Trang

Chủ Nhật, 15 tháng 11, 2015

16-11-2015 : THỨ HAI TUẦN XXXIII MÙA THƯỜNG NIÊN

16/11/2015
Thứ Hai sau Chúa Nhật 33 Quanh Năm


Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 1, 11-16. 43-45. 57-60. 65-67
"Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp".
Trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, bởi dòng các vua Hy-lạp sinh ra một mầm mống tội lỗi, là Antiôcô Êpiphan, con vua Antiôcô, trước kia bị bắt làm con tin tại Rôma; năm vương quốc Hy-lạp một trăm ba mươi bảy, ông lên ngôi vua.
Thời đó từ Israel cũng xuất hiện một số người bất lương mê hoặc được nhiều người, chúng nói rằng: "Này, ta hãy giao ước với các dân ở chung quanh chúng ta, vì từ ngày chúng ta đoạn giao với các dân ấy, chúng ta đã gặp nhiều tai hoạ". Họ cho lời nói ấy là đúng. Một số trong dân chúng hối hả đi yết kiến nhà vua và được nhà vua cho phép tuân giữ các luật lệ của dân ngoại. Họ liền xây cất một thao trường ở Giêrusalem theo tập quán của dân ngoại; họ tìm cách huỷ bỏ vết tích của phép cắt bì, chối bỏ Giao Ước thánh để rồi giao ước với kẻ ngoại. Họ tự bán mình để làm sự dữ.
Vua Antiôcô ra chiếu chỉ khắp nước truyền cho mọi dân hợp thành một dân và mỗi dân phải bỏ tục lệ riêng mình; tất cả các dân ngoại đều tuân lệnh nhà vua. Nhiều người Israel cũng sẵn sàng theo việc phượng tự của nhà vua, họ liền hiến tế cho ngẫu tượng và phế bỏ ngày sabbat.
Ngày rằm tháng Kislêu, năm một trăm bốn mươi lăm, vua Antiôcô đặt một ngẫu tượng ghê tởm ngay trên bàn thờ dâng của lễ toàn thiêu. Người ta cũng lập nhiều bàn thờ khác trong các thành lân cận của Giuđa: người ta đốt hương cúng tế trước cửa nhà và ở các công trường. Hễ gặp thấy sách luật nào, họ xé nát và đem đốt đi. Nếu người ta bắt gặp sách giao ước trong nhà người nào hoặc bắt gặp kẻ nào giữ Luật Chúa, thì kẻ ấy sẽ bị xử tử theo đúng chiếu chỉ của nhà vua. Nhưng cũng có nhiều người Israel tỏ ra kiên quyết, và nhất định không ăn của gì dơ nhớp; họ thà chết chẳng thà làm cho mình ra ô uế bởi của ăn dơ và phạm đến Giao Ước thánh, và quả thực họ đã chết. Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 118, 53. 61. 134. 150. 155. 158
Ðáp: Lạy Chúa, xin bảo toàn cho con sống, và con sẽ tuân giữ lời nghiêm huấn của Ngài (x. c. 88).
Xướng: 1) Con nổi cơn uất hận vì những người tội lỗi, bọn chúng bỏ rơi luật pháp của Ngài. - Ðáp.
2) Thừng chão bọn ác nhân đã trói buộc con, nhưng con chẳng lãng quên luật pháp của Ngài. - Ðáp.
3) Xin Chúa cứu con khỏi người ta áp bức, để con tuân giữ các huấn lệnh của Ngài. - Ðáp.
4) Những kẻ bách hại con cách độc ác đang tiến lại gần, bọn chúng sống xa pháp luật của Chúa. - Ðáp.
5) Ơn cứu độ của Chúa xa bọn ác nhân, vì chúng chẳng lo giữ những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
6) Nhìn thấy những kẻ phản bội mà con chán nản, vì chúng không tuân giữ lời sấm của Ngài. - Ðáp.

Alleluia: Lc 16, 31
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 18, 35-43
"Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi? - Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa đến gần thành Giêricô, thì có một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Khi nghe tiếng đám đông đi qua, anh liền hỏi có chuyện gì đó. Người ta nói cho anh biết có Ðức Giêsu Nazareth đang đi qua. Bấy giờ anh liền kêu lên rằng: "Lạy ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Những người đi trước mắng bảo anh nín đi, nhưng anh lại càng kêu lớn tiếng hơn: "Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi!" Vậy Chúa Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh đến cùng Người. Khi anh đến gần bên Người, Người hỏi anh: "Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?" Anh thưa: "Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy". Chúa Giêsu bảo anh: "Hãy nhìn xem, lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Người, và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Sự Mù Lòa Thiêng Liêng

Con người đã được Thiên Chúa sáng tạo đặt vào trong hiện hữu và cuối cùng sẽ trở về cùng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Trong thời gian chờ đợi ngày trở về này, mỗi người chúng ta phải sống như thế nào? Chúng ta hãy đối chiếu cuộc sống chúng ta với Lời Chúa, nhưng không phải chỉ đối chiếu, mà còn cần phải sửa chữa, vứt bỏ những gì không phù hợp với lời dạy của Chúa.
Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người mù thành Giêricô. Ðây không phải là dụ ngôn, mà là biến cố có thật. Chúng ta có thể quan sát hai thái độ thực hành. Trước hết là thái độ của những người cản trở không cho anh mù gặp gỡ Chúa, những người này cho rằng chỉ có họ mới được quyền đi bên cạnh Chúa. Thật ra, trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, trên bình diện thông ban ân sủng, cứu rỗi, con người không thể cậy dựa vào quyền lợi của mình mà đòi hỏi Thiên Chúa. Tất cả đều là ân sủng nhưng không của Thiên Chúa, không ai có quyền dành lại ân sủng đó cho riêng mình.
Thái độ thứ hai chúng ta có thể nhận thấy nơi anh mù. Ý thức thân phận của mình, anh không có gì để khoe khoang hay đòi hỏi, nhất là đòi hỏi Thiên Chúa, mà anh chỉ khiêm tốn cầu xin: "Lạy ông Giêsu, con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi". Sự mù lòa thể xác và nghèo nàn vật chất không phải là một ngăn trở con người gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận ơn lành của Ngài. Từ ơn lành cho thể xác mù lòa: "Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được", anh mù đã tiến thêm một bước quan trọng, như tác giả Luca ghi lại: "Tức khắc anh thấy được và theo Chúa, vừa đi vừa ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa". Anh mù đã sống trọn ơn gọi Kitô của mình; anh đã thực hiện lời Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ Ngài: "Ánh sáng của các con phải chiếu soi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc lành các con làm, mà tôn vinh Cha các con Ðấng ngự trên trời".
Ước gì Lời Chúa hôm nay thức tỉnh và giải thoát chúng ta khỏi sự mù lòa thiêng liêng, để chúng ta luôn bước đi trong ánh sáng của Chúa và chiếu tỏa ánh sáng ấy trước mặt mọi người.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 33 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: I Mac 1:10-15, 41-43, 54-57, 62-63; Lk 18:35-43.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lòng trung hiếu với Thiên Chúa.
Trong cuộc đời chúng ta thường gặp thấy hai mẫu người trái ngược nhau. Một mẫu người dễ dàng ''hễ thay ngôi là đổi chủ," vì mục đích của họ là làm sao cho có lợi nhuận nhiều và không phải hy sinh chịu đau khổ. Đây cũng là loại người thích "bắt cá hai tay," trên có bàn thờ Chúa Mẹ, dưới thì quàng thêm ông thần tài cho chắc ăn. Họ nghĩ lỡ không có Chúa Mẹ, hay các Ngài không ban, họ vẫn còn thần tài phù hộ. Ngược lại, một mẫu người có hướng đi rõ rệt, khi đã tin ai và đã hứa điều gì, họ nhất quyết sống theo niềm tin và giữ lời hứa; cho dù có phải chịu đau khổ và chấp nhận cái chết.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy hai mẫu người tương phản trong cuộc đời. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Maccabees I trình bày hai mẫu người Do-thái: (1) Những người dựa vào lợi nhuận để thay đổi niềm tin; vì họ không thấy Thiên Chúa ban thưởng gì cho việc giữ Lề Luật cả, nên họ chạy theo lối sống của vua Hy-lạp và quay lưng lại với Thiên Chúa. (2) Những người nhất quyết thờ phượng Thiên Chúa và tuân giữ Lề Luật, họ sẵn sàng hy sinh chịu đau khổ và chịu chết, chứ không bao giờ phản bội Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, người mù thành Jericho nhất định xin Chúa Giêsu chữa lành; cho dù phải gặp bao ngăn cản của đám đông đang đi theo Chúa. Sau cùng, nhờ niềm tin vững mạnh, anh đã được như sở nguyện.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Họ thà chết chẳng thà để cho mình ra ô uế vì thức ăn và vi phạm Giao Ước thánh.
1.1/ Những người nông nổi, "gió chiều nào che chiều ấy:" Đây là thời kỳ đế quốc Hy-lạp cai trị người Do-thái, và những cám dỗ của nền văn minh Hy-lạp làm cho nhiều người Do-thái bỏ đạo và Lề Luật. Tác giả Sách Maccabees tường thuật: Lúc bấy giờ, từ trong Israel đã nảy sinh những đứa vô lại, chúng đã dụ dỗ nhiều người như sau: "Nào chúng ta đi ký kết giao ước với các dân tộc láng giềng, vì từ khi sống cách biệt họ, chúng ta gặp phải nhiều tai hoạ." Nhiều người bị cám dỗ thấy lời này thật vừa lòng nên đã nghe theo.
Rồi vua Antiochus ra chiếu chỉ trong toàn vương quốc truyền cho mọi người phải nhập thành một dân duy nhất, và ai nấy phải bỏ tục lệ của mình. Mọi dân tộc đều chấp hành lệnh vua.
Trong dân Israel, có nhiều người hưởng ứng việc thờ phượng vua đã truyền; họ dâng lễ tế cho các ngẫu tượng, vi phạm luật Sabbath. Ngày mười lăm tháng Chislev, năm một trăm bốn mươi lăm, vua cho dựng đồ ghê tởm phạm thánh trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và cho lập các bàn thờ trong các thành miền Judah chung quanh Jerusalem. Trước cửa nhà và ngoài quảng trường, người ta dâng hương. Gặp sách Luật ở đâu, thì đem xé và quăng vào lửa. Bắt gặp sách Giao Ước ở nhà ai và biết ai còn tuân giữ Lề Luật, thì đem ra xử tử theo phán quyết của vua.
Một số những lý do làm con người dễ thay ngôi đổi chủ: Thứ nhất, họ không tin những lời Thiên Chúa dạy dỗ và hứa ban. Thứ hai, vì họ không tin có cuộc sống đời sau, nên họ đặt tất cả niềm trông cậy vào cuộc sống đời này. Thứ ba, họ không có tình yêu đối với Thiên Chúa; một khi không có hay đã hết tình yêu, con người sẽ không còn sức mạnh để làm chứng cho Thiên Chúa. Nói tóm, khi con người không có ba nhân đức đối thần tin, cậy, mến; con người dễ chạy theo những cám dỗ của ba thù và không thể trung thành với Thiên Chúa.
1.2/ Những người nhất quyết trung thành giữ Luật Chúa: Lửa thử vàng, gian nan thử nhân đức. Nếu đã có những người khi gặp đau khổ đã phản bội Thiên Chúa; nhưng vẫn còn "nhiều người trong dân Israel vẫn kiên tâm vững chí, nhất định không ăn những thức ăn ô uế. Họ thà chết chẳng thà để cho mình ra ô uế vì thức ăn, vi phạm Giao Ước thánh. Cuối cùng họ đã chết."
Những lý do giúp con người trung hiếu trọn đời với Thiên Chúa: Thứ nhất, họ tin Thiên Chúa, những gì Ngài dạy dỗ và hứa ban cho những ai trung thành. Thứ hai, niềm hy vọng vững vàng của họ vào cuộc sống mai sau. Họ biết Thiên Chúa sẽ trả lại sự sống cho những ai sẵn sàng hy sinh mạng sống làm chứng cho Ngài. Sau cùng là tình yêu của họ dành cho Thiên Chúa. Tình yêu có sức mạnh làm con người vượt qua mọi trở ngại để trung thành với Thiên Chúa. Khi con người đã có tình yêu Thiên Chúa, không gì có thể lay chuyển con người để họ phản bội Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chữa người mù thành Jericho.
2.1/ Lời cầu xin khẩn thiết của người mù: Việt-Nam có câu tục ngữ: “Có đau mắt thì mới biết thương người mù.” Vì không thấy đường nên tất cả thế giới đẹp đẽ đối với anh là một bóng đen, và công việc duy nhất anh có thể làm được là ngồi ăn xin lòng thương xót của người qua đường. Anh mù chứ không điếc nên khi nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. Họ báo cho anh biết là Đức Giêsu Nazareth đang đi qua đó. Chắc chắn anh đã nghe về Đức Kitô chuyên chữa lành bệnh nhân, nên anh không bỏ lỡ cơ hội, anh liền kêu lên (boa,w) rằng: "Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!"
Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi. Không ai có thể hiểu nỗi đau khổ của anh; tất cả đều bận tâm với những toan tính riêng tư của họ. Những người quát nạt này có lẽ bực mình vì tiếng kêu cứu của anh làm họ không nghe rõ những gì Chúa Giêsu đang giảng giải. Nhưng anh mù không sờn lòng và càng kêu lớn tiếng hơn (kra,zw): "Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót tôi!"
Việc anh kêu lớn tiếng hơn có thể anh sợ Chúa Giêsu chưa nghe thấy tiếng kêu nài của anh; nhưng cũng để biểu tỏ tấm lòng kiên trì kêu cầu của anh, không một sức mạnh nào có thể ngăn ngừa anh đừng trông cậy vào Thiên Chúa. Với bệnh tật của anh, anh nghĩ có lẽ đây là cơ hội ngàn năm một thuở anh có cơ hội được Chúa Giêsu chữa lành.
2.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu, người mù, và đám đông: Làm sao Thiên Chúa của lòng thương xót không động lòng trước tiếng kêu bi thương của con cái mình? Ngài dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đến gần, Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?" Anh ta đáp: "Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được." Người mù không xin tiền, không xin bất cứ sự gì khác, nhưng xin cho được thấy, vì anh biết sự sáng quan trọng thế nào đối với anh. Đức Giêsu nói: "Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh." Lập tức, anh ta nhìn thấy và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa. Anh biết Chúa Giêsu có lòng thương xót, anh biết Chúa Giêsu là người duy nhất có thể chữa anh, và chính anh đã được Chúa Giêsu thương xót chữa lành; nên chuyện anh đi theo Ngài để ngợi khen Thiên Chúa là chuyện tự nhiên phải làm. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Cuộc sống với quá nhiều quyến dũ vật chất và hưởng thụ dễ làm cho trái tim con người ra chai đá, khiến chúng ta không còn nhạy cảm với tình thương Thiên Chúa. Chúng ta hãy làm sống lại tình yêu ban đầu của chúng ta dành cho Thiên Chúa, bằng cách năng nhớ lại những gì Ngài đã làm cho chúng ta, để biết ơn, để ca tụng, và biết sống xứng đáng với tình yêu của Ngài.
- Chúng ta hãy làm sống lại tình yêu ban đầu của chúng ta dành cho nhau; để luôn biết quí trọng và dễ tha thứ cho nhau. Những người dễ dàng phản bội tha nhân và thay người yêu như thay áo, chắc chắn sẽ phải chuốc lấy hậu quả của những sự phản bội này một khi đã hết thời hay khi lâm cảnh khốn khó.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

16/11/15 THỨ HAI TUẦN 33 TN
Th. Ma-ga-ri-ta Tô-cách-lan và Giê-tơ-rút, trinh nữ 
Lc 18,35-43

Suy niệm: Anh mù thành Giê-ri-cô anh đã dùng lợi thế mạnh nhất và gần như duy nhất là tiếng kêu để làm cho Chúa Giê-su chú ý đến mình. Tiếng kêu của anh là lòng khao khát của anh. Anh kêu to mặc cho đám đông ồn ào. Anh kêu hết sức dù không ít người quát nạt bảo im. Và anh đã được toại nguyện. Anh được Chúa chữa cho sáng mắt và anh nhận biết Ngài. Cuộc đời anh giờ đây đã đổi thay, anh không còn ngồi ở vệ đường nữa, mà nhập vào đoàn người tôn vinh ngợi khen Thiên Chúa. Nhưng để lời kêu gào của anh mở ra đoạn kết có hậu như thế lại cần có một tiếng nói khác, đó là lời Chúa Giê-su gọi anh đến và khẳng định như đinh đóng cột: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” Hơn thế, Ngài đã thấy anh từ trước, từ đời đời, như Ngài đã thấy Na-tha-na-en dưới gốc cây vả trước khi ông tới gặp Ngài. Ngài đã chạnh lòng thương ban cho anh một cơ hội được chữa lành không chỉ căn bệnh mù thể lý để anh được sáng mắt, mà còn cho anh được sáng cặp mắt đức tin để anh thấy Chúa và ca tụng Ngài.
Mời Bạn nhắm cặp mắt thể xác của mình lại để cảm nghiệm điều anh mù Giê-ri-cô cảm nghiệm và lắng nghe tiếng Chúa hỏi bạn: “Con muốn Ta làm gì cho con?” Tội lỗi nào? Nết xấu nào? Trăn trở nào bạn muốn được Chúa cứu thoát ra? Bạn hãy thưa với Ngài: “Lạy Chúa, xin cho con được thấy.”
Sống Lời Chúa: Để có thể “thấy” Chúa và “thấy” chính mình, bạn hãy dành thời gian thích đáng để suy niệm khi bắt đầu một ngày và để xét mình khi kết thúc một ngày sống.
Cầu nguyện: Đọc kinh Sáng Soi.

Xin cho tôi nhìn thấy
 Ơn biết mình mù và muốn thấy rõ chính mình, là một ơn lớn. Có người mù, không biết mình mù, nên vẫn thản nhiên ở lại trong cảnh mù.

Suy nim:
Trong những năm hành đạo, Đức Giêsu đã chữa một số người mù.
Vào những ngày cuối đời, khi trên đường lên Giêrusalem lần cuối,
Ngài đã chữa cho anh mù ở Giêricô.
Giêricô được coi là thành phố cổ xưa nhất, không xa Giêrusalem,
nằm ở hạ lưu sông Giođan, thấp hơn mực nước biển 300 mét.
Anh mù ở Giêricô kiếm sống bằng cách ngồi bên vệ đường ăn xin.
Anh vừa bị tách biệt với người khác, vừa bị lệ thuộc vào người khác.
Mất khả năng nhìn, nhưng anh vẫn còn khả năng nghe và nói.
Để gặp được Đức Giêsu, anh đã tận dụng mọi khả năng còn lại.
Anh nghe tiếng đám đông đi qua, tiếng chân người rộn ràng (c. 36).
Anh tò mò hỏi xem chuyện gì vậy.
Khi biết là Đức Giêsu Nadarét đang đi ngang qua,
anh thấy ngay điều mình chờ đợi từ lâu, nay đã đến.
Vị ngôn sứ nổi tiếng này anh nghe đồn đã làm bao phép lạ lẫy lừng.
Ngay cả người mù bẩm sinh cũng được Ngài làm cho sáng mắt.
Cơ hội ngàn năm một thuở đã đến rồi.
Anh tự nhủ mình không thể nào để vuột mất.
Nhưng làm thế nào để Đức Giêsu lưu tâm đến anh?
Làm thế nào để cho Ngài dừng lại?
Vũ khí mạnh nhất và gần như duy nhất của anh, là tiếng kêu.
Chỉ tiếng kêu của anh mới lôi kéo được sự chú ý của Ngài,
và báo hiệu cho Ngài về sự hiện diện của anh.
Anh kêu thật to tên Ngài dù không biết Ngài ở đâu.
“Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi” (c. 38).
Hãy nghe tiếng kêu của anh giữa tiếng đám đông ồn ào cười nói.
Anh kêu tiếng kêu của trái tim, đầy tin tưởng, hy vọng, tha thiết.
Nhưng tiếng kêu ấy lại bị bắt phải im đi, có thể vì sợ gây phiền hà.
Anh mù chẳng những đã không vâng lời, lại còn kêu to hơn nữa.
Rồi tiếng kêu của anh cũng đến tai Đức Giêsu, khiến Ngài dừng chân.
Đức Giêsu muốn gặp người đã gọi tên mình để xin thương xót (c. 40).
Cuộc hạnh ngộ bắt đầu bằng câu hỏi anh mong từ lâu:
“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (c. 41).
Câu trả lời quá hiển nhiên: “Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy.”
Khi được sáng mắt, anh không phải ngồi bên vệ đường như trước đây.
Anh đã nhập vào đám đông những người theo Chúa và đi trên đường.
Nếu hôm nay Chúa hỏi tôi: “Anh chị muốn tôi làm gì cho anh chị?”,
tôi sẽ trả lời Ngài ra sao? tôi sẽ xin Ngài điều gì?
Ơn biết mình mù và muốn thấy rõ chính mình, là một ơn lớn.
Có người mù, không biết mình mù, nên vẫn thản nhiên ở lại trong cảnh mù.
Người ấy có thể vô tội, nhưng có nguy cơ gây hại cho tha nhân (Mt 15, 14).
Lại có người cố ý không muốn thấy, cố ý mù để khỏi phải thay đổi.
Họ không thấy được cái xà trong mắt mình (Mt 7, 3).
Xin Chúa giúp chúng ta xóa những nguyên nhân gây mù,
đó là dục vọng của đôi mắt (1 Ga 2, 16), là thành kiến về người khác.
Xin Chúa giúp chúng ta nhờ đối thoại mà ra khỏi tình trạng mù xem voi,
và được Thánh Thần đưa vào sự thật trọn vẹn (Ga  16, 13).
Ước gì chúng ta khiêm tốn đến với Chúa Giêsu
mà “mua thuốc xức mắt để thấy được” (Kh 3, 18).
Cầu nguyn:
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu giãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16 THÁNG MƯỜI MỘT
Bí Tích Hôn Nhân Phản Ảnh Tình Yêu Của Đức Kitô
Sự hiện diện của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana – nếu chúng ta muốn nhận hiểu một cách đầy đủ – cũng nhằm làm một động thái nhắc chúng ta nghĩ đến những gì thuộc thượng giới (Cl 3,2). Ở đây, Chúa muốn nhắc chúng ta về ý nghĩa thiêng liêng sâu xa của tình yêu vợ chồng. Tình yêu này là một dấu hiệu và một sự thông dự trong chính tình yêu vốn tồn tại giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Tình yêu ấy không thể chịu sự chi phối của những thay đổi thất thường và bất định của cuộc sống. Không, nó có thể và phải là một sự dấn thân vĩnh viễn không thể phân ly và không thể phá hủy. Như vậy, tình yêu vợ chồng mở ra tới những viễn tượng vô hạn của Vương Quốc Thiên Chúa và của cuộc sống bất diệt.
Mẫu thức tối thượng và siêu việt này của tình yêu vợ chồng được minh họa cho chúng ta trong Thư Eâphêsô. Trong Thư này, chúng ta khám phá nền tảng cho việc chọn lựa hôn nhân để chúng ta thực sự hạnh phúc và sống theo thánh ý Thiên Chúa. Sự dấn thân và chọn lựa đời sống hôn nhân Kitô giáo nâng đỡ và đào sâu tình yêu của chúng ta trong những lúc gặp khó khăn thử thách, giúp làm cho tình yêu của chúng ta tinh tuyền hơn và sinh hoa trái nhiều hơn.
Chúng ta cần đánh giá tình cảm của mình trong ánh sáng của nhận thức nói trên về tình yêu vợ chồng. Nhờ đó chúng ta có thể đảm bảo rằng một tình yêu đích thực và một cuộc hôn nhân Kitô giáo đích thực sẽ được bộc lộ rõ rệt trong đời sống vợ chồng. Hôn nhân quả là một bí tích. Chúng ta bắt đầu thoáng thấy các lý tưởng của tình yêu và khả năng sinh hoa trái mà mỗi người vợ người chồng Kitô hữu đều được mời gọi đạt đến với sự hỗ trợ của ân sủng.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 16-11
Thánh nữ Margarita Scotland
Thánh Gertruđê, trinh nữ
1Mcb 1,10-15.41-43.54-57.62-64; Lc 18, 35-43.

LỜI SUY NIỆM: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi! Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi; nhưng anh càng kêu lớn tiếng: Lạy con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi!”
Trong câu chuyện “Chúa Giêsu chữa người mù tại Giêrikhô” Cho chúng ta thấy được, khát vọng của người mù là “được thấy”. Anh ta kêu xin Chúa Giêsu thương xót đến anh ta. Nhưng đám đông quát nạt anh ta “im đi”, bởi vì xem anh ta là kẻ thấp hèn, kẻ ăn xin. Đám đông đã không biết cảm thông, không thấy sự liên đới...Tất cả chỉ vì thiếu tình thương giữa người với người.
Lạy Chúa Giêsu. Trong cuộc sống ngày hôm nay, chúng con đang mang trên mình nhiều “chứng mù”, bởi vì chúng con thiếu lòng mến. Xin ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con được ơn “mến Chúa yêu người”, để chúng con nhìn thấy được những gì đang xãy ra chúng quanh chúng con, để biết cầu nguyện và phục vụ vì tình yêu.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 16-11
Thánh GERTRUĐÊ
Đồng Trinh (1256 - 1301)

Thánh GERTRUDÊ sinh ra vào ngày lễ Hiển linh năm 1256. Người ta không biết gì về cha mẹ Ngài, nhưng chắc hắn cha Ngài đã có lòng đạo đức sâu xa và đã dâng con gái 5 tuổi của mình làm tu sĩ tu viện Helfia theo luật dòng thánh Benedictô. Chẳng may Ngài lại trùng tên với vi tu viện trưởng. Ngài lớn lên xa mọi thú vui thế gian và sớm chứng kiến hoạt động trí thức lớn mạnh.
Trong bầu khí chiến tranh, nhà dòng trốn về Rossdorf, rồi vì thiếu nước lại trở về Helfta. Thánh Mechtilde chị của tu viện trưởng Gertrudê đứng trường. Người nữ tu trẻ GERTRUDÊ say mê quên bỏ đời sống cầu nguyện. Việc trau dồi văn chương nghệ thuật thu hút Ngài đến nỗi Ngài nói rằng vào thời đó "Ngài lo lắng cho tâm hồn chỉ bằng lo lắng cho đôi chân của mình thôi".
Vào lúc 25 tuổi, trong một thị kiến, Chúa Kitô đã trách móc Ngài là đã bỏ Chúa mà lo học hành. Thế là đảo lộn tất cả: "Mọi bồng bột tuổi trẻ đối với con bắt đầu xem ra lạt lẽo vô vị. Lạy Chúa, Chúa là chân lý trong suốt hơn mọi ánh sáng, nhưng sâu thẳm hơn mọi bí mật. Chúa đã quyết phá tan những bóng đêm đậm đặc của con". Và thị kiến kết thúc bằng một cuộc trở lại. Ngài đã kể lại và nói: "Trong một niềm vui của tinh thần mới, tôi bắt đầu tiến tới".
Gertrudê chỉ còn muốn học và suy gẫm thánh kinh, các giáo phụ và các nhà thần học. Ngài kiềm chế tính hiếu động bằng việc hãm mình dữ dằn và sống trong sự kết hiệp liên lỉ với Chúa. Đáp lại việc hiến thân hoàn toàn ấy, Ngài được nhiều ơn thần bí phi thường. Ngài được mạc khải nhiều lần trong khi hát kinh nhật tụng viết lại những mạc khải này trong cuộc khảo luận.
Cùng với thánh nữ Mechtilde, Ngài là người đầu tiên tỏ bày lòng tôn sùng Trái Tim Chúa. Lúc đó Gertrudê 35 tuổi. Sức khỏe Ngài không cho phép Ngài giữ những nhiệm vụ quan trọng nữa, Ngài chỉ còn là phó ca trưởng. Nghi ngờ nhiều, Ngài chỉ thấy sự thấp kém và hư không của mình mà chạy đến với ý kiến của thánh Mechtilde là ca trưởng. Chúa đã tỏ cho thánh Mechtilde: "Cuộc đời của Gertrude là một thánh ca liên tục ca ngợi vinh quang Cha. Trên trần gian này, sau bí tích Thánh Thể, Cha chỉ cư ngụ cách đặc biệt trong lòng Gertrudê".
Thánh nhân được ơn những dấu đinh vô hình và một vết thương trong lòng. Các sách của Ngài chỉ được phổ biến 200 năm sau, cho thấy đời sống nội tâm nồng nhiệt của Ngài, Ngài liên kết say mê với phụng vụ cố gắng đồng nhất đời mình với những mầu nhiệm mà chu kỳ phụng vụ nhắc lại. Ngài muốn chịu khổ vì phần rỗi anh em và tìm những lời nồng cháy để cải hoá các tội nhân và đổ ra nhiều nước mắt vì những đau khổ gây nên cho Chúa.
Năm tháng cuối đời, thánh nữ nằm bệnh bất động với những đau đớn dữ dằn. Ngài không còn nói được nữa, nhưng vẫn giữ được sự bình thản. Ngài biết giờ vinh quang sắp tới. Ngày 17 tháng 10 năm 1031 hay là 1032 thánh nữ từ trần. Tương truyền rằng: lúc chết Ngài thấy Chúa Giêsu và đức trinh nữ với đoàn người trên trời đến dẫn Ngài vào thiên đàng trong khi quỉ dữ khóc ròng.
Để kết thúc, nhà chép sử ghi lại mạc khải của một nữ tu thấy linh hồn thánh Gertrudê bay thẳng như một cánh chim vào lòng Chúa Giêsu đang mở rộng đón tiếp Ngài vào tình yêu vô cùng của Ngài.
Không được chính thức tôn phong làm thánh, nhưng lễ kính Ngài có trong lịch chung theo nghi thức Roma.
****************
Ngày 16-11
Thánh MAGARITA SCOTIA
(1045 - 1093)

Thánh Magarita sinh ra khoảng năm 1045. Cha Ngài là hoàng tử Edward người Anh, bị lưu đày và cưới một nữ công chúa người Đức, có lẽ là cháu của hoàng hậu vua thánh Stephanô nước Hungaria. Magarita lớn lên trong triều đình Hungari và đã gặp được sự công chính và thánh thiện để làm nên dấu thánh thiện của chính mình. Khoảng 12 tuổi trở lại nước Anh, thánh nữ sống trong triều đình của vua thánh Edward.
Trong cuộc chinh phục Norman năm 1066, Magarita cùng với mẹ và anh chị em Ngài bị lưu đày một lần nưã. Họ trốn sang Scotia, dầu lúc ấy đang có chiến tranh giữa hai nước, vua Scotia là Malcola Cannore cũng đã nhân ái tiếp nhận những kẻ lưu đày.
Malcolm Cannore mà tên gọi có nghĩa là "nhà cai trị vĩ đại" là một vị vua uy quyền có khả năng. Ông yêu Magarita, còn Magarita thì có ý định đi tu dòng. Nhưng ông đã khuyên Magarita lập gia đình với ông. Cuộc sống chung của họ được mô tả với vài chi tiết trong một tập hồi ký có lẽ do cha giải tội của Ngài là Turgot, sau là giám mục viết. Đây là một câu chuyện thích thú về sự gặp gỡ giữa một người đàn bà trẻ khôn ngoan và thánh thiện với người chồng hung hăng ít được giáo dục nhưng hứơng chiều về sự thánh thiện của vợ mình.
Cuộc hoà hợp nhân duyên này mang lại cho họ sáu người con trai và hai người con gái. Hoàng hậu chỉ chấp nhận cho những gương lành tới gần các tâm hồn trẻ thơ này và không một người xấu nào dám tới triều đình. Những hoàng tử công chúa này lớn lên và tham gia vào các công cuộc của người mẹ thánh thiện và của người cha đã trở thành vị vua gương mẫu.
Thánh Magarita dùng nhiều thì giờ và tiền của cho các công cuộc bác ái, chính Ngài hầu hạ người nghèo khó, già cả, côi cút và yếu đau. Ngài khám phá ra mọi hình thức khổ cực, giúp đỡ các gia đình phá sản phục hồi, chuộc lại các tù nhân, xây dựng nhà thương, nhà vãng lai cho du khách. Người lạ biết rằng: họ có thể luôn tìm được chỗ trú ngụ nơi Ngài khi ra khỏi nhà. Cả đoàn người bất hạnh vây quanh Ngài và đây mới là triều đình thật của Ngài. Khi trở về nhà, Ngài chỉ muốn ngồi vào bàn ăn sau khi đã hầu bàn cho 300 người nghèo ngồi đầy một phòng ăn lớn.
Scotia đã được cải hoá từ lâu, nhưng sự man rợ còn tồn tại ở đó trở thành mẹ của một vương quốc, thánh Magarita biến nó thành một gia đình rộng lớn và dẫn tới Thiên Chúa, Ngài trao cho những quan liêm chính tái lập trật tự, sai các nhà giảng thuyết đi loan báo Tin Mừng để Chúa Giêsu được yêu mến khắp nơi. Ngài giải quyết vấn đề Giáo hội ở Scotia thời Ngài gặp phải. Bị cắt đứt liên lạc do cuộc xâm lăng của người ngoại, Giáo hội Celt đã khác biệt nhiều điểm với Roma và chính thánh Magarita đã hoà giải những yếu tố tranh chấp và đưa Giáo hội Celt ở Scotia về qui phục. Ngài làm việc này mà vẫn tránh được sự phân ly đau đớn.
Cũng thế những cố gắng đưa văn hóa Âu Châu vào Scotia của Ngài rất thành công. Trong khi bên Anh, cuộc chinh phục Norman đã để lại một di sản cay đắng thì ở Scotia dưới ảnh hưởng của Magarita và các con của Ngài, việc lan tràn văn hóa Trung Cổ đã mang lại cho Scotia một thời đại hoàng kim kéo dài cả 2000 năm sau khi thánh nữ qua đời.
Thánh Magarita qua đời năm 1093 tại lâu đài Ediburgh như rất nhiều vị thánh, vào lúc mà mọi công trình xem ra tiêu tan hết. Vua nước Anh xâm chiếm một pháo đài. Malcoln và hai người con cả đi tái chiếm. Thánh nữ cảm thấy âu lo. Ngày kia Edgar con Ngài trở về, thánh nữ hiểu ngay thực tế khủng khiếp là vua và người con kia đã chết. Đau đớn, thánh nữ chỉ biết nói: - Lạy Chúa toàn năng, Chúa đã gửi cho con sự đau đớn lớn lao này để thanh tẩy tâm hồn con, con xin chúc tung Chúa .
Ngài không than trách, đức tin và lòng dũng cảm không rung chuyển, nhưng sáu tháng sau Ngài đã qua đời.
Ba người con của Ngài tiếp tục cai trị trên ngai vàng, công cuộc của người mẹ được tăng cường và đi tới hoàn thành. Thánh Magarita được phong thánh năm 1250.
(daminhvn.net)

16 Tháng Mười Một
Vui Ðể Ðợi Chết
Theo giai thoại của người Trung Hoa thì ngày xưa có một người tên là Vinh Khải Kỳ tỏ ra là một bậc tiên ông đạo cốt, mình mặc áo lông cừu, lưng thắt dây, ngày ngày giao du ở sơn thủy, vui thú cầm ca chậm rãi rảo bước, tay đánh đàn miệng ca hát không ngừng. Một hôm, đức Khổng Tử đi dạo gặp Vinh Khải Kỳ, ngài mới hỏi ông: "Tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ ca hát như thế?".
Khải Kỳ thưa: "Trời sanh muôn vật, loài người cao quý nhất. Ta đã được làm người, đó là điều đáng vui. Người ta sinh ra có người đui què, có người non yếu... mà ta thì khỏe mạnh sống lâu, thế là hai điều đáng vui. Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là hết sự đời. Ta nay biết vui với cảnh đời để đợi cái chết thì còn gì lo buồn nữa?".
Lạc quan, vui sống là đức tính cơ bản nhất của người Kitô. Người Kitô nhận ra phẩm giá cao cả của mình và tiếp nhận mọi sự xảy đến như một hồng ân của Chúa. Cây cỏ đồng nội, muôn thú trên rừng không nhọc công tích trữ mà còn được Chúa che chở nuôi nấng, huống chi con người là hình ảnh của Người... Mỗi ngày có niềm vui nỗi khổ của nó. Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống từng phút giây như một ân ban của Chúa, đó là bí quyết để giúp ta được hạnh phúc ở đời này.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét