19/11/2015
Thứ Năm
sau Chúa Nhật 33 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 2, 15-29
"Chúng tôi tuân theo lề luật cha ông chúng tôi".
Trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, vua Antiôcô sai người đến cưỡng bách các
người trốn ẩn tại thành Môđin cúng tế dâng hương và chối bỏ lề luật Thiên Chúa.
Có nhiều người trong dân Israel tuân lệnh đến với họ, nhưng ông Mathathia và
các con ông cương quyết không chịu theo. Các người vua Antiôcô sai đến, lên tiếng
nói với Mathathia rằng: "Ông là thủ lãnh có tiếng tăm và có uy tín trong
thành này và có nhiều con cái và anh em. Vậy ông hãy tiến lên trước tiên và thi
hành lệnh nhà vua, như hết thảy mọi dân tộc, như các người chi tộc Giuđa và những
người còn ở lại Giêru-salem đã thi hành rồi, ông và các con ông sẽ là bạn hữu của
nhà vua, sẽ được nhà vua ban cho vàng bạc và ân huệ khác". Matha-thia trả
lời và nói lớn tiếng rằng: "Cho dầu mọi dân tộc đều tuân lệnh vua Antiôcô,
mọi người đều chối bỏ lề luật của cha ông mà vâng lệnh nhà vua, phần tôi và con
cái cùng anh em tôi, chúng tôi vẫn tuân theo lề luật cha ông chúng tôi. Xin
Thiên Chúa thương đừng để chúng tôi chối bỏ lề luật và giới răn Chúa. Chúng tôi
sẽ không nghe theo lệnh vua Antiôcô, cũng chẳng cúng tế mà lỗi phạm lệnh truyền
của lề luật chúng tôi, kẻo chúng tôi đi theo con đường khác".
Ông vừa dứt lời thì có một người Do-thái tiến ra cúng thần trước
mặt mọi người, trên bàn thờ ở thành Môđin, theo chiếu chỉ của nhà vua. Thấy vậy,
Mathathia đau lòng xót dạ, ông nổi giận vì yêu mến lề luật, ông xông tới giết
ngay người ấy trên bàn thờ. Ông cũng giết luôn người vua Antiôcô sai đến để cưỡng
bách người ta cúng tế; ông lật đổ cả bàn thờ. Lòng nhiệt thành của ông đối với
lề luật cũng giống như lòng nhiệt thành của Phinê đã đối xử với Zimri con ông
Salomi.
Ðoạn Mathathia kêu lớn tiếng khắp trong thành phố rằng: "Ai
nhiệt thành với lề luật, tuân giữ lời Giao ước, hãy ra khỏi thành theo
tôi!" Ông và con cái ông trốn lên núi, bỏ lại trong thành mọi tài sản họ
có. Bấy giờ một số người còn nhiệt tâm với sự công chính và lề luật, cũng trốn
vào hoang địa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 49, 1-2. 5-6. 14-15
Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu
độ (c. 23b).
Xướng: 1) Chúa là Thiên Chúa đã lên tiếng kêu gọi địa cầu, từ chỗ
mặt trời mọc lên tới nơi lặn xuống. Từ Sion đầy mỹ lệ, Thiên Chúa hiển linh huy
hoàng. - Ðáp.
2) Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng
hy sinh lễ. Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, và chính Thiên
Chúa Người là thẩm phán. - Ðáp.
3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn
hứa cùng Ðấng Tối Cao. Ngươi hãy kêu cầu Ta trong ngày khốn khó, Ta sẽ giải
thoát ngươi và ngươi sẽ kính trọng Ta. - Ðáp.
Alleluia: x. Cv 16, 14b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để
chúng con nghe lời Con Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 41-44
"Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho
ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, trông thấy thành thì Người
khóc thương thành ấy mà rằng: "Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp
mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt
ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp luỹ bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề.
Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ
không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi
được thăm viếng".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Giờ Chúa Viếng Thăm
Nhìn trong văn mạch, biến cố được nhắc đến trong Tin Mừng hôm
nay, đi liền sau biến cố Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Nhưng không như
bao lần khác, Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem lần cuối cùng này để thực hiện cuộc
Vượt Qua đem lại ơn cứu rỗi, hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, và giữa
con người với nhau. Ðây là giờ Thiên Chúa viếng thăm, giờ mang đến ơn cứu rỗi,
tuy nhiên, những vị lãnh đạo Do thái tại Giêrusalem, như chúng ta sẽ thấy trong
cuộc khổ nạn của Chúa, họ không những từ chối, mà còn xách động dân chúng chối
bỏ Chúa, yêu cầu quan Philatô ra lệnh đóng đinh Chúa vào Thập giá và tha Baraba
cho họ. Như thế, dù có sự nồng nhiệt hoan hô Chúa khi Ngài cỡi trên lưng lừa tiến
vào thành thánh, thì sự nồng nhiệt đó cũng chỉ là thoáng qua, và Chúa Giêsu nhận
thấy ơn cứu rỗi mà Ngài mang đến bị con người khước từ hơn là đón nhận.
Ðiều xẩy ra cho thành Giêrusalem cũng có thể xẩy đến cho mỗi người
ở mọi thời: mỗi người đều có những giây phút hồng phúc được Chúa viếng thăm đem
đến ơn lành. Theo quan niệm Kinh Thánh, giây phút Thiên Chúa viếng thăm là giây
phút Ngài thực hiện lòng nhân từ. Thánh Luca đã nhấn mạnh ý nghĩa này trong hai
bài thánh ca ở đầu sách Tin Mừng của Ngài, đó là bài ca của ông Dacaria và của
Ðức Maria. Trong bài ca chúc tụng của mình, Dacaria đã nêu bật lòng nhân nghĩa
của Thiên Chúa: chính vì lòng nhân nghĩa mà "Thái dương từ cao xanh khấng
viếng thăm ta". Còn về phần mình, ý thức giờ Thiên Chúa viếng thăm đang xẩy
ra không những cho bản thân, mà còn cho cả dân tộc và toàn thể nhân loại, Ðức
Maria đã nhận định về ý nghĩa sâu xa của việc Thiên Chúa viếng thăm: "Lòng
nhân nghĩa của Người suốt đời nọ đến đời kia, trên những kẻ kính sợ Người".
Chỉ có một lý do cho cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, đó là thể hiện lòng nhân
nghĩa đối với những người được Ngài viếng thăm. Do đó, nếu không đón nhận giờ
Chúa viếng thăm, con người không những gây thiệt hại cho chính mình, mà còn cho
cả người khác nữa.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết lắng nghe tiếng Chúa cảnh tỉnh,
đồng thời biết mở rộng tâm hồn đón nhận những giây phút ân sủng của Chúa để được
sống an vui hạnh phúc.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Thứ Năm Tuần
33 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: I Mac
2:15-29; Lk 19:41-44.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm tin vững
mạnh sẽ không bị lung lay bởi cám dỗ của thế gian.
Rất nhiều người trong thế giới hôm nay chủ trương tương đối hóa
sự thật. Đối với họ, không có sự thật nào tuyệt đối, ngay cả niềm tin vào Thiên
Chúa. Vì thế, khi nào hoàn cảnh thuận tiện cho việc giữ đạo thì giữ; khi nào
hoàn cảnh không thuận tiện, chắc Chúa cũng thông cảm! Một thái độ tin tưởng như
thế sẽ từ từ đưa đến chỗ bỏ đạo ngay khi cơn bách hại tới. Ngược lại cũng có những
người không bao giờ tương đối hóa niềm tin và sự thật. Họ chỉ thờ một Chúa và sẵn
sàng sống chết cho sự thật.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những mẫu người sẵn lòng hy
sinh chết cho sự thật, dẫu phải đương đầu với biết bao gian nan khốn khó. Trong
Bài Đọc I, tác giả Sách Maccabees tiếp tục trình bày một mẫu gương anh hùng
trong việc giữ đạo là ông Mattathias và bảy người con của ông. Vì lòng nhiệt
thành bảo vệ niềm tin, ông đã không nao núng trước cám dỗ ban quyền hành chức
tước của viên quan chức; ông giết người phản bội Thiên Chúa ngay trước bàn thờ,
và tập họp nhóm người sống chết cho Thiên Chúa đưa vào sống trong sa mạc để
sinh sống. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu biết rõ những khốn khổ sẽ xảy ra cho dân
thành Jerusalem, vì họ không nhận ra Ngài đến đem bình an thật sự cho họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tôi, các con tôi và anh em tôi, chúng tôi vẫn
trung thành với Giao Ước.
1.1/ Thái độ của ông Mattathias trước cám dỗ của thế gian: Tác giả
tường thuật: "Các viên chức của vua Antiochus, những người có nhiệm vụ cưỡng
bức người Do-thái chối đạo, đã tới thành Modein để tế thần. Nhiều người Israel
đã đến theo chúng. Nhưng ông Mattathias và các con thì họp lại thành nhóm
riêng.'' Ông Mattathias và các con phải đương đầu với những áp lực sau:
(1) Phần đông con cái Israel đã bỏ đạo và tế thần: Người không
có niềm tin vững chắc sẽ dễ dàng bị hốt hoảng khi thấy phần đông dân chúng bỏ đạo.
Họ sẽ nghi ngờ những gì mình tin không biết có thật hay không. Điều này đã
không xảy ra cho người có một niềm tin vững vàng như ông tuyên xưng: "Cho
dù tất cả các dân tộc trong vương quốc của vua có nghe lời vua và ai cũng chối
bỏ việc thờ phượng của cha ông mình và tuân theo lệnh vua, thì tôi, các con tôi
và anh em tôi, chúng tôi vẫn trung thành với Giao Ước của cha ông chúng tôi.
Không đời nào chúng tôi bỏ Lề Luật và các tập tục! Chúng tôi sẽ không tuân theo
lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên
trái."
(2) Cám dỗ về uy quyền, chức tước, và bổng lộc: Đây là cám dỗ dễ
làm cho những người ham mê những lôi cuốn của thế gian rơi vào. Các viên chức của
vua lên tiếng nói với ông Mattathias: "Ông là thủ lãnh, là người có danh
giá, là bậc vị vọng trong thành này, lại được con cái và anh em ủng hộ. Vậy xin
mời ông tiến lên làm người đầu tiên thi hành chỉ dụ của đức vua, giống như tất
cả các dân tộc, các người Judah và những người còn ở lại Jerusalem đã làm. Rồi
ông và các con sẽ được kể vào số bạn hữu đức vua, sẽ được danh giá, được nhiều
vàng bạc và bổng lộc." Nhưng được lợi cả thế gian mà phải mất linh hồn, hỏi
được lợi ích gì?
(3) Có thể phải hy sinh mạng sống: Cám dỗ này được coi là nguy
hiểm nhất vì nó đe dọa bản năng sinh tồn của con người. Một người chỉ có thể vượt
qua cám dỗ này, nếu anh tin lời của Chúa Giêsu hay bà mẹ của các con nhà
Maccabees là Thiên Chúa sẽ trả lại mạng sống cho con người cùng với vinh quang
đời đời, cộng với tình yêu anh dành cho Thiên Chúa và Đức Kitô.
1.2/ Phản ứng nhiệt thành của ông Mattathias: Ông vừa dứt
lời thì có một người Do-thái công khai tiến ra tế thần trên bàn thờ ở Modein
theo như chỉ dụ của vua. Trước cảnh tượng đó, ông Mattathias bừng lửa nhiệt
thành, ruột gan ông sôi sục, lòng đạo đức khiến ông nổi giận đùng đùng: ông
nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn viên chức của vua có
nhiệm vụ cưỡng bức người Do-thái tế thần. Rồi ông phá đổ bàn thờ. Rồi ông
Mattathias rảo khắp thành và hô lớn tiếng: "Ai nhiệt thành với Lề Luật và
tuân giữ Giao Ước, hãy theo tôi!" Sau đó, ông và các con trốn lên núi, bỏ
lại trong thành tất cả tài sản. Bấy giờ, nhiều người Do-thái muốn sống công
minh chính trực đã xuống hoang địa và lập cư tại đó.
Chúng ta đừng vội kết án hành động của ông, vì chính Chúa Giêsu
cũng lấy roi đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Ngài không thể cầm
lòng khi thấy con người làm nhơ bẩn Nhà Cha của Ngài. Hơn nữa, Luật cho phép con
người phải tự vệ khi người khác muốn giết mình. Ông Mattathias và các con sẽ bị
vua Antiochus giết nếu không chịu tế thần như vua muốn.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu khóc thương Thành Jerusalem.
2.1/ Chúa Giêsu khóc: Mang thân xác con người, Chúa
Giêsu có đầy đủ cảm xúc như một con người. Tin Mừng đã tường thuật 2 lần Chúa
khóc:
(1) Vì thương Thành Jerusalem như trình thuật hôm nay (Lk
19:41). Trong Cuộc Thương Khó, chặng thứ 8 của 14 Đàng Thánh Giá, Chúa Giêsu đứng
lại yên ủi dân Thành Jerusalem vì họ khóc thương Ngài. Chúa Giêsu yên ủi họ: “Đừng
khóc thương Ta, nhưng hãy khóc thương các ngươi và con cháu của các ngươi” (Lk
23:28). Chúa Giêsu biết rõ mục đích tại sao Ngài chịu đau khổ, nhưng dân Thành
không biết. Điều có lẽ Chúa muốn nhấn mạnh cho họ biết ở đây là họ hãy khóc
thương cho chính họ và cho con cháu của họ; vì tội lỗi của họ và con cháu mà
Chúa đã phải gánh lấy Cuộc Thương Khó mà Ngài đang chịu.
(2) Vì tiếc thương Lazarô (Jn 11:35)? Nhiều người tin Chúa khóc
vì thương Lazarô không còn sống nữa; nhưng suy nghĩ này cần được xét lại vì
không có căn bản vững chắc. Có lẽ việc ông đừng trở lại thế gian có lẽ hạnh
phúc cho ông hơn vì ít lâu nữa ông sẽ cùng được chung phần vinh quang với Chúa,
và kẻ thù không có lý do để giết Chúa Giêsu. Ngài khóc là vì thấy sự chết gây
đau khổ cho con người. Ngài muốn Mary và mọi người hiểu: “Ai sống và tin vào
Ngài, sẽ không chết bao giờ” (Jn 11:25). Nếu ai cũng hiểu như thế, cái chết sẽ
là một niềm vui.
2.2/ Hai lý do tại sao Chúa khóc:
(1) Vì dân Thành Jerusalem không nhận ra Chúa: Lưng chừng Đồi
Olive, ngày nay có một nguyện đường gọi là Nguyện Đường Chúa Khóc. Truyền thống
tin chính tại đây, Chúa Giêsu đã nhìn thấy tòan bộ Đền Thánh Jerusalem và sự
huy hòang của nó, và Ngài đã khóc vì thương dân Thành. Lý do Ngài khóc vì tội
nghiệp họ đã không nhận ra Đấng đem bình an: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng
nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che
khuất mắt ngươi không thấy được.” Nguyên ngữ Jerusalem ghép bởi 2 chữ: động từ yrw,
có nghĩa là “thiết lập,” và danh từ salem, có nghĩa là “bình an.”
Chúa Giêsu là Đấng từ Trời xuống thiết lập bình an và chính Ngài đang ở giữa họ;
nhưng họ đã không nhận ra Ngài.
(2) Vì Thành sẽ bị phá hủy tan tành: “Thật vậy, sẽ tới những
ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè
bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá
nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm.” Lời
tiên tri này ứng nghiệm năm 70 AD, khi quân đội Rôma đem quân vây hãm và phá hủy
bình địa Đền Thờ và Thành. Cho tới ngày nay Đền Thờ vẫn chưa được xây lại và vết
tích của hoang tàn đổ nát vẫn còn cho các du khách viếng Jerusalem.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy có lập trường rõ rệt trong cuộc sống: Phải kính mến
và thờ phượng Thiên Chúa trên hết mọi sự; không làm tôi hai chủ cho dẫu phải hy
sinh tất cả để trung thành với Ngài.
- Con người khóc vì tiếc và vì thương. Cái khóc của con người có
thể sai vì lý do tiếc hay thương có thể sai. Cái khóc của Chúa Giêsu luôn luôn
đúng vì lý do tại sao Ngài khóc là sự thật. Chúng ta cần tìm hiểu rõ lý do tại
sao mình khóc hay thương tiếc.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
19/11/15 THỨ NĂM TUẦN 33 TN
Lc 19,41-44
Lc 19,41-44
Suy niệm: Thành Giê-ru-sa-lem thời Chúa Giê-su do vua
Hê-rô-đê Cả – người đã giết các hài nhi ở Bê-lem – khởi công xây dựng từ năm 20
tr. CN mãi đến năm 64 s. CN. mới hoàn thành, chỉ tồn tại được 6 năm thì bị
tướng Ti-tô phá bình địa, chỉ còn lại vài “bức tường than khóc” như hiện nay.
Dù thành thánh còn dang dở sau “46 năm” xây dựng (x. Ga 2,20), và dù rất mực
căm ghét Hê-rô-đê, người Do thái cũng rất tự hào về ngôi đền thờ nguy nga lộng
lẫy này. Thế nhưng, đứng từ trên cao nhìn xuống, Chúa Giê-su đã than khóc nó vì
Ngài thấy trước sẽ tới ngày “không
còn hòn đá nào trên hòn đá nào” bởi vì thánh đô đã không đón
nhận Tin Mừng bình an đến với mình.
Mời Bạn: Với
thái độ tự mãn và vụ hình thức người Do Thái đã dừng lại ở đền thờ hoành tráng,
lễ nghi trọng thể; vì thế họ đã khước từ Chúa Giê-su lẫn Tin Mừng của Ngài.
Cũng thế, nếu mang danh là tín hữu mà dừng lại ở đền thờ và những lễ nghi thì
niềm tin đó chỉ là hữu danh vô thực, và tôn giáo chỉ còn là cái xác không hồn.
Đón nhận Tin Mừng bình an của Đức Ki-tô không chỉ là “đi lễ, đọc kinh”, mà còn
là hoán cải và phục vụ trong cả cuộc sống.
Sống Lời Chúa: Khi
nhận lời chúc bình an trong thánh lễ, bạn hãy nhớ đem bình an đó đến cho người
khác bằng những hành vi bác ái.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, nhiều khi chúng con tạo nên cảm giác an toàn giả tạo
bằng việc chu toàn một số công việc đạo đức bên ngoài cho yên lương tâm. Xin
Chúa giúp con thay đổi nếp nghĩ của mình mỗi ngày bằng cách sống đức tin bằng
những việc bác ái thiết thực.
Đức Giêsu khóc
Chỉ trong Thiên Chúa mọi sự mới có nền tảng vững
bền. Nếu không, như Giêrusalem, chúng ta chỉ còn là những bức tường than khóc.
Suy niệm:
Người ta có thể khóc vì
nhiều lý do.
Khóc vì buồn thương, khóc vì
tình yêu của mình bị từ chối.
Khóc vì tiếc nuối một điều
tốt đẹp bị hủy hoại.
Một người đàn ông khóc là
chuyện không thường xảy ra.
Chính vì thế chúng ta ngỡ
ngàng khi thấy Đức Giêsu khóc.
Con Thiên Chúa nhập thể biết
đến nỗi đau của phận người.
Giọt nước mắt của Ngài cho
thấy Ngài thật sự có một trái tim.
Đức Giêsu khóc khi đến gần
và trông thấy thành phố Giêrusalem.
Trong thành Giêrusalem có
ngôi Đền thờ lộng lẫy (Lc 21, 5).
Đền thờ ấy là Đền thờ thứ
hai được xây sau khi dân lưu đày trở về.
Còn Đền thờ thứ nhất do
Salômôn xây, đã bị quân Babylon phá hủy.
Vua Hêrôđê Cả đã trùng tu và
nới rộng Đền thờ thứ hai này.
Công việc sửa sang kéo dài
từ năm 20 trước công nguyên,
đến năm 64 sau công nguyên
mới hoàn tất.
Vào thời gian này, người Do
Thái nổi dậy chống lại quân Rôma.
Vào lễ Vượt qua năm 70,
thành phố bị vây hãm (c. 43).
Đền thờ bị thiêu hủy sau tám
mươi tư năm tu sửa.
Đây là một bi kịch lớn mà
Đức Giêsu đã linh cảm với nỗi đớn đau.
Bài Tin Mừng hôm nay
nằm ngay sau biến cố Đức
Giêsu lên Giêrusalem lần cuối (Lc 19, 28).
Ngài biết đây là lần cuối,
nên giữa bầu khí tung hô của dân chúng,
Đức Giêsu lại rơi vào nỗi
đau buồn, xót xa.
Ngài sẽ là vị ngôn sứ phải
chết ở trong thành này (Lc 13, 33).
Như mọi người Do Thái khác,
Đức Giêsu quý thành phố và Đền thờ.
Thành phố Giêrusalem là thủ
đô của đất nước.
Đền thờ là nơi mỗi năm Ngài
lên đó dự các lễ lớn đôi ba lần.
Đây là nhà Cha của
Ngài, là nhà cầu nguyện (Lc 2, 49; 19, 46).
Nhưng mọi điều tốt đẹp Ngài
đang thấy, có ngày sẽ đổ vỡ tan hoang.
“Không để hòn đá nào trên
hòn đá nào” (c. 44).
Thiên Chúa là Đấng đã đi
thăm Dân Israel (Lc 1, 68; 7, 16; 19, 44).
Ngài thăm Dân Ngài qua Người
Con là Đức Giêsu (Lc 1, 78).
Ngài đến thăm để đem ơn cứu
độ, đem lại bình an (c. 42).
Hôm nay Thiên Chúa vẫn tiếp
tục đi thăm nhân loại.
Ngài vẫn sai Con của Ngài
đến với chúng ta để ban ơn bình an.
Nhưng con người hôm nay có
thể khép lòng, và để lỡ cơ hội quý báu.
“Ngài đã đến nhà mình, nhưng
người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11).
Làm sao mỗi Kitô hữu nhận ra
thời điểm Ngài đến thăm mình? (c. 44).
Thế giới Tây phương hôm nay
đang có khuynh hướng loại trừ Thiên Chúa.
Họ nhân danh tự do tôn giáo
để loại trừ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội.
Nhưng không có Trời thì ai ở
được với ai.
Nhân loại bị kéo vào những
cuộc chiến tranh, thù hận không lối thoát.
Hãy để Thiên Chúa đi vào đời
bạn và chi phối những chọn lựa của bạn.
Chỉ trong Thiên Chúa mọi sự
mới có nền tảng vững bền.
Nếu không, như Giêrusalem,
chúng ta chỉ còn là những bức tường than khóc.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên
Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của
loài người,
con của trái đất, con của
một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của
Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập
giá.
Xin cho chúng con biết yêu
mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn
lạc hậu
sau những năm dài chiến
tranh,
một quê hương đang mở ra
trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản
sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha
ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm
mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện
nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước
nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật
cụ thể
cho những đồng bào quanh
chúng con.
Ước gì chúng con biết phục
vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi
tay.
Và ước gì chúng con biết
khiêm tốn
cộng tác với muôn người
thiện chí.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm
Hồn Lên
19 THÁNG MƯỜI MỘT
Tiếng Gọi Chung Thủy
Được sinh ra từ tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, hôn nhân tìm
thấy luật nền tảng và giá trị luân lý của nó trong một tình yêu đích thực giữa
hai người. Cả vợ và chồng đều hoàn toàn dấn thân để nâng đỡ nhau. Và xuất phát
từ khát vọng chung của hai người muốn sống trung thành với tình yêu của Thiên
Chúa – là Đấng Sáng Tạo và là Cha của mình – họ sinh ra sự sống mới. Sứ mạng mà
họ lãnh nhận từ Thiên Chúa này đòi hỏi họ phải có một sự dấn thân triệt để hơn
nữa và một ý thức cao vượt hơn nữa về những trách nhiệm của họ trong tư cách là
con người và là Kitôhữu.
Họ phải không ngừng tìm cách tận dụng các ân sủng tuôn chảy từ
Bí Tích Hôn Nhân. Ân sủng bí tích này thật cần thiết để giúp họ đương đầu với
những thách đố của bao khó khăn trong cuộc sống hằng ngày. Các đôi vợ chồng
Kitôhữu tìm thấy ánh sáng và sức mạnh để giải quyết những vấn đề riêng của họ
nhờ ân sủng này. Họ có thể sống triệt để một tình yêu đích thực và phổ quát –
trước hết đó là tình yêu hướng về Thiên Chúa, vì họ phải khao khát vinh quang của
Ngài và nhiệt tình mở rộng Nước Ngài; thứ hai, đó là tình yêu hướng về con cái
họ trong ánh sáng của nguyên tắc Thánh Phao-lô: “Tình yêu không tìm ích lợi cho
riêng mình” (1Cr 13,5); và cuối cùng, đó là tình yêu hướng về nhau trong đó người
này tìm cách phục vụ người kia và hiểu được những tâm tư nguyện vọng tốt lành của
người kia. Ở đây không có sự độc đoán hay ích kỷ chen vào trong ý hướng. Không,
ở đây chỉ có một tình yêu trọn vẹn và phổ quát.
Điều này giải thích tại sao linh đạo vợ chồng đòi hỏi một nỗ lực
triệt để về luân lý và sự thánh thiện suốt đời. Nó phải được nuôi dưỡng bởi những
niềm vui và những hy sinh trong đời sống hằng ngày.
Những người vợ và chồng, anh chị em đừng cảm thấy cô đơn trong sự
dấn thân của anh chị em cho các mục đích nói trên. Thật vậy, Công Đồng nhắc anh
chị em rằng “Hôn Phu của Giáo Hội đến gặp gỡ các đôi vợ chồng Kitôhữu qua Bí
Tích Hôn Phối. Ngài vẫn ở với họ để – như Ngài đã yêu thương Giáo Hội và hiến
mình cho Giáo Hội – họ cũng yêu thương nhau bằng một tình yêu chung thủy” (MV
48). Anh chị em hãy sống tình yêu chung thủy ấy, sự chung thủy được nâng đỡ bởi
chính tình yêu của Chúa Kitô.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong
Gia Đình
NGÀY 19-11
1Mcb 3, 15-29; Lc 19, 41-44.
LỜI SUY NIỆM: “Phải chi hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho
ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được.”
Chúa Giêsu tiến về Thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia;
các môn đệ và đám đông theo Người tung hô: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến
nhân danh Chúa! Bình an trên trời cao, vinh quang trên các tầng trời” (c
19,38). Nhưng những người Pharisêu không chấp nhận Người: “Thưa Thầy, Thầy
trách môn đệ Thầy đi chứ.” Nhưng Người đáp: “Tôi bảo các ông: họ mà làm thinh,
thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên” (Lc 19,39-40). Khi đến gần Thành, Người đã
thương khóc cho Thành; Người biết trước một ngày kia Thành này sẽ sụp đổ; không
còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào; do không nhận biết Người. Đối với mỗi người
tín hữu chúng ta, Lời Chúa cũng đang cảnh báo chúng ta. Mỗi người cần phải quan
tâm đến sự hiện diện của Người trong đời sống của mình; đừng để mắt mình bị che
khuất, mà chỉ nhìn thấy những lợi lộc của trần thế và những đòi hỏi làm thỏa
mãn phần thân xác của mình.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa hằng yêu thương chúng con, Chúa muốn chúng
con được sống trong bình an của Chúa. Xin ban cho mọi thành viên trong gia đình
chúng con luôn đón nhận Chúa qua các phép Bí Tích của Giáo Hội.
Mạnh Phương
19 Tháng Mười Một
Một Lỗ Nhỏ
Trên Vách Tường
Tại một trung tâm bài phung nọ, đa số các nạn nhân đều buồn chán
vì cảm thấy bị bỏ rơi và bị mọi người xa lánh. Tuy nhiên, có một người vẫn còn
biết cười và vẫn tiếp tục tạ ơn khi được giúp đỡ.
Vị nữ tu coi sóc trung tâm muốn tìm hiểu đâu là nguyên nhân của
phép lạ này. Sau nhiều ngày theo dõi, vị nữ tu mới khám phá rằng, xuyên qua một
lỗ nhỏ trên vách tường ngăn cách trung tâm với thế giới bên ngoài, ngày ngày có
một người đàn bà đến nhìn vào và mỉm cười rất trìu mến. Ðó là tất cả sức mạnh
và niềm hy vọng của người đàn ông xấu số. Mỗi ngày, ông chờ đợi nụ cười ấy.
Khuôn mặt của người đàn bà chỉ chợt xuất hiện, mỉm cười và biến mất. Người đàn
ông duy nhất còn biết cười trong trung tâm bài phung đó đã giải thích cho vị nữ
tu như sau:
"Người đàn bà ấy chính là vợ tôi. Trước khi tôi đến đây,
nàng đã tìm đủ mọi cách để chữa chạy tôi. Mỗi ngày, nàng lau sạch một khoảng nhỏ
trên khuôn mặt tôi và đặt lên đó một cái hôn... Nhưng cuối cùng, nàng không thể
giữ tôi lâu hơn. Người ta đã đến đưa tôi vào trung tâm này.
Nhưng vợ tôi đã không bỏ tôi. Mỗi ngày, nàng đến nhìn qua lỗ hỏng
của vách tường và mỉm cười với tôi. Nhờ nàng, tôi biết rằng tôi vẫn còn sống.
Nhờ nàng, tôi vẫn còn muốn sống...".
Tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu đã làm cho người vợ không
nhìn người chồng xấu số như một con người đáng xa lánh. Tình yêu của người vợ
đã đem lại sức mạnh và niềm vui sống cho người chồng... Nhu cầu căn bản nhất của
con người là yêu và được yêu. Bất cứ ai cũng cần đến tình yêu và muốn thể hiện
tình yêu... Bạn có biết rằng có bao người đang cần một nghĩa cử, một nụ cười, một
ánh mắt cảm thông của bạn không?
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét