Trang

Thứ Ba, 17 tháng 11, 2015

18-11-2015 : THỨ TƯ TUẦN XXXIII MÙA THƯỜNG NIÊN - CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG PHÊ-RÔ VÀ PHAO-LÔ

18/11/2015
Kỷ Niệm Lễ Cung Hiến Thánh Đường Th. Phêrô và Phaolô


BÀI ĐỌC I: Cv 28, 11-16. 30-31
"Như thế là chúng tôi đã trẩy đi Rôma".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Sau ba tháng, chúng tôi lên đi trên chiếc tàu Alexandria, tàu này có hiệu là Dioscuri, đã trú tại đảo (Mêlita) trong mùa đông qua. Khi đến thành Syracusa, chúng tôi lưu lại đó ba ngày. Rồi từ đó, chúng tôi đi dọc theo bờ biển mà đến Rêgiô. Ngày hôm sau, nhờ có gió nam nên hai ngày sau chúng tôi đến Putêôlô. Tại đó, chúng tôi có gặp được anh em, họ mời chúng tôi ở lại với họ bảy ngày, và thế là chúng tôi đã trẩy đi Rôma.
Khi các anh em ở Rôma nghe tin chúng tôi đến, họ ra đón rước chúng tôi tận chợ Appiô và tại Tam Quán. Khi Phaolô trông thấy họ, liền tạ ơn Thiên Chúa và được lòng trông cậy vững vàng. Khi chúng tôi đến Rôma, Phaolô được phép ở nhà riêng với người lính canh.
Suốt hai năm, ngài trú tại ngôi nhà đã thuê, tiếp nhận tất cả những ai đến gặp ngài, ngài rao giảng nước Thiên Chúa và dạy dỗ những điều về Chúa Giêsu Kitô một cách dạn dĩ, không có ai ngăn cấm. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6
Đáp: Chúa đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân (c. 2b).
Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Đáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Đáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ mừng vui và đàn ca. - Đáp.
4) Hãy ca mừng Chúa với cây đần cầm, với cây đàn cầm, với điệu nhạc du dương. Hãy thổi sáo và rúc tù và, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua. - Đáp.

ALLELUIA:
Alleluia, alleluia! - Chúng con ca ngợi Chúa là Thiên Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là chúa tể. Lạy Chúa, ca đoàn vinh quang các tông đồ ca ngợi Chúa. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 14, 22-33
"Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
(Khi dân chúng đã ăn no), Lập tức Chúa Giêsu giục các môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Đến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió. Canh tư đêm tối, Người đi trên biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa!" và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!" Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy đến!" Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con!" Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa".
Đó là lời Chúa.


Suy niệm :
Hằng năm ngày 18.11. Giáo Hội Công Giáo Roma mừng nhớ ngày thánh hiến hai đại Vương cung thánh đường Thánh Phero và Thánh Phaolo bên Roma.

Vương cung thánh đường Thánh Phero

Hoàng đế Roma Constantino năm 323 , sau khi cộng nhận đạo Công Giáo, mở ra kỷ nguyên chấm dứt thời kỳ Giáo Hội Công Giáo bị bắt bớ bách hại trong toàn đế quốc Roma, đã cho xây dựng Vương cung thánh đường trên ngôi mộ Thánh Phero ở chân đồi Vatican. Phần phía Nam của thánh đường nằm ở bên phần sân diễn trò xiếc giải trí của vua chúa Roma, nơi đây Thánh Phero dưới thời Hoàng đế Nero đã bị hành quyết đóng đinh ngược tử vì đạo năm 67. sau Chúa giáng sinh.

Ngôi mộ của Thánh Phero nằm ngay dưới bàn thờ chính của đền thờ. Dưới thời Đức Giáo Hoàng Pio XII. vào thế kỷ 20. đã có cuộc khai quật khảo cổ, và tìm thấy ngôi mộ cùng dấu tích sùng kính Thánh Phero của giáo hữu thời xa xưa hồi thế kỷ thứ nhất và thứ hai.

Theo truyền thuyết kể lại, ngôi đền thờ thời Constantino được Đức Giáo Hoàng Silvester I. thánh hiến ngày 18.11.326, và ngôi đền thờ được xây dựng hoàn thành vào giữa thế kỷ thứ 4. sau khi hoàng đế Constantino qua đời.

Trong thời kỳ các Đức Giáo Hoàng sống lưu vong ở Avignon bên Pháp từ 1309 - 1377, đền thờ bị xuống cấp hư hại. Nhưng sau đó từ năm 1450 đền thờ được sửa chữa lại. Sau cùng dười thời Đức Giáo Hoàng Julius II. năm 1506 ngôi đền thờ cũ có tuổi thọ 1200 năm bị phá hủy hoàn toàn. Và ngài đặt viên đá đầu tiên xây dựng ngôi đền thờ mới như đang thấy ngày nay.

Công trình xây dựng đền thờ mới do Kỹ sư Bramente vẽ họa đồ và Kỹ sư Michelangelo thực hiện. Công việc xây dựng kéo dài trên 100 năm. Ngôi đền thờ mới cũng được xây ngay trên ngôi mộ của Thánh tông đồ Phero, và là thánh đường lớn nhất của Giáo Hội Công Giáo. Đức Giáo Hoàng Urbano VIII. đã làm phép thánh hiến khánh thành ngôi đền thờ mới cũng vào ngày 18.11.1626, mà trước đó 1300 năm ngôi đền thờ cũ thời vua Constantino ngày 18.11. 326 cũng đã được làm phép thánh hiến.

Đền thờ Thánh Phero là công trình xây dựng trổi vượt về hình thức nghệ thuật, và mang ý nghĩa trung tâm điểm của Giáo Hội Công Giáo hoàn cầu.

Công trình này được các vị kỹ sư cùng điêu khắc danh họa góp công sức thực hiện từ Bramante đến Raffael, Peruzzi, Michaelangelo, Giacomo della Porta, phần trang trí nghệ thuật do những kiệt tác của danh họa thiên tài Michaelangelo, Bernini và nhiều người khác nữa.

Vương cung thánh đường Thánh Phaolô

Thánh Phaolo là vị Tông đồ dân ngoại đã loan truyền tin mừng Chúa Giêsu Kitô từ bên vùng Trung Đông nước Do Thái sang tận Âu châu. Đi tới đâu Ông thành lập Giáo đoàn Kitô giáo, và viết 14 thư mục vụ, như nền tảng giáo lý, gửi các Giáo đoàn Kitô giáo. Và sau cùng vào khoảng năm 64. chết chịu tử vì đạo dưới thời hoàng đế Nero ở Roma.
Ngay từ năm 200 đã có bảng ghi nhớ tưởng niệm ngôi mộ Thánh Phaolô ở Via Ostia . Hoàng đế Constantino theo dấu chứng đó đã cho xây ngôi đền thờ ở ngoài thành Roma năm 324 để kính Thánh Phaolo, và được Đức Giáo Hoàng Sylvester thánh hiến.

50 năm sau, năm 374 Hoàng đế Theodosius I. cho xây mở rộng ngôi đền thờ to lớn thêm ra. Đến thời Đức Giáo Hoàng Leo I. ( trị vì từ 440-461) ngôi đền thờ được xây dựng hoàn thành.

Tháng Bảy 1823 ngôi đền thờ thời Constantino bị trận hỏa hoạn thiêu hủy hư hại nặng, chỉ phần hậu cung thánh với những bức tranh Mosaic từ thế kỷ thứ 5. và 13. còn nguyên vẹn không bị cháy.

Ngôi đền thờ mới kính thánh Phaolo ngoại thành được xây dựng lại ngày 10.12. 1855 dưới thời Đức Giáo Hoàng Pio IX. được làm phép thánh hiến.

Trong vương cung thánh đường Thánh Phaolo ở trên phần đầu tường chung quanh có hình vẽ khắc kiểu Mosaic các Đức Giáo Hoàng của Hội Thánh Công Giáo từ Thánh Phero, vị giáo hoàng tiên khởi cho tới vị Giáo hoàng đương kim.

Ngày 25.01.1959, vào ngày lễ kính Thánh Phaolo tông đồ trở lại, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. trong đền thờ này đã tuyên bố mở Công đồng chung Vaticano II. 1960-1965

Đền thờ gọi là ngoại thành, vì nằm ở ngoài tường thành Roma do hoàng đế Aureliano xây bức tường bao quanh Roma năm 271 để ngăn chống các tấn công của các sắc dân từ bên ngoài vào trong thành Roma.

Biểu tượng ý nghĩa thần học

Hai ngôi đền thờ vĩ đại Thánh Phero và Thánh Phaolo ở Roma không chỉ to lớn bề thế về công trình lối kiến trúc đồ sộ vững chắc, và những trang hoàng ấn tượng mang dấu ấn rất nghệ thuật thời trung cổ có một không hai từ xưa nay. Nhưng hai ngôi đền thờ còn là hình ảnh nói lên dấu chỉ về Thiên Chúa vô hình đang hiện diện giữa con người, với những hàng cột cao trong ngoài thán đường, những vòm chỏm tháp vươn cao lên không trung giữa thiên nhiên, những mầu sắc hài hoà của những tảng đá cẩm thạch cùng đường vân thiên nhiên hòa hợp với ánh sáng chiếu tỏa sự trong sáng nét đẹp của thiên nhiên.

Có thể nói được những ý tưởng mà các vị Kỹ sư và các vị danh Họa điêu khắc đã khắc ghi vào công trình gỗ đá xây dựng hai ngôi đền thờ này, bắt nguồn như thức ăn gợi hứng cho họ là con người, là người có lòng tin vào Chúa, là kỹ sư kiến trúc, là nhà danh hoạ chuyên môn, từ ba cuốn sách về thiên nhiên, cuốn sách Kinh Thánh và cuốn sách về Phụng vụ.

Vì thế, hai ngôi đền thờ kết hợp được cả ba mặt kiến trúc trong thời đại trần gian, về lịch sử ơn cứu độ của Chúa phần thiêng liêng, như Kinh thánh thuật lại, và về phụng vụ, nơi con người trần thế cử hành lễ nghi thờ phượng Thiên Chúa.

Hai ngôi đền thờ được xây dựng để kính hai Thánh tông đồ Phero và Phaolo, nhưng họ không phải là nền tảng cho hai đền thờ này. Chính Chúa Giesu Kitô mới là đá nền tảng niềm tin cho đền thờ ( 1 cor 3,10-11). Vì nơi hai đền thờ này mỗi khi mọi tín hữu Chúa Kitô tụ họp đọc kinh cầu nguyện, cử hành nghi lễ phụng vụ , là tưởng niệm sự sinh ra, chịu chết và sống lại của Chúa Kitô. Đó là nền tảng đức tin của Kitô giáo.

Chúa Giêsu Kito là đá tảng nâng đỡ cho ngôi đền thờ đức tin của Giáo Hội được vững chắc. Nơi Chúa Giêsu chúng ta học và đọc được Lời của Chúa, cũng như từ nơi Ngài Giáo Hội nhận được sức sống, giáo lý và sự sai đi đến với con người.

Hai ngôi đền thờ này như hình ảnh biểu tượng cho Giáo Hội Công Giáo Roma, cũng đã trải qua những lần bị hư hại xuống cấp, bị hỏa hoạn cháy thiêu rụi, và được sửa chữa lại, xây dựng mới lại. Hai ngôi đền thờ kiến trúc công trình nghệ thuật đứng vững từ hàng bao thế kỷ nay là do luôn được quyét dọn, tân trang bảo trì sửa chữa liếp tục.

Đời sống trong Giáo Hội cũng vậy, có những giai đoạn thoái hóa lên xuống về mặt tinh thần đạo giáo cũng như tổ chức điều hành quản lý. Những khúc ngoặt hay bóng tối đó gây ra những tiếng tăm không tốt, hậu qủa tiêu cực.

Nhưng đồng thời đó cũng là dịp tốt để Giáo Hội nhìn ra biết mình mà điều chỉnh sửa chữa làm mới lại cho tốt lành đúng như ý Chúa muốn, cùng là nhân chứng cho Chúa giữa lòng xã hội con người trần thế. Có thế ngôi nhà đức tin Giáo Hội mới đứng vững được.
_______________________

Hai ngôi đền thờ Thánh Phero và Thánh Phaolo ở Roma như cột trụ của Giáo Hội Công Giáo vừa về mặt tinh thần vừa về mặt kiến trúc cùng bề thế.

Hai vị Thánh tông đồ này cùng được mừng kính chung trong một lễ mừng ngày 29.06. hằng năm.

Và hai ngôi đền thờ kính hai vị Thánh cùng được mừng nhớ đến ngày thánh hiến chung ngày 18.11. hằng năm.

Thánh Phaolo viết nhắn nhủ về Giáo Hội Chúa Kitô:

„Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: "Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông A-pô-lô, tôi thuộc về ông Kê-pha, tôi thuộc về Đức Ki-tô.“ (1 cor 1,12)….
„Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên.7 Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể.Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên.“ (1 cor 3,6-9).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long


Thứ Tư sau Chúa Nhật 33 Quanh Năm


Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Mcb 7, 1. 20-31
"Ðấng Sáng Tạo vũ trụ sẽ trả lại cho các con tinh thần và sự sống".
Trích sách Macabê quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, bảy anh em bị bắt cùng với thân mẫu, và thừa lệnh nhà vua, người ta dùng gậy và roi gân bò đánh đập họ, bắt buộc họ ăn thịt heo mà luật đã cấm.
Ðặc biệt là bà mẹ đáng ca tụng và ghi nhớ: chỉ trong một ngày, bà chứng kiến bảy con mình chết, bà vui lòng chịu đựng và trông cậy vào Thiên Chúa. Bà đầy khôn ngoan, dùng tiếng của cha ông, can đảm khuyên bảo từng đứa con; bà dùng sự hăng say nam nhân mà nâng đỡ tâm hồn phụ nữ của bà. Bà nói với các con: "Mẹ không biết các con đã thành hình trong lòng mẹ ra sao, vì không phải mẹ ban cho các con tinh thần, linh hồn và sự sống, cũng không phải mẹ sắp đặt các chi thể của mỗi con, nhưng là Ðấng Sáng Tạo vũ trụ, Người đã dựng nên loài người, và sáng tạo mọi sự với lòng nhân hậu. Người sẽ trả lại cho các con tinh thần và sự sống, vì giờ đây các con coi rẻ mạng sống các con để bảo vệ luật pháp của Người".
Vua Antiôcô tưởng rằng lời lẽ ấy khinh thị và lăng nhục ông. Bởi thế, đối với đứa con út của bà còn sống, không những ông dùng lời dụ dỗ cậu, ông còn thề hứa với cậu sẽ làm cho cậu được sung sướng giàu có, nếu cậu chối bỏ lề luật của cha ông, sẽ coi cậu như bạn hữu của ông và ban cho cậu nhiều tước lộc. Nhưng cậu không quan tâm đến những lời dụ dỗ ấy, nhà vua liền cho gọi mẹ cậu đến và khuyên bà nhủ bảo con, để cứu lấy mạng sống con mình. Khi nhà vua đã dài lời khuyến khích bà, bà nhận lời thuyết phục con. Vậy bà cúi sát vào con bà, đánh lừa nhà vua độc ác ấy; bà còn dùng tiếng của cha ông mà nói rằng: "Hỡi con, hãy thương mẹ đã cưu mang con chín tháng trong dạ, đã cho con bú sữa trong ba năm, đã nuôi dưỡng và dẫn dắt con cho tới tuổi này. Con ơi, mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất, và tất cả mọi sự trong đó; con biết rằng Thiên Chúa đã tác tạo những vật đó và loài người từ hư vô, nên con đừng sợ tên lý hình này, một hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con và hãy nhận lãnh cái chết, để nhờ lòng lân tuất của Chúa, mẹ sẽ gặp con cùng với các anh con".
Bà mẹ vừa dứt lời thì cậu con út lên tiếng rằng: "Các ông còn chờ gì nữa? Tôi không tuân lệnh nhà vua đâu, nhưng tôi tuân theo lề luật mà Môsê đã ban cho cha ông chúng tôi. Còn nhà vua, là kẻ đã bày ra đủ thứ để bách hại dân Do-thái, nhà vua sẽ không thoát khỏi tay Thiên Chúa đâu".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 16, 1. 5-6. 8b và 15
Ðáp: Lạy Chúa, khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa (c. 15b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nghe điều chính nghĩa của con, xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe tiếng con thốt ra tự cặp môi chân thành! - Ðáp.
2) Bước con đi bám chặt đường lối của Ngài, chân con đã không hề xiêu té. Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời con, lạy Chúa, xin lắng tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con. - Ðáp.
3) Xin che chở con trong bóng cánh của Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan; khi thức giấc, con no thoả nhìn chân dung Chúa. - Ðáp.

Alleluia: Tv 110, 8ab
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, mọi gới răn Chúa được lập ra cho tới muôn đời. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 19 11-28
"Sao ngươi không gửi bạc Ta ở ngân hàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa, vì Người đã đến gần Giêrusalem, mà dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong giây lát. Vậy Người phán rằng:
"Có người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về. Ông cho gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng: "Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về". Nhưng các người dân của ông ấy ghét ông, sai người đi theo mà rằng: "Chúng tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi". Ðược phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu.
"Người thứ nhất đến và thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được mười nén". Nhà vua bảo: "Ðược, hỡi người tôi tớ tốt lành, ngươi đã trung tín trong điều nhỏ mọn, ngươi sẽ được quyền cai trị mười thành". Người thứ hai đến thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được năm nén". Nhà vua đáp: "Ngươi cũng vậy, hãy cai quản năm thành".
"Người thứ ba đến thưa: "Tâu vua, đây nén bạc của vua, tôi còn giữ trong khăn, vì tôi sợ ngài: ngài là người hà khắc, và lấy cái ngài không gửi, gặt cái ngài không gieo". Vua phán rằng: "Hỡi đầy tớ bất lương, ta cứ lời ngươi mà xử ngươi. Ngươi đã biết ta là người hà khắc, lấy cái ta không gửi, gặt cái ta không gieo, sao ngươi không gửi bạc ta ở ngân hàng, để rồi khi ta trở về, ta có thể lấy cả vốn lẫn lời".
"Vua liền bảo những người đứng đó rằng: "Hãy lấy nén bạc của nó mà trao cho người đã có mười nén". Họ tâu rằng: "Tâu vua, người ấy đã có mười nén rồi". Vua đáp: "Ta nói cùng các ngươi: Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư dật; còn ai không có, người ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có. Còn những kẻ nghịch cùng ta, không muốn ta làm vua, hãy đem chúng ra đây và giết chúng trước mặt ta". Nói thế rồi Chúa liền dẫn họ lên Giêrusalem.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Tỉnh Thức Chờ Chúa

Cộng đoàn tín hữu Thessalonica sống trong niềm thao thức việc Chúa sắp trở lại đến độ một số người trong họ không còn muốn dấn thân làm việc nữa. Thái độ lệch lạc này không phù hợp với lời dạy của Chúa Giêsu là sống tỉnh thức chờ đợi ngày Chúa trở lại trong vinh quang. Cần phải có thái độ tỉnh thức được thể hiện bằng những việc làm tốt, chứ không phải một thái độ canh chừng thụ động. Thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Thessalonica: "Chúng tôi cầu xin Thiên Chúa cho anh em được sống xứng đáng với ơn gọi, xin Ngài dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin... Còn về ngày Chúa Giêsu Kitô quang lâm và tập hợp chúng ta về với Ngài, tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mạc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần giao động, cũng đừng hoảng sợ. Ðừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào" (2Tx 1,11; 2,1-2)
Ðó là những lời khuyên cụ thể của thánh Phaolô cho tín hữu Thessalonica đang mong chờ lần trở lại của Chúa Giêsu, và những lời đó diễn đạt những lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay: "Hãy làm lợi thêm những nén bạc được giao phó, chứ đừng đem chôn dấu nó".
Dụ ngôn nén bạc mời gọi mỗi người chúng ta ý thức trách nhiệm với tư cách là người có niềm tin. Ðức tin không là nén bạc để được cất giữ, nhưng phải được đầu tư để phát triển, sinh lợi. "Một đức tin không có việc làm là đức tin chết". Nếu chúng ta chỉ đóng khung cuộc sống đạo trong bốn bức tường nhà thờ, nếu chúng ta chỉ giản lược đức tin vào những biểu dương bên ngoài, nếu đức tin chỉ là một mớ những giáo điều phải tin, những điều răn phải giữ, thì quả thực chúng ta đang chôn chặt đức tin như gia nhân đã chôn nén bạc mà chủ đã trao: chúng ta có giữ đạo, nhưng chưa thực sự sống đạo.
Cuộc đầu tư nào cũng bao hàm những bất tất, rủi ro; một đức tin sống động cũng hàm chứa nhiều hy sinh, mất mát. Nhưng chúng ta tin rằng chính lúc chúng ta mất mát là lúc chúng ta được lợi lộc, chính lúc chúng ta quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc chết đi là khi được vui sống. Ðó phải là bài trường ca trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa vì hồng ân đức tin chúng ta đã lãnh nhận. Xin Chúa ban thêm can đảm, để đức tin của chúng ta thực sự được đầu tư trong từng giây phút của cuộc sống, để đáng được phần thưởng Chúa ban trong ngày Ngài trở lại vinh quang.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 33 TN1
Bài đọc: II Mac 7:1, 20-31; Lk 19:11-28.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa cả vốn lẫn lời.
Những ngày cuối năm là thời gian tính sổ sách của các xí nghiệp, công ty, trường học ... để xem lời lỗ thế nào, điều gì mạnh và sinh lời cần phát triển thêm nữa, điều gì yếu và lỗ lã cần phải bỏ đi. Đây cũng là thời gian để mỗi người chúng ta tính sổ với Thiên Chúa, để xem năm vừa qua chúng ta đã làm lợi hay gây thiệt hại cho Nước Chúa: điều gì lợi chúng ta sẽ tìm cách phát triển thêm, điều gì hại chúng ta phải chấm dứt ngay.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những mẫu gương tốt cũng như xấu của con người trong việc họ dùng các quà tặng Thiên Chúa ban. Trong Bài Đọc I, bà mẹ anh hùng đã can đảm khuyên nhủ và chứng kiến bảy đứa con của mình hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa; trong khi vua Antiochus đã lạm dụng uy quyền Chúa ban để sát hại các tín hữu của Ngài. Trong Phúc Âm, ông chủ, sau một thời gian vắng bóng, gọi các đầy tớ đến để tính sổ với ông về những món tiền mà ông đã trao cho họ để đầu tư sinh lời cho ông.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ.
1.1/ Bà mẹ đạo đức và 7 đứa con anh hùng: Có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua Antiochus cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Moses cấm.
(1) Lời khuyên của bà mẹ: Phúc đức tại mẫu, con cái biết kính sợ Thiên Chúa là do sự dạy dỗ và khuyên bảo của các người mẹ. Bà mẹ của bảy anh em nhà Maccabees chứng tỏ một niềm tin chắc chắn và một niềm trông cậy vững vàng vào Thiên Chúa khi Bà khuyên các con: "Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình."
(2) Chí khí can trường của người con út: Sau khi đã chứng kiến những cái chết đau thương của các người anh, nghe những lời dụ khị phóng thích và ban chức tước vinh quang của vua Antiochus, và nghe những lời khuyên khôn ngoan của mẹ; người con út nói lớn tiếng: "Các người còn chờ đợi gì nữa, tôi chẳng nghe theo lệnh vua đâu, nhưng tôi chỉ vâng theo lệnh của Lề Luật Thiên Chúa đã ban cho cha ông chúng tôi qua ông Moses. Còn vua đã bày ra đủ thứ trò độc ác để hại người Do-thái; vua sẽ chẳng thoát khỏi bàn tay Thiên Chúa.''
1.2/ Kế hoạch bắt đạo của vua Antiochus: Ngược lại với niềm tin của bà mẹ và bảy anh em nhà Maccabees, vua Antiochus ngông cuồng tin ông có quyền trên sự sống con người, và nghĩ ông có thể thay đổi niềm tin của con người vào Thiên Chúa qua việc đe dọa, tra tấn bằng những cực hình dã man, khen thưởng, ban chức tước, và giết chết; nhưng ông đã thất bại, vì họ không những đã chọn trung thành với Thiên Chúa, mà còn cảnh cáo ông về bản án đã dành sẵn cho ông ở đời sau.
2/ Phúc Âm: Ngày Chúa Phán Xét
Dụ ngôn này cũng giống như trình thuật của (Mt 25:14-30). Điểm khác biệt giữa 2 trình thuật là Lucas cho biết lý do tại sao nhà quí tộc trẩy đi phương xa: để “lãnh nhận vương quyền;” và thái độ của dân chúng: “Nhưng đồng bào ông ghét ông, nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng: "Chúng tôi không muốn ông này làm vua chúng tôi.”” Sự kiện lịch sử của dụ ngôn này là sau khi vua Herôđê Cả chết, ông chia vương quốc thành 3 miền cho 3 con: Antipas, miền Galilê; Philip, miền Jordan; và Archelaus, miền Judah. Quyết định này phải được phê chuẩn bởi hoàng-đế Augustus bên Rôma. Khi Archelaus rời bỏ Judah đi Rôma để thuyết phục Hoàng-đế, người Do-Thái cũng gởi một phái đoàn gồm 50 người đến Rôma để nói lên nguyện vọng: “Họ không muốn Archelaus cai trị họ.” Hậu quả là hoàng-đế Augustus phê chuẩn Archelaus làm vua cai trị Judah. Khán giả của Chúa Giêsu biết rõ sự kiện lịch sử này.
Dụ ngôn muốn làm sáng tỏ 3 điều:
(1) Thiên Chúa tin tưởng con người: Ngài không ấn định mức phải sinh lời; nhưng Ngài để con người tùy khả năng và sáng kiến để làm việc sinh lời. Ngài cũng không ở gần bên để xem xét, chỉ trích; nhưng trẩy đi phương xa để con người hòan tòan tự do để quyết định và làm việc.
(2) Thiên Chúa đòi con người phải tính sổ với Ngài: Tài sản được ban để sinh lời, không phải để hoang phí. Điều quan trọng hơn là để con người chứng tỏ niềm tin và tình yêu của mình cho Thiên Chúa: Người thứ nhất đến trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén.” Ông bảo người ấy: "Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành.” Người thứ hai đến trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài đã làm lợi được năm nén.” Ông cũng bảo người ấy: "Anh cũng vậy, anh hãy cai trị năm thành.”
Người thứ ba đến trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài đây, tôi đã bọc khăn giữ kỹ. Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo.” Ông nói: "Hỡi đầy tớ tồi tệ! Tôi cứ lời miệng anh mà xử anh. Anh đã biết tôi là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo. Thế sao anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng? Có vậy, khi tôi đến, tôi mới rút ra được cả vốn lẫn lời chứ!” Rồi ông bảo những người đứng đó: "Lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén.” Họ thưa ông: "Thưa ngài, anh ấy có mười nén rồi!” "Tôi nói cho các anh hay: phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi.”
(3) Phần thưởng và hình phạt: Hậu quả thu được chứng tỏ khả năng của mỗi người với Thiên Chúa. Nếu ai chứng tỏ mình xứng đáng với niềm tin của Thiên Chúa như người thứ nhất và thứ hai, Ngài sẽ tin tưởng và trao cho những trách nhiệm nặng nề hơn; vì Ngài biết họ có thể hoàn thành trách nhiệm. Còn ai không chứng tỏ mình xứng đáng với niềm tin của Thiên Chúa, lại còn tìm cách biện minh cho sự lười biếng của mình bằng cách đổ tội cho Thiên Chúa như người thứ ba, làm sao Thiên Chúa có thể tin tưởng mà trao cho sứ vụ khác? Hậu quả là Ngài sẽ lấy lại hết tất cả những gì anh có mà trao cho những người biết sinh lợi cho Ngài. Kinh nghiệm cuộc sống là một bằng chứng cho lời Chúa nói: Nếu con người không chịu chăm chỉ thực hành những tài năng đã có, chúng sẽ dần dần mất đi; nhưng nếu con người biết “văn ôn võ luyện,” tài năng càng ngày càng phát triển và đem lại nhiều lợi ích cho con người.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa dựng nên con người và mọi sự trong trời đất. Ngài trao cho con người để thay Ngài điều khiển vũ trụ. Con người không phải là chủ, họ chỉ là người quản lý, và sẽ phải tính sổ với Thiên Chúa trong Ngày Phán Xét.
- Chúng ta cần biết lý do tại sao Thiên Chúa cho chúng ta sống trên đời này: để chúng ta chứng tỏ niềm tin và tình yêu của chúng ta dành cho Ngài qua những gì chúng ta làm cho mình và cho tha nhân. Chắc chắn chúng ta sẽ phải tính sổ với Ngài trong Ngày Phán Xét.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


18/11/15 THỨ TƯ TUẦN 33 TN
Cung hiến thánh đường thánh Phê-rô và Phao-lô         
Lc 19,11-28

Suy niệm: Dụ ngôn những người đầy tớ và các nén bạc đã kết thúc với một quang cảnh vui buồn lẫn lộn. Vui vì những người đầy tớ nhận được hai nén, ba nén và năm nén bạc đã sinh lời gấp đôi, và được chủ thưởng công bội hậu. Nhưng lại buồn vì một người có tài ăn nói, biết đối đáp, lý luận, rất nhiều triển vọng thành công trên thương trường, thì lại không làm nên tích sự gì cả. Dù chỉ cần làm lợi một nén thôi, nhưng anh đã không làm, mà đem nén bạc chủ giao đi chôn giấu dưới đất và trao lại cũng một nén đó cho chủ mình. Khi chôn nén bạc xuống đất, một cách nào đó người đầy tớ cũng đã chôn một phần bản thân mình, cuộc sống anh khựng lại với những suy nghĩ rất tiêu cực và mông lung, vì không tập trung vào những chủ đích nhất định. Anh sống với nhiều phỏng đoán, đi từ nghi ngại này đến do dự khác.
Mời Bạn: Nếu không gắng sức phát huy những ơn huệ Chúa ban, vượt qua mọi khó khăn, thách đố, đời sống của ta sẽ nghèo nàn đi mỗi ngày; nó mất đi tính mạo hiểm và sự hào hứng của những giao tế mới, nhũng đầu tư, hay khám phá thành bại thật bất ngờ ở đời.
Chia sẻ: Não trạng nào đang chi phối sinh hoạt nhóm của bạn: tích cực dấn thân, hăng hái năng động hay thụ động, bàng quan như kẻ ngoài cuộc, đứng bên lề xã hội, trốn tránh thực tại?
Sống Lời Chúa: Tôi có biết tạ ơn Chúa  vì những “nén bạc” Chúa trao cho tôi  không? Và tôi đã làm gì để tạ ơn Chúa?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã trao cho con những nén bạc ơn phúc tự nhiên và siêu nhiên. Xin cho con dùng ơn Chúa để sinh lợi cho vinh quang Chúa và cho hạnh phúc của tha nhân. 

Làm ăn sinh lợi
Giữ kỹ, giữ nguyên những gì Chúa ban vẫn chỉ là một thái độ tiêu cực. Kitô hữu là người tích cực sử dụng đồng vốn nhận được để sinh lời.


Suy nim:
Khi Đức Giêsu đến gần Giêrusalem,
nhiều người nghĩ rằng Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện rồi.
Họ cho rằng khi Ngài tiến vào thành thánh lẫm liệt như một vị vua,
Nước ấy sẽ bừng tỏa trọn vẹn trên đoàn dân của Thiên Chúa (c. 11).
Thật ra Nước Thiên Chúa không đến nhanh như họ nghĩ.
Đức Giêsu còn phải chịu đau khổ, chết, rồi được phục sinh.
Sau đó Giáo Hội còn phải chờ một thời gian dài
trước khi Nước Thiên Chúa đến cách viên mãn qua việc Ngài trở lại.
Thời gian của Giáo Hội là thời gian đợi chờ,
thời gian lo làm ăn sinh lợi với những gì Chúa tặng ban.
Đó chính là ý nghĩa của dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay.
Một nhà quý tộc kia đi xa để lãnh nhận vương quyền.
Trước khi đi ông gọi mười người đầy tớ lại,
và trao cho họ mỗi người một số tiền không lớn lắm, là một đồng mina.
Ông ra lệnh: “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến” (c. 13).
Khi nhà quý tộc trở về trong tư cách là vua,
ông truyền gọi các đầy tớ lại để họ báo cáo về công việc làm ăn.
Hai người đầy tớ đầu tiên đã sinh lợi không ít.
Một người được lời thêm mười đồng, người kia được thêm năm đồng.
Cả hai được vua ban thưởng rất trọng hậu, cho cai trị các thành phố.
Còn người thứ ba trả lại cho nhà vua đồng mina anh đã nhận.
“Thưa Ngài, đồng mina của Ngài đây, tôi đã giữ kỹ nó trong khăn.”
Tất cả tội của người đầy tớ này nằm ở thái độ giữ kỹ.
Giữ kỹ thì chẳng mất gì, vẫn còn nguyên vẹn.
Nhưng giữ kỹ lại không thể làm cho đồng tiền sinh lời.
Hơn nữa, giữ kỹ là không vâng lời ông chủ trước khi đi: “Hãy lo làm ăn!”
Người đầy tớ sợ ông chủ, vì ông là người nghiêm khắc (c. 21).
Chính vì sợ làm ăn thua lỗ, sợ bị ông chủ trừng phạt
mà anh chọn thái độ chắc ăn là giữ kỹ đồng vốn trong khăn.
Thái độ này không được ông chủ, nay trở thành nhà vua, chấp nhận.
“Tại sao anh không gửi tiền của tôi vào ngân hàng,
để khi trở về, tôi mới rút được cả vốn lẫn lời chứ ?” (c. 23).
Ý của chủ là đồng tiền cần phải được đầu tư để sinh lời.
Nỗi sợ đã làm cho anh đầy tớ mất đi sự liều lĩnh cần thiết.
Bài Tin Mừng nhắc các Kitô hữu một điều cần.
Giữ kỹ, giữ nguyên những gì Chúa ban vẫn chỉ là một thái độ tiêu cực.
Kitô hữu là người tích cực sử dụng đồng vốn nhận được để sinh lời.
Ra khỏi thái độ rụt rè, sợ hãi, để dám nghĩ, dám làm việc lớn cho Chúa,
đó mới là thái độ đúng đắn của người Kitô hữu có trách nhiệm.
Nếu không liều lĩnh trong những dự tính và hành động,
nhiều nén bạc Chúa ban sẽ bị bỏ quên mãi trong khăn.
Ông chủ trong dụ ngôn thật ra không phải là người ham lời.
Ông chỉ muốn các đầy tớ trung tín trong việc rất nhỏ (c. 17).
Nhờ dấn thân làm việc cho Nước Chúa mà người Kitô hữu được lớn lên.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
18 THÁNG MƯỜI MỘT
Bản Chất Siêu Việt Của Hôn Nhân Và Gia Đình
Những người vợ và chồng phải nhận ra rằng đời sống hôn nhân và gia đình không chỉ đơn thuần là công việc của con người mà thôi. Không, chúng nằm trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, kế hoạch ấy vượt trên những tình trạng dao động của thời đại chúng ta và bất biến qua những thăng trầm của lịch sử. Với cơ chế của một sự kết hợp bất khả phân ly giữa người chồng và người vợ, Thiên Chúa muốn làm cho con người tham dự vào những mục tiêu cao nhất của Ngài, đó là thông truyền tình yêu và năng lực sáng tạo cho con người và cho mọi tạo vật.
Đó là lý do tại sao hôn nhân và gia đình cung ứng cho chúng ta một mối tương quan đặc biệt với Thiên Chúa. Đời sống hôn nhân và gia đình là những thực tại phát xuất từ Ngài và được tổ chức bởi Ngài. Gia đình bắt đầu và có đời sống của nó từ trên mặt đất này, nhưng nó được định liệu để được biến đổi trên trời. Bất cứ nỗ lực nào không dành đủ quan tâm đến bản chất siêu việt và cốt yếu này của đời sống hôn nhân và gia đình sẽ rơi vào nguy cơ không nhận hiểu thực tại sâu xa của tình yêu vợ chồng.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 18-11
Cung Hiến Thánh Đường Phêrô và Thánh Đường Phaolô
2Mcb 7, 1.20-31; Lc 19, 11-28.

LỜI SUY NIỆM: “Tôi nói cho các anh hay: phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi.”
Mỗi người trong chúng ta phải tự kiểm lại mình, mình đang có những gì, và mình đã sử dụng những cái mình đang có đó như thế nào. Nó có đem lại lợi ích cho thân xác và linh hồn của mình và tha nhân như thế nào, hay mình không dùng đến, hoặc không biết sử dụng, hay là ôm ấp riêng cho mình. Chúa Giêsu đang nói với chúng ta: “Phàm ai đã có thì sẽ được cho thêm, còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi”. Đã là con cái của Chúa, mỗi người cần phải biết: Tất cả những gì mình đang có đều là ơn ban của Chúa, chúng ta phải đem vào cuộc sống của mình, giúp cho cộng đoàn và giúp cho tha nhân, đừng để phải trắng tay khi ra trước tòa Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Mỗi người đều nhận được ơn ban của Chúa. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con biết đóng góp công sức, tài năng trong mọi sinh hoạt của Giáo xứ với sự khiêm tốn, cũng như khuyến khích nhau tham gia trong mọi sinh hoạt đoàn thể và công tác tông đồ.
Mạnh Phương


18 Tháng Mười Một
Tôi Ðã Gặp Ngài
André Frossard, một ký giả người Pháp đã cho xuất bản cuộc phỏng vấn Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II cách đây vài năm, là con của một người theo chủ nghĩa Marxit. Chính ông đã từng là một người cộng sản đầy xác tín...
Ngày nọ, ông phải đưa một người bạn đến một tu viện. Trong lúc chờ đợi người bạn, ông tò mò bước vào một nhà nguyện có đặt Mình Thánh Chúa. Ông không bao giờ nghĩ rằng Chúa đang chờ ông. Trong một phút chốc, ông bỗng nhận ra một ánh sáng thiêng liêng trong tâm hồn. Bừng dậy sau một cơn mê tăm tối, ông bước ra khỏi nhà nguyện chạy tức tốc đến người bạn và hô lớn: "Thiên Chúa hiện hữu. Ðó là một chân lý".
Ông đã ghi lại kinh nghiệm thiêng liêng ấy trong một quyển sách với tựa đề: "Thiên Chúa hiện hữu. Tôi đã gặp Người". Quyển sách đã được liệt kê vào danh sách của những tác phẩm bán chạy nhất...
Dù cho ta có chối bỏ Thiên Chúa, Người vẫn luôn luôn chờ đợi ta. Tại một góc đường nào đó, trước một ánh nến lung linh nào đó, trong một biến cố đau thương nào đó, Người đang chờ ta. Phải, Thiên Chúa như một người tình chung thủy lúc nào cũng chờ đợi ta... Chỉ có sự thất vọng, chán nản mới có thể hủy bỏ mọi hẹn hò của Thiên Chúa. Bao lâu ta còn tìm kiếm, bao lâu ta còn phấn đấu, bao lâu ta còn hy vọng, thì bấy lâu Thiên Chúa vẫn còn chờ đợi ta...
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét