17/11/2015
Thứ Ba sau
Chúa Nhật 33 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Mcb 6, 18-31
"Tôi sẽ để lại một tấm gương cao đẹp, nếu tôi tự ý và anh
dũng chết cho các lề luật đáng kính và thánh thiện của chúng tôi".
Trích sách Macabê quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Êlêazarô, một người trong hàng Luật sĩ vị vọng,
ông đã có tuổi và diện mạo oai phong, ông bị người ta cạy miệng bắt phải ăn thịt
heo. Nhưng ông thà chết vinh còn hơn sống nhục, nên ông tự ý ra pháp trường. Hiểu
rằng ông phải xử trí như thế nào, ông nhẫn nại chịu đựng, khẳng khái không ăn đồ
cấm vì ham sống. Các bạn cố tri đứng đó cảm thương ông, gọi lén ông ra khuyên
ông xin người ta đem cho ông các thứ thịt ông có phép dùng, rồi ông chỉ giả vờ
ăn thịt cúng như nhà vua đã truyền; làm như thế ông sẽ thoát chết; và do tình bạn
cố tri, họ đã tỏ lòng nhân đạo như vậy đối với ông. Nhưng nghĩ đến địa vị bậc
lão thành, mái tóc bạc khả kính, cách ăn ở tốt đẹp từ thời niên thiếu, mà nhất
là sống xứng với lề luật thánh mà chính Thiên Chúa đã lập, ông liền trả lời, bảo
họ rằng ông sẵn sàng chịu chết. Ông nói:
"Vì ở tuổi chúng tôi không nên giả vờ, kẻo nhiều thanh niên
tưởng rằng Êlêazarô đã chín mươi tuổi đầu mà còn theo lối sống của dân ngoại. Rồi
vì sự giả vờ của tôi để sống thêm một ít lâu nữa, tôi sẽ làm cho chính họ cũng
lầm lạc, và vì thế, tôi sẽ chuốc lấy nhơ nhớp và ố danh cho tuổi già của tôi.
Mà dầu tôi có thoát khỏi hình phạt của loài người, thì dầu sống dầu chết, tôi sẽ
không thoát khỏi bàn tay của Thiên Chúa toàn năng. Bởi thế, nếu giờ đây tôi can
đảm từ giã cuộc đời, tôi sẽ tỏ ra xứng đáng với tuổi già của tôi; tôi sẽ để lại
cho các thiếu niên một tấm gương cao đẹp, nếu tôi tự ý và anh dũng chết cho các
lề luật đáng kính và thánh thiện của chúng tôi".
Nói đoạn ông liền bị điệu đến pháp trường. Các người áp giải ông
đổi lòng thiện cảm họ có đối với ông trước kia thành ác cảm, vì các lời ông vừa
nói mà họ cho là điên khùng. Khi sắp chết vì đòn vọt, ông thều thào trong hơi
thở cuối cùng: "Lạy Chúa là Ðấng thông minh chí thánh, Chúa cũng thấu rõ
là con có thể thoát chết, nhưng con xin chịu đòn vọt đau đớn trong thân xác
con, với niềm vui trong lòng vì kính sợ Chúa". Và như thế ông từ giã cuộc
đời, để lại không những cho các thanh niên mà còn cho toàn dân một tấm gương
anh dũng và một lưu niệm đạo đức.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 3, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Chúa đã nâng đỡ tôi (c. 6b).
Xướng: 1) Thân lạy Chúa, nhiều thay người bách hại con, nhiều
thay người nổi dậy chống con! Về con, nhiều kẻ thốt ra lời: "Hết trông hắn
được Chúa Trời cứu độ". - Ðáp.
2) Nhưng lạy Chúa, Chúa là thuẫn hộ thân con, là vinh quang con,
Chúa cho con ngẩng đầu lên. - Tôi lên tiếng kêu cầu Chúa, và Chúa đã nghe tôi từ
núi thánh của Ngài. - Ðáp.
3) Tôi nằm xuống và đã ngủ ngon, rồi thức khoẻ vì Chúa đỡ nâng
tôi. Tôi không kinh hãi ức triệu người ở chung quanh đồn trú hại tôi. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 28
Alleluia, alleluia! - Các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì
giờ cứu rỗi các con đã gần đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 1-10
"Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa,
có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu
có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được,
vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một
cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó. Khi vừa đến nơi, Chúa
Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: "Hỡi Giakêu,
hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi". Ông vội vàng trụt
xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng:
"Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi". Ông Giakêu đứng lên thưa
cùng Chúa rằng: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó,
và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn". Chúa
Giêsu bảo ông ấy rằng: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng
là con cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điễu gì đã hư
mất".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Hoán Cải Ðích Thực
Gặp gỡ Chúa Giêsu là một biến cố hồng phúc cho con người, nếu
người đó không lo sợ hoặc tránh né cuộc gặp gỡ này.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Chúa
Giêsu và ông Giakêu. Chúng ta có thể ghi nhận hai thái độ trong cuộc gặp gỡ
này. Trước hết là thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dễ kẻ
khác, không muốn cho kẻ khác đến gặp Chúa và nhận lãnh ơn lành của Chúa. Ðó là
thái độ của những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đã niềm nở đón tiếp những người tội lỗi
và ăn uống với họ, bởi vì đối với Chúa không có ai xấu xa tội lỗi đến độ không
đáng được hưởng lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Liệu chúng ta có thái độ của những
kẻ tự cho mình là công chính và khinh dễ người khác không?
Thái độ thứ hai là thái độ của ông Giakêu, người thu thuế trưởng
và giầu có. Ðối với người Do thái, người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai: đó
là tội phản bội quê hương cộng tác với ngoại bang, và tội gian lận tiền thuế
quá mức qui định. Giakêu là người thu thuế trưởng và giầu có, sự giầu có này
theo lý luận của người Do thái, chứng tỏ ông có những hành vi bất chính để làm
giầu: thu nhiều, nộp ít, và như vậy ông là một người tội lỗi. Ðối với người đồng
hương với Giakêu, thì tội của ông không thể tha thứ được; nhưng đối với Chúa
Giêsu, Ðấng đến tìm và cứu những gì đã hư mất, thì đây là dịp để thể hiện tình
thương nhân từ của Thiên Chúa.
Nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về
Chúa: ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi qua, và đây là yếu tố căn bản để được
Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại không có khoảng
cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu có thể vượt qua khoảng cách này một khi
con người đã có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến
khích chúng ta trở về với Chúa. Ông đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một
hành động cụ thể thiết thực: phân chia nửa phần tài sản cho người nghèo và đền
bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thể hiện một cách cụ thể sự
hoán cải của mình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng
nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác với ơn Chúa và thành tâm trở về với
Chúa.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Thứ Ba Tuần 33
TN1, Năm lẻ
Bài đọc: II Mac
6:18-31; Lk 19:1-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Quên mình
là tìm thấy.
Nhiều người nghĩ để trở nên giàu có, họ cần phải vơ vào nhiều và
bớt cho đi, như câu chúc ích kỷ đầu Xuân: chúc cho ông bà tiền vô như nước, tiền
ra nhỏ giọt. Vì thế, họ rất khổ sở khi phải cho đi tiền bạc. Trong khi đó, bí
quyết trở nên giàu có của các bậc thánh nhân: cho đi là nhận được, quên mình là
tìm thấy, tha thứ được thứ tha, chết đi là sống mãi... Người nghèo tuy không
giàu, nhưng không bao giờ thiếu. Khi có dư chút nào, họ sẵn sàng chia sẻ cho những
ai cần hơn; vì họ Thiên Chúa vẫn quan phòng lo cho họ có của ăn hàng ngày. Họ
không tích trữ của cải vì họ biết sẽ không mang theo được khi từ giã cõi đời;
vì thế, họ lo tích trữ của cải tinh thần như Chúa dạy. Hiệu quả là họ có bình
an, có hạnh phúc, và nhất là cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân
dành cho họ.
Các Bài Đọc hôm nay nêu bật những tấm gương sẵn sàng hy sinh
quên mình để làm gương sáng và đi tìm những gì đã mất. Trong Bài Đọc I, tác giả
Sách Maccabees muốn đề cao tấm gương anh hùng của kinh-sư Eleazar. Ông nhất định
không chịu giả vờ tuân lệnh vua ăn thịt, cho dù các bạn ông đã lập mưu cho biết
thịt ông sẽ ăn không phải là thịt heo. Khi làm như thế, ông biết sẽ lãnh nhận
cái chết, nhưng ông sẵn sàng chấp nhận để làm chứng nhân cho Thiên Chúa và làm
gương sáng cho thế hệ mai sau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu gọi đích danh Zachaeus
và ngỏ lời muốn cư ngụ tại nhà ông; cho dù biết miệng đời sẽ phê bình Ngài là
người tội lỗi vì đã giao tiếp với những tội nhân công khai như Zachaeus.
Zachaeus cũng chấp nhận mất hết của cải cho người nghèo để sống theo lời mời gọi
của Đức Kitô.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Có được giả vờ ăn thịt cúng?
1.1/ Có nên giả vờ ăn thịt cúng? Vua Antiochus biết người Do-thái
theo truyền thống không bao giờ ăn thịt heo, thú vật mà họ cho là dơ bẩn; nên để
thử người nào có theo đạo nhà vua truyền hay không, vua bắt họ ăn thịt heo sau
khi đã cúng cho thần. Có một người Do-thái tên là Eleazar, một trong những kinh
sư quan trọng tuy tuổi đã cao nhưng trông rất đẹp lão; ông bị ép phải há miệng
ăn thịt heo. Nhưng ông thà chết vinh hơn sống nhục, nên đã tự ý tiến ra nơi
hành hình, sau khi đã khạc nhổ hết thịt ra. Ông đã làm như vậy theo thói thường
của những người can đảm là từ chối những thứ Luật Lệ không cho phép ăn, dù phải
ăn để sống.
Vì quen biết ông Eleazar đã lâu năm, nên những người chủ toạ bữa
tiệc cúng thần trái với Lề Luật, kéo riêng ông ra một chỗ. Họ khuyên ông và
truyền người ta đem thịt đến, thứ thịt được phép dùng, tự tay ông dọn lấy, rồi
chỉ giả vờ ăn thịt cúng, như vua đã truyền. Nếu ông theo họ làm như vậy, ông sẽ
thoát chết, lại còn được đối xử nhân đạo, vì trước kia ông đã xử tốt với họ.
1.2/ Lập trường của kinh-sư Eleazar: Cho dù ông biết thứ thịt đó
không phải là thịt heo mà Lề Luật cấm, ông cũng không ăn vì hai lý do chính sau
đây:
(1) Tránh gương mù và làm gương sáng cho thế hệ trẻ: Ông nói:
"Ở tuổi chúng ta, giả vờ là điều bất xứng, e rằng có nhiều thanh niên sẽ
nghĩ là ông già Eleazar đã chín mươi tuổi đầu, mà còn theo những lề thói dân
ngoại. Rồi bởi tôi đã giả vờ và ham sống thêm một ít lâu nữa, nên họ bị lầm lạc
vì tôi, còn tôi thì chuốc lấy vết nhơ và ô nhục cho tuổi già." Không những
thế, tuổi trẻ họ còn cần những tấm gương anh hùng để noi theo và mạnh mẽ giữ đạo,
nên ông tiếp tục nói: "Vậy giờ đây, khi can đảm từ giã cuộc đời, tôi sẽ tỏ
ra xứng đáng với tuổi già, và để lại cho đám thanh niên một tấm gương cao đẹp về
cái chết tự nguyện và cao quý, vì đã trung thành với các Lề Luật đáng kính và
thánh thiện."
(2) Con người không giấu được Thiên Chúa dù chỉ ý nghĩ trong đầu:
Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn trong tâm hồn con người. Ngài phán xét
theo ý hướng bên trong; chứ không theo dáng vẻ bên ngoài, nên ông Eleazar nói:
"Dù hiện nay tôi có tránh được hình phạt của người ta, thì sống hay chết
tôi cũng sẽ không thoát khỏi bàn tay của Đấng Toàn Năng." Khi sắp chết vì
đòn vọt, ông lên tiếng cầu nguyện: "Đức Chúa là Đấng thông suốt mọi sự, hẳn
Người biết là dù có thể thoát chết, nhưng tôi vẫn cam chịu những lằn roi gây
đau đớn dữ dằn trong thân xác, còn trong tâm hồn, tôi vui vẻ chịu khổ vì lòng
kính sợ Người."
2/ Phúc Âm: Ông Zachaeus, người thu thuế, trở về với Chúa.
Tại thành phố Jericho hiện nay vẫn còn một cây sung rất to lớn,
được vây quanh kỹ lưỡng cho khách hành hương đến thăm viếng. Họ gọi đây là cây
sung mà ông Giakêu đã trèo lên để gặp Chúa Giêsu.
2.1/ Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Zachaeus: Ông được
mô tả là người đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông tìm cách
để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà
ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức
Giêsu, vì Người sắp đi qua đó. Chúa Giêsu đã nhận ra ông giữa bao nhiêu người
trong đám đông, và người đi bước trước để bắt đầu tiến trình hòa giải với ông:
"Này ông Zachaeus, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!"
2.2/ Ba phản ứng khác nhau của cuộc gặp gỡ:
(1) Đám đông: Họ xầm xì với nhau: "Nhà người tội lỗi mà ông
ấy cũng vào trọ!" Đối với người Do-Thái, những người thu thuế và gái điếm
được coi như là những người tội lỗi công khai. Ai giao tiếp hay làm bạn với họ,
cũng được coi là tội lỗi.
(2) Ông Giakêu: Khi nghe Chúa Giêsu ngỏ lời muốn đến nhà, ông vội
vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. Khi nghe mọi người xầm xì và biết rõ
mình là người tội lỗi, ông thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, phân nửa tài sản
của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền
gấp bốn."
Đây là một lời tuyên xưng đột xuất, nhưng chân thành phát xuất từ
trái tim của Zachaeus. Có lẽ Chúa Giêsu là người Do-thái đầu tiên không quan
tâm đến tội lỗi và quá khứ của ông; vì đối với người Do-thái quá khích, ông có
thể mất mạng vì đã cấu kết với ngoại bang để bóc lột dân chúng. Ông có lẽ đã
nghe nhiều lời truyền tụng về Chúa Giêsu nên ông tò mò leo lên cây sung để mong
được nhìn thấy Ngài. Ông không ngờ Chúa Giêsu gọi đích danh ông và mở miệng muốn
vào nhà ông như một người bạn đã quen biết lâu năm. Khi Zachaeus chấp nhận trở
về với Thiên Chúa, ông phải can đảm từ giã nếp sống cũ tội lỗi và bắt đầu cuộc
sống mới theo tiêu chuẩn của Tin Mừng. Khi Zachaeus sẵn sàng hứa sẽ san sẻ phân
nửa tài sản cho người nghèo, và đền gấp bốn cho những ai ông đã lỗi đức công bằng
với họ, lời hứa này có thể lấy đi tất cả những gì ông đang có; nhưng không thể
so sánh với niềm vui được Chúa Giêsu tha thứ và đến viếng thăm.
(3) Chúa Giêsu: Ngài nói với ông ta rằng: "Hôm nay, ơn cứu
độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham; vì Con
Người đến để tìm và cứu những gì đã mất." Tuy Chúa Giêsu biết rõ những lời
dị nghị, nhưng Ngài không quan tâm tới. Chỉ một điều Ngài quan tâm là ông
Zachaeus, vì Ngài muốn đưa ông trở về với Thiên Chúa; và đó cũng chính là lý do
tại sao Ngài đến trần gian.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải hy sinh quên mình trước khi tìm thấy được những
gì đã mất hay đang mong muốn. Ngược lại, nếu chúng ta chỉ biết ích kỷ giữ cho
mình, chúng ta sẽ mất luôn những gì chúng ta đang sở hữu.
- Người biết rõ mình là người tội lỗi như ông Zachaeus dễ ăn năn
trở lại hơn người dở dở ương ương, nửa nóng nửa lạnh, hay không tốt lành cũng
chẳng tội lỗi quá. Nguy hiểm của chúng ta không phải tội lỗi, nhưng ở thái độ tự
nhận mình là người công chính và không cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
17/11/15 THỨ BA TUẦN 33 TN
Th. Ê-li-sa-bét Hung-ga-ri
Lc 19,1-10
Th. Ê-li-sa-bét Hung-ga-ri
Lc 19,1-10
Suy niệm: Ơn cứu độ nơi Đức Ki-tô là ơn cứu độ phổ quát
nghĩa là dành cho mọi người, không loại trừ ai. Thế mà ông Da-kêu lại bị loại
trừ! Muốn nhìn thấy Đức Giê-su mà không được vì ông là người thấp bé: ông bị
mất hút giữa đám đông! Ông còn bị cả xã hội Do thái loại trừ vì ông làm nghề
thu thuế, một nghề bị coi là tội lỗi! Nhưng Đức Ki-tô không loại trừ ông. Chúa
nhìn thấy tấm lòng thành của Da-kêu (‘chạy tới phía trước’, ‘leo lên
cây sung’). Thế là Người ‘nhìn
lên gọi’, và
đến ‘trọ nhà’ ông.
Kết quả của cuộc gặp gỡ ấy là Da-kêu vui mừng vì được tiếp đón Chúa (được cứu độ). Bởi vì khi để cho Chúa ‘đụng chạm’ đến, ông đủ sức phá đổ mọi hàng rào ngăn cách giữa
mình với anh em.
Mời Bạn: Có
khi nào bạn chợt nhận ra mình đã trở thành “đám đông” một thứ rào cản khiến
người khác không đến được với Đức Ki-tô không? Hoặc bạn nghĩ bạn đang nắm giữ
ơn cứu độ, còn họ thì không? Bạn nhớ Chúa Ki-tô, chứ không phải bạn, là người
đem lại ơn cứu độ cho họ! Vậy hãy có thái độ tôn trọng những anh em tôn giáo
bạn, và biết đối thoại về những giá trị cao đẹp chứa đựng trong niềm tin của họ.
Sống Lời Chúa: Chọn
đọc một trong những đoạn Phúc Âm: - Ga 4: người phụ nữ Sa-ma-ria; - Lc 7,1-10:
viên sĩ quan Rôma; - Mt 15,21-27: người đàn bà Ca-na-an, để thấm nhuyễn tinh
thần phổ quát của ơn cứu độ.
Cầu nguyện: Giê-su ơi, xin Lời Chúa và Thánh Thể mà con được diễm phúc lãnh
nhận trở nên niềm vui, nguồn hạnh phúc cho con, để con trở nên đẹp hơn và xích
lại gần anh em con hơn.
Xuống mau đi
Giakêu dạy cho chúng ta biết cách tìm kiếm Chúa
trong đời. Phải ước ao cho mãnh liệt, rồi ta sẽ được soi sáng để tìm ra con đường...
Suy niệm:
Ở thành phố Giêricô không
chỉ có anh mù Báctimê ngồi ăn xin,
mà còn có ông Giakêu, đứng
đầu các người thu thuế.
Ông là người giàu có, nhưng
thật ra ông là người nghèo,
vì ông bị mọi người khinh rẻ
bởi cái nghề thu thuế của ông.
Giakêu đi chung với đám
đông, theo sau Đức Giêsu.
Ông có một khao khát mãnh
liệt là được thấy mặt Ngài,
vì chắc ông đã nghe nhiều
người nói về vị ngôn sứ khác thường ấy.
Giêsu không khinh giới thu
thuế, trái lại còn kết bè kết bạn với họ.
Giêsu là ai? Đó là người ông
tìm cách gặp mặt (c. 3).
Có hai cản trở khiến cho
cuộc gặp gỡ trở nên khó khăn.
Đám đông vây quanh Đức Giêsu
khiến ông không thấy Ngài.
Hơn thế nữa, thân hình ông
lại thấp bé.
Nhưng Giakêu không dễ nản
lòng.
Ông chạy đón đàng trước và
leo lên một cây sung để thấy Đức Giêsu,
vì ông biết thế nào Ngài
cũng đi qua đó.
Như thế ông đã vượt qua được
đám đông và sự thấp bé của mình.
Để vượt qua thì phải chạy
chứ không đi từ từ,
và phải vất vả leo lên cao,
vượt lên trên cái tôi nhỏ bé.
Giakêu khao khát đến mức nào
mới dám nghĩ và dám làm như vậy.
Điều mà Giakêu không ngờ là
Đức Giêsu đã dừng lại nơi cây sung,
và ngước mắt nhìn lên ông
đang nằm bò trên cây như một đứa trẻ.
Ánh mắt của Ngài kéo theo
hàng trăm cái nhìn khác của đám đông.
Giakêu chắc xấu hổ luống
cuống, còn Đức Giêsu thì hạnh phúc tràn trề.
Dường như Ngài quên đám
đông, để chỉ nghĩ đến con chiên lạc này.
“Giakêu, xuống nhanh đi, vì
hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (c. 5).
Đây là một lời hối thúc dịu
dàng và một đề nghị bất ngờ.
Giakêu ngỡ ngàng kinh ngạc
trước ánh mắt ấy, lời nói ấy.
Ông đã nhanh chóng leo xuống
và dẫn Đức Giêsu về nhà mình.
Đường từ gốc sung về nhà ông
bao xa, ta không biết,
nhưng chắc chắn đó là đoạn
đường đầy niềm vui.
Giakêu bỗng thấy mình mất đi
mặc cảm tự ti, lấy lại được danh dự,
vì Đức Giêsu sắp đến nhà
ông, căn nhà ít ai muốn đến (c. 7).
Ông chỉ muốn thấy mặt Ngài,
còn Ngài lại muốn vén mở lòng mình.
Cách cư xử của Ngài đối với
một người tội lỗi như ông
đã làm lòng ông tan chảy và
mời gọi ông đổi đời.
Những thứ ông từng say mê,
bây giờ chẳng có gì hấp dẫn.
“Tôi xin cho người nghèo nửa
tài sản của tôi…” (c. 8).
Giakêu đã hoán cải một cách
bất ngờ, tự nguyện, sâu xa và cụ thể.
Cuộc đổi đời của Giakêu là
kết quả của việc hai người đi tìm nhau.
Không phải chỉ Giakêu mới là
người đi tìm.
“Con Người đến để tìm và cứu
những gì đã mất” (c. 10).
Giakêu dạy cho chúng ta biết
cách tìm kiếm Chúa trong đời.
Phải ước ao cho mãnh liệt,
rồi ta sẽ được soi sáng để tìm ra con đường,
ngay cả khi ở trong tình
huống tưởng như tuyệt vọng.
“Hôm nay ơn cứu độ đã đến
cho nhà này” (c. 9).
Giakêu đã quảng đại và vui
sướng mở lòng để đón lấy ơn cứu độ đó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều
dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ
khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Đấng vô tội
mà lại đứng chung với các
tội nhân,
chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng
hành
với phận người mỏng dòn yếu
đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết
thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của
mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo
tưởng,
thành thật để khỏi tự dối
mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng
con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động
cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa
đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho
chúng con
niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và
được yêu mến.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm
Hồn Lên
17 THÁNG MƯỜI MỘT
Ân Sủng Thánh Hóa Tình Cảm Nhân Loại
Sự đồng ý đón nhận nhau giữa một người nam và một người nữ khi họ
cử hành hôn nhân Kitô giáo không chỉ là một diễn tả tình cảm nhân loại mà hai
người cam kết trọn đời. Họ nói ‘vâng’ với nhau trong đức tin, một đức tin mà họ
dứt khoát chọn lựa cho cả đời mình. Mầu nhiệm này của cuộc hôn nhân giữa họ là
một phản ảnh của sự kết hợp thần nhiệm và của tình yêu phu phụ giữa Đức Kitô và
Giáo Hội.
Vì thế, hôn nhân giữa hai Kitôhữu trước hết là một hành vi của đức
tin. Tình cảm nhân loại của họ được chuyển hóa và được làm cho nên thánh thiện
nhờ ân sủng. Vì họ đã ký thác tình yêu và cuộc hôn nhân của họ cho Thiên Chúa,
nên Ngài nhất định sẽ bảo vệ và nuôi dưỡng nó bằng ân phúc của Ngài. Chính Đức
Kitô cho biết rằng ở đây không chủ yếu là tự họ ràng buộc với nhau, mà đúng hơn
chính Cha trên trời đang ràng buộc họ với nhau. Và công việc quan trọng đệ nhất
của họ là liệu sao để không phá vỡ sự kết hợp thánh thiện này.
Một đôi vợ chồng sẽ thành công trong việc bảo vệ cuộc hôn nhân của
mình nếu họ nhớ rằng chính Thiên Chúa đã trở thành người bảo vệ sự kết hợp giữa
họ. Và khi họ trải qua những khó khăn trong cuộc sống hôn nhân, họ sẽ chạy đến
với Thiên Chúa trong lòng tin tưởng vững vàng vào sự quan phòng và vào tình yêu
thương của Ngài.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong
Gia Đình
NGÀY 17-11
Thánh nữ Êlisabeth Hungari
2Mcb 6, 18-31; Lc 19, 1-10.
LỜI SUY NIỆM:”Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi
phải ở lại nhà anh!”
Da-kêu là người đứng đầu những người thu thuế, (quan niệm thời bấy
giờ: gái điếm và thu thuế được xem là hạng người tội lỗi). Bị loại ra khỏi
cộng đồng, mọi chung đụng giao tiếp với hạng người này sẽ trở thành ô uế.
Da-kêu, biết mình là vậy, nhưng khi nghe Chúa Giêsu sẽ đi ngang qua khu vực ông
đang sống, Da-kêu đã không e ngại, không sợ sệt đám đông. Da-kêu đã trèo lên
cao cho được nhìn thấy Chúa, chỉ mong được nhìn thấy. Thế mà Da-kêu đã được
Chúa Giêsu thấy ông, gọi đúng tên ông và gợi ý muốn trú ngụ trong nhà của ông.
Sự gặp gỡ này đã biến đỗi đời ông “Thưa Ngài, đây phần nửa gia sản của tôi, tôi
cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”.
Điều này, mỗi người trong chúng ta cũng phải tự xét mình lại: Mình có thật sự
đã gặp được Chúa chưa? Tâm hồn và thân xác của mình biến đổi như thế nào?
Lạy Chúa Giêsu. Da-kêu chỉ gặp Chúa có một lần, Chúa gợi ý được
trú ngụ trong nhà Da-kêu, Da-kêu chấp thuận, Da-kêu đã được biến đổi hoàn toàn
và được Chúa chúc phúc: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”. Lạy Chúa. Xin
ban
Mạnh Phương
Ngày 17-11
Thánh ELISABETH Nước Hungaria
Nữ Tu (1207 - -1231)
Em bé 4 tuổi mặc ái nhung đeo vàng, người ta dẫn tới Thuringia,
là con vua Hungaria. Tên Ngài là Elisabeth và vừa được đính hôn với hoàng tử
Luy (Louis) mười một tuổi con của Landgrave miền Thuringia, và theo thói thường
Ngài lớn lên tại cung điện Thuringia.
Elisabeth xem ra đã được tiền định với niềm vui, được cầu nguyện
hãm mình và mỗi ngày hy sinh một điều thích thú. Nếu trong cuộc chơi mà thành
công rực rỡ, Ngài không quá vui và ngừng lại. Một phần những cái người ta cho
Ngài thường là tới tay người nghèo. Nhưng Ngài sớm thấy một đau khổ khác, không
phải mọi người đều vui lòng khi thấy Ngài lớn lên trong đạo đức, tốt lành và quảng
đại như vậy. Công chúa Sophia, mẹ của Luy tức giận vì sự hoàn thiện này.
Khi bà dẫn Elisabeth với cô con gái mình tới nhà thờ, cả hai
trang điểm như công chúa thì Elisabeth lại cởi vương miện bằng đá ra mà nói
không muốn mang nó đến trước Thiên Chúa phải đội mão gai. Thế là công chúa và
con mình khinh bỉ và tuyên bố rằng: Ngài bất xứng để làm vợ của bá tước. Nhưng
khi Luy đã trở lại triều đình chàng ngây ngất vì vị hôn thê trẻ của mình. Chàng
chọn làm châm ngôn những đức tính: đạo đức, trong sạch và công bình. Chàng đã cử
hành hôn phối sớm hết sức có thể, lúc chàng 20 và nàng 14.
Năm sau họ có con đầu lòng và 2 năm sau nữa sinh con thứ. Các
đày tớ của thánh nữ nói về Ngài: "Bà kêu đến Chúa trong mọi hành vi, bà sống
khiêm tốn, rất bác ái và say mê cầu nguyện". Ngày sống của nữ bá tước được
phân phối cho công việc cầu nguyện, làm việc bác ái, cùng với các phụ nữ dệt
len cho người nghèo. Rảo quanh các làng quê phân phát các đồ cứu trợ. Luy, một
hiệp sĩ hào hùng, rất lịch thiệp, là bạn trung thành nâng đỡ Elisabeth trong đường
thánh thiện Ngài đeo đuổi. Ông yêu vợ có khuôn mặt và tâm hồn dịu hiền của
mình. Người ta thích kể lại một huyền thoại làm đẹp cuộc đời thánh nữ như sau:
Vào một ngày mùa đông. Luy đi săn về gặp vợ cong mình xuống dưới
sức nặng các đồ ăn giấu trong vạt áo. Ông hỏi: - Em mang gì đó ?
Vạch áo ra ông chỉ thấy những bó hoa hồng trắng rất đẹp không
mùa xuân nào có được. Vị bá tước xúc động vì phép lạ, Ngài ưu ái người vợ lý tưởng
của mình hơn nữa.
Còn chính thánh nữ thì tăng gấp việc bác ái. Ngài săn sóc các bệnh
nhân nghèo, cấp đồ ăn cho họ, băng bó các vết thương. Vào một ngày thứ năm tuần
thánh, Ngài đã hôn chân các người cùi Ngài tập hợp lại. Dưới những chiếc áo
sang trọng, Ngài dấu một chiếc áo nhặm. Không ai nghi ngờ sự khắc khổ của Ngài.
Isentrude, người đày tớ theo Ngài và có nhiệm vụ đánh thức Ngài ban đêm để cầu
nguyện làm chứng: "Ngài hoàn thành những công trình bác ái trong tâm hồn
vui tươi và không đổi nét mặt".
Chính Elisabeth đã nói về những người nhân đức mà mặt mày ủ dột:
"Họ có vẻ muốn làm khiếp đảm Thiên Chúa nhân lành. Trong khi Ngài yêu
thích những kẻ cho một cách vui tươi".
Luy phải ra trận. Đây là lúc nữ bá tước đau đớn nhất và tăng gấp
lời cầu nguyện và đánh tội. Thánh nữ vẫn thường bối rối lo sợ có những bất công
mà lãnh Chúa thường gặp phải. Gặp buổi đói ăn, thánh nữ nhiệt thành nâng dỡ người
nghèo. Phân phát hết lúa gạo dự trữ, Ngài hy sinh cả nữ trang và đá quí, Ngài
thiết lập những nhà thương. Dân chúng gọi Ngài là "mẹ". Khi chồng trở
về, thánh nữ thường cười nói: - Em đã dâng cho Thiên Chúa cái thuộc về Ngài bảo
vệ của cải của chúng ta,
Nhưng đã đến lúc những thử thách lớn lao đưa Elisabeth tới đỉnh
cao thánh thiện. Luy tham gia đoàn quân thánh giá và vong mạng năm 1227. Vài
ngày sau thánh nữ sinh hạ người con thứ ba. Ngài như điên lên vì đau đớn, nhưng
đã chứng tỏ lòng đai độ từ bỏ thánh nữ đã có từ buổi thiếu thời. Hình ảnh cổ
truyền còn diễn tả thánh nữ, bị người em bất xứng của Luy xua đuổi và cấm dân
chúng không được cho trú ngụ, khóc lóc ôm con nhỏ đi vào đường mòn sỏi đá giữa
mùa đông lạnh lẽo với hai người con níu bên tay...
Thực tế là người em rể đã một thời không cho Ngài được thừa hưởng
của cải của chồng Ngài. Elisabeth từ chối mọi thỏa hiệp với ông ta và không muốn
nhận được cấp dưỡng bằng cái Ngài coi là của cắp của dân nghèo. Ngài thích được
rẫy bỏ hơn và tự kiếm kế sinh nhai. Như thế với lương tâm Kitô giáo Ngài đã chọn
được nên nghèo khó. Thực vậy, Ngài đã phải trú ngụ trong một chuồng heo cũ và
đã biết khốn cực là gì. Người đày tớ theo Ngài kể rằng: - "Bị bắt bớ bởi
những chư hầu của chồng, thiếu mọi thứ của cải và vì thiếu thốn, Ngài đã phải gửi
con đến những miền xa để chúng được nuôi dưỡng ở đó.
Dầu vậy, Ngài vẫn cảm tạ Chúa và đã bóc lột Ngài như thế, và
trong một nguyện đường các anh em hèn mọn Ngài đã đặt tay lên bàn thờ thề hứa từ
bỏ tất cả.
Cậu của Ngài là giám mục miền Bamberg rất muốn Ngài tái giá và
còn gọi Ngài tới lâu đài Haute Francoine nơi đặt các xương cốt của chồng Ngài.
Nhận xương cốt, Ngài nguyện vâng phục và tạ ơn Thiên Chúa.
"Lạy Chúa, con yêu biết bao. Nhưng Chúa biết con không hối
tiếc việc hy sinh người yêu của con cho Chúa. Anh đã tự hiến mình cho Chúa, con
cũng hiến dâng anh con cho Chúa để yểm trợ thánh địa. Nếu được con cho cả thế
giới để đổi lấy anh, rồi chúng con cùng đi ăn xin với nhau. Nhưng con xin chứng
tỏ rằng: nếu trái với ý Chúa, con sẽ không muốn chuộc lại sự sống của anh, cả đến
sợi tóc đi nữa... Nguyện ý Chúa thành sự trong chúng con".
Người góa phụ trẻ không muốn có phần gì đối với vinh hoa trần thế
nữa, đã mặc áo dòng ba Phanxicô và dùng tiền của chồng để lại để điều hành một
nhà thương là nơi bà ngồi ăn chung với các bệnh nhân nghèo khó. Sau cùng Ngài ở
trong một ngôi nhà bằng cây vách đất. Ngài dệt vải để nuôi thân và chịu những
hy sinh cực khổ hơn nữa.
Cha giải tội của Ngài là Conrad thấy sự diụ hiền của Ngài có vẻ
tạo nên cảm tình của hai người bạn từ hồi trẻ và nay theo Ngài, nên không cho
Ngài giữ họ gần mình nữa. Thay vào đó là một đứa trẻ vô giáo dục và một bà điếc
lác khó chịu. Elisabeth đối xử với họ cách âu yếm như với bạn bè và dành lấy những
công việc gớm ghiếc nhất. Một đứa trẻ bất toại Ngài săn sóc bắt Ngài thức dậy mỗi
đêm sáu lần và chính Ngài giặt giũ áo quần hôi hám của nó. Khi đứa trẻ chết,
Ngài thayvào đó một dứa trẻ phong cùi và nói: - Tôi không đang cởi giây giầy
cho em. Đối với tôi Chúa Giêsu đang ở vào đại vị của em.
Đứa trẻ chết, lại một người bị bịnh trứng tóc sống bên Ngài. Vị
hướng dẫn còn dùng đến những cư xử nghiệt ngã lạ lùng. Nhà chép sử nói rằng:
"ông ta có thể đánh vào mặt Ngài, nhưng thánh nữ đủ mạnh để chịu dựng như
một người đang chiêm niệm. Ngài qua những giờ ngây ngất và nét mặt trở bên rực
sáng.
Nhưng Elisabeth yếu dần và qua đời lúc mới 24 tuổi, vào ngày 19
tháng 10 năm 1231. Từng đoàn người lũ lượt hành hương kính viếng mộ Ngài và đã
có rất nhiều phép lạ xảy ra tại đó. Bốn năm sau Đức giáo hoàng Gregoriô IX đã
tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh.
(daminhvn.net)
17 Tháng Mười Một
Trong Mọi
Sự, Hãy Nghĩ Ðến Cùng Ðích
Một ngày nọ, triết gia Diogene của Hy Lạp đã đến giữa chợ Athène
và dựng lên một căn lều có ghi đậm hàng chữ như sau: "Ở đây có bán sự khôn
ngoan".
Một bậc khoa cử tình cờ đi qua căn lều đọc được lời rao báo, mới
cười thầm trong bụng... Muốn biết đằng sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai
người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn
ngoan.
Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ... Anh
đưa cho Diogene 3 hào và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3
hào bỏ vào túi, triết gia Diogene nói với người đầy tớ một cách trang trọng như
sau: "Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này: Trong tất cả mọi sự,
hãy nghĩ đến cùng đích".
Vị khoa cử thành Athène vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan này.
Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi
ngày và tất cả những ai đi qua trước nhà ông đều có thể đọc thấy...
"Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích".
Có lẽ đó cũng là khuôn vàng thước ngọc mà Giáo Hội muốn ngỏ với mọi
người chúng ta trong những ngày tháng cuối cùng của năm Phụng Vụ này. Mỗi năm
qua đi: đó là hình bóng của đời người và lịch sử của thế giới này.
"Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích". Người lực
sĩ nghĩ đến phần thưởng đang chờ đợi mình. Người học sinh nghĩ đến ngày đỗ đạt
thành tài... Ðiểm đến thúc đẩy con người hăng say làm việc.
Thời Noe, mọi người ăn uống, vui chơi và cười nhạo khi ông cho
đóng tàu để phòng nạn Hồng Thủy. Ðối với họ, chuẩn bị để đương đầu với tai nạn,
chuẩn bị để làm một cuộc hành trình dài là một chuyện viển vông, là điều ngu xuẩn...
Hãy vui hưởng cuộc sống, hãy sống như thể con người sẽ không bao
giờ chết: đó là thái độ của nhiều người trong chúng ta. Sống như thế là sống
không định hướng, sống như thế là sống không mục đích. Thánh Phaolô đã gọi những
người đó là những người chỉ biết thờ cái bụng của mình...
Cái chết là cửa để bước vào cuộc sống mai hậu. Và cuộc sống mai
hậu ấy tùy thuộc vào những tích chứa, những xây dựng của chúng ta trong cuộc sống
tại thế này. Nếu trong cuộc sống này, chúng ta hướng tất cả mọi hoạt động của
chúng ta vào cùng đích ấy, nếu chúng ta hành động, suy nghĩ như thể chúng ta sẽ
ra đi tức khắc, thì chắc chắn khi bước qua ngưỡng cửa ấy, chúng ta sẽ không ngỡ
ngàng, thất vọng...
Nhưng dĩ nhiên, không phải từ sức mình, chúng ta có thể xây dựng
cho mình tương lai vĩnh cửu ấy. Sự sống trường sinh là ân ban nhưng không của
Chúa. Thiên Chúa chỉ chờ đợi nơi chúng ta sự ưng thuận và đáp trả tích cực mà
thôi... Ước gì từng suy nghĩ, từng hành động, từng gặp gỡ, từng hơi thở của
chúng ta đều là một đáp trả tích cực của chúng ta đối với lời mời gọi vào sự sống
bất diệt của Chúa. Ước gì trong tất cả mọi sự, sự khôn ngoan hướng dẫn chúng ta
chính là cõi phúc trường sinh mà Chúa đã hứa ban cho chúng ta. Ước gì trong từng
bước lữ hành về cõi phúc ấy, chúng ta có thể nếm được niềm vui và hạnh phúc
đích thực ngay trong cuộc sống này...
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét