyện hùng hồn nổi
bật trên bối cảnh giáo lý mạc khải. Ở đầu sứ vụ mêsia của Người, Đức Giêsu
Na-da-rét xuất hiện ở Cana, xứ Galilê, để dự một đám cưới. Người không đến đó một
mình. Mẹ Người và các môn đệ Người cùng có mặt với Người ở đó.
Điều ấy cho thấy tầm quan trọng mà Đức Giêsu gán cho biến cố
này. Tuy nhiên, thoạt nhìn, chúng ta không khỏi ngạc nhiên. Cả bốn Sách Tin Mừng
đều trình bày Đức Giêsu như một người dốc hết tâm lực để phụng sự Cha trên trời
(Lc 2,49). Chính Người nói rằng sứ mạng của Người qui hướng vào việc thiết lập
Nước Thiên Chúa, không phải một vương quốc trên cõi đời này.
Vì thế, việc Người tham dự một đám cưới có thể thoạt thấy như chẳng
ăn nhập gì với tiếng gọi và với lối sống của Người. Nhưng sự thật không phải thế.
Thầy Chí Thánh muốn dạy chúng ta biết cách định hướng các thực tại trần gian
này qui hướng về Vương Quốc của Thiên Chúa. Đám cưới ở Cana là một biến cố nêu
bật giáo huấn này. Đức Giêsu liên đới với các thực tại đời thường của cuộc sống
con người để giúp chúng ta hiểu rằng những giá trị đích thực của con người có
thể và phải phục vụ cho một định mệnh siêu vượt trên cuộc sống trần gian này.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong
Gia Đình
NGÀY 15-11
Chúa Nhật XXXIII Thường Niên
Đn 12, 1-3; Dt 10, 11-14.18; Mc 13, 24-32.
(Kính trọng thể Các Thánh Tử Đạo Việt Nam)
LỜI SUY NIỆM: “Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ, và Người sẽ tập họp những kẻ được
Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.”
Trong ngày kính trọng thể lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Giáo Hội
cho chúng ta nghe lại lại trong Sách Đa-ni-en: “Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu
trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời
như những vì sao” (Đn 12,3). Giáo Hội tại Việt Nam đã cọng tác với Giáo Hội
hoàn vũ trong việc làm chứng và tuyên xưng Vương Quyền của Đức Kitô và là những
hạt giống tốt làm trổ sinh hoa trái đức tin cho con cái trên quê hương Đất Việt.
Chúng ta hãy cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa và tiếp tục cầu xin Thiên Chúa ban cho
các tín hữu Việt Nam thêm sức mạnh đức tin để vượt thắng những cám dỗ của vật
chất và chức quyền xã hội trần thế. Để luôn trung thành với Giáo Hội và thờ phượng
Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Trong xã hội ngày hôm nay, có rất nhiều chiêu dụ
làm cho chúng con đi ngược lại đời sống và phẩm chất người KiTô hữu. Xin Chúa
ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con được ơn yêu mến Chúa, trung
thành với Giáo Hội; sống đúng với phẩm giá của mình.
Mạnh Phương
Gương
Thánh Nhân
Ngày 15.11
THÁNH ALBERTÔ CẢ
Gíam mục, Tiến Sĩ Hội Thánh (1206 - 1280)
Thánh Albertô là một người thuộc thế hệ đầu của dòng Đaminh,
Dòng được thành lập năm 1216. Ngài góp phần lớn trong những tiến triển quan trọng
về trí thức trong thế kỷ XIII và Đức giáo hoàng Piô XII năm1941 đã đặt Ngài làm
thánh bảo trợ cho những ai say mê nghiên cứu các khoa học tự nhiên.
Ngài sinh ra tại Swabia có lẽ vào năm 1206, là con trưởng thuộc
một gia đình quí phái trong binh nghiệp. Điều người ta biết rõ về người thiếu
niên Đức này là lòng yêu thích nghiên cứu học hành và thiên nhiên. Khi thì Ngài
học với các thầy dòng Benedictô, khi thì Ngài lạc lõng trong miền quê, say mê
quan sát cây cỏ khám phá các loại cây và để cho năng khiếu chín mùi trước cảnh
sắc của tạo hóa.
Cuối cùng Albertô đã bỏ rơi truyền thống hiệp sĩ của gia đình. Một
người cậu đã dẫn Albertô tới Bologne để hoàn tất việc học hành. Ngài nghe một
bài giảng của chân phước Giocdano (Jordain) miền Saxe thuộc dòng Đaminh và cảm
thấy được Chúa gọi, Nhưng lại ngập ngừng vì mới 16 tuổi. Ông cậu muốn Albertô
quên đi ý tưởng này. Nhưng ở Padua, Albertô gặp lại chân phước Giocđanô và sau
một cuộc đàm thoại đã nói với Ngài:- Thưa thày ai đã tỏ lộ lòng con cho Ngài ?
Từ đây không ai ngăn cản nổi ơn kêu gọi của Albertô nữa. Ngài
vào nhà tập dòng anh em giảng thuyết. Lời cầu nguyện của Ngài diễn tả một ước
muốn sống tự thoát: - "Lạy Chúa Giêsu Kitô, con kêu lên Chúa, xin Chúa đừng
để con bị quyến rũ bởi những lời hão huyền về danh giá gia đình, về uy thế của
dòng tu, về sự lôi cuốn của khoa học".
Dưới ánh sáng chân lý Ngài đã tuân theo, Albertô nhiệt thành
nghiên cứu khoa học và trở thành tu sĩ thánh thiện, nhà tư tưởng lớn, giáo sư
siêu việt, nhà sưu tầm bách khoa tài ba. Ngài có sự hiểu biết uyên bác đặc biệt
như một số những nhà trí thức lớn thời Trung cổ.
Luôn luôn tìm gia tăng những hiểu biết, Albertô rảo qua khắp nước
Đức, thu thập những ý niệm về các loại súc vật cây cỏ, trước tác những tác phẩm
về khoa học tự nhiên. Ngài quan tâm tới các thuyết của Aristote và tìm cách
Kitô hóa các lý thuyết đó. Ngài lần lượt dạy học tại Cvologne, Pribourg,
Ratisbonne, Strasbourg, Ngài sẽ ảnh hửơng trọng yếu tới người học trò thiên phú
này là "bò câm", Ngài tiên báo rằng: tiếng rống của con bò này sẽ
vang dội khắp nơi.
Khoảng năm 1240, Ngài tới Paris giữ ghế giáo sư tại đây. Các lớp
học quá nhỏ không đủ để dung nạp hết các thính giả của Ngài, Ngài phải dạy họ tại
công trường nay vẫn còn giữ tên Ngài: công trường Maubert hay Albertô cả. Lời
Ngài có uy tín đến nỗi để chấm dứt cuộc tranh luận chỉ cần nói: "Thày
Albertô đã nói vậy".
Tài năng Ngài lan rộng tại đại học Paris, đạihọc danh tiếng nhất
thế giới. Ngài trú ngụ tại nhà dòng thánh Giacobê, viết nhiều tác phẩm về nhiều
đề tài khác nhau: thần học, toán học, luân lý, chính trị, triết học, hình học,
điạ chất học. Người ta kể rằng: ngày kia một thày dòng Đaminh vô danh đến trước
mặt thánh Albertô, tội nghiệp cho sự lao lực của Ngài và khuyên Ngài nghỉ ngơi
lo lắng tới sức khỏe. Đây lại chẳng phải là một thần dữ mặc lốt thày dòng sao ?
Để trả lời, thánh làm dấu thánh giá. Thế là hết các cám dỗ, satan trốn mất.
Vua thánh Luy (Louis) tỏ tình nghĩa với thày dòng thời danh này
và trao cho Ngài nhiều kỷ vật quí báu trước khi nghe về Đức, bởi vì thánh
Albertô được đặt làm giám tỉnh. Vâng lệnh đức giáo hoàng , Ngài giã từ căn
phòng sách vở và học trò, suốt ba năm Ngài đi bộ, không tiền của, ăn xin để
thăm các nhà dòng và lập nhiều nhà mới. Roma kêu mời Ngài để làm sáng tỏ cuộc
tranh cãi giữa các giáo sĩ. Albertô được một thời an bình trong dòng để dạy học
và viết lại những quan sát và suy tư của mình. Nhưng Đức giáo hoàng buộc Ngài
nhậm chức Đức giám mục Ratisbonne, một trách vụ năng nề.
Trong trung tâm giàu có phồn thịnh này, người ta kể lại rằng: Đức
giám mục không có lấy "một đồng tiền trong két, một giọt rượu trong hầm, một
nhúm bột trong vựa". Dầy vậy, thánh ALBERTO vẫn trả hết nợ và xây dựng một
nhà thương. Khi đã hoàn thành công cuộc hết sưc có thể, Ngài xin từ chức để trở
lại đời sống một tu sĩ đơn giản. Năm 1623 theo lệnh Đức giáo hoàng, Ngài đi kêu
gọi nghĩa binh trong các làng quê nước Đức.
Một năm sau Đức giáo hoàng qua đời và Ngài ngừng công việc lại.
Thánh Albertô thấy cần được hồi tâm. Ngài lui về tu viện Surtzbourg và đắm mình
vào cuộc nghiên cứu và chỉ đi sửa lại những cuộc tranh luận cãi. Một lần nữa lại
được rảo gọi qua các đô thị lớn nước Đức, Ngài thánh hiến các thánh đường, truyền
chứa cho các giáo sĩ. Năm 1270 Ngài đến dạy tại Cologne. Ơ Công đồng Lyon, Ngài
bênh vực Rodolphe I miền Habbsourg. Bảy năm sau, tức năm 1277, dầu đã già Ngài
buộc phải đi Paris để bênh vực cho giáo thuyết học trò mình là Tôma Aqunô.
Albertô hoàn toàn già nua, Ngài chọn cho mình một phần mộ trong
dòng và mỗi ngày đến đọc kinh nhật tụng cầu cho kẻ chết, để cầu cho chính mình.
Dần dần Ngài đâm ra lú lẫn. Một lần có du khách hỏi thăm Ngài trả lời chắc nịch:
- "Albertô không còn ở đây nữa, ông ta ..."
Ngài qua đời êm ái tại phòng riêng giữa các anh em đầy chung
quanh, Ngài được phong làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1931.
(daminhvn.net)
15 Tháng Mười Một
Xuống Núi
Có hai vị thiền sư vừa xuống núi. Họ đi vào trong một con đường
lầy lội. Cơn mưa nặng hạt đã khiến một thiếu nữ xinh đẹp không thể băng qua ngã
tư lầy lội được... Lập tức, một trong hai vị thiền sư đến bồng người thiếu nữ
trên tay và đưa qua đường. Vị sư khác lấy làm khó chịu nên không mở miệng nói với
bạn mình một lời. Mãi một lúc sau, không còn nhịn được nữa, ông ta mới lên tiếng:
"Chúng ta là người tu hành, không được phép gần đàn bà, nhất là những cô
gái đẹp. Sao anh lại bồng đàn bà trên tay?".
Vị sư đã bồng người thiếu nữ trên tay mỉm cười đáp: "Tôi đã
bỏ cô ta tại chỗ rồi. Còn anh sao cứ mãi mang cô ta tới đây".
Chúa Giêsu đã nói: "Chính từ lòng người mới xuất phát mọi tội
ác... Sự hoán cải đích thực chính là hoán cải nội tâm. Tất cả những thực hành đạo
đức bên ngoài, nếu không đi cùng một ý hướng ngay lành và một tâm hồn sám hối
thực sự, chỉ là trò giả hình...
(Lẽ Sống)









Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét