Trang

Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2015

21-11-2015 : THỨ BẢY TUẦN XXXIII MÙA THƯỜNG NIÊN - ĐỨC MẸ DÂNG MÌNH TRONG ĐỀN THỜ - Lễ Nhớ

21/11/2015
Thứ bảy tuần 33 thường niên
Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ.
Lễ nhớ.


Lễ Mẹ Dâng Mình Vào Đền Thờ, LN

BÀI ĐỌC I: Is 61, 9-11
"Tôi sẽ hân hoan vui mừng trong Chúa".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Dòng dõi dân ta sẽ được nổi danh giữa các dân tộc, miêu duệ chúng sẽ được biết đến giữa chư dân. Tất cả những ai thấy họ, đều nhận biết họ là dòng dõi được Chúa chúc phúc.
Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi, vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nẩy lộc, Chúa cũng làm phát sinh công chính và lời ca tụng trước mặt muôn dân. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: 1 Sm 2, 1. 4-5. 6-7. 8
Đáp: Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, Đấng Cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: 1) Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, và sức mạnh tôi được gia tăng trong Thiên Chúa tôi; miệng tôi mở rộng ra trước quân thù, vì tôi reo mừng việc Chúa cứu độ tôi. - Đáp.
2) Chiếc cung những người chiến sĩ đã bị bẻ gãy, và người yếu đuối được mạnh khoẻ thêm. Những kẻ no nê phải làm thuê độ nhật, và những người đói khát khỏi phải làm thuê; người son sẻ thì sinh năm đẻ bảy, còn kẻ đông con nay phải héo tàn. - Đáp.
3) Chúa làm cho chết và Chúa làm cho sống, Chúa đày xuống Âm phủ và Chúa dẫn ra. Chúa làm cho nghèo và làm cho giàu có, Chúa hạ xuống thấp và Chúa nâng lên cao. - Đáp.
4) Từ nơi cát bụi, Chúa nâng người yếu đuối; từ chỗ phân nhơ, Chúa nhắc kẻ khó nghèo, để cho họ ngồi chung với các vương giả, và cho họ dự phần ngôi báu vinh quang. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 8, 28-30
"Những ai Thiên Chúa đã biết trước thì Người đã tiền định".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, chúng ta biết rằng mọi sự đều hợp tác để dẫn tới điều thiện hảo cho những ai yêu mến Thiên Chúa, cho những ai đã được kêu gọi chiếu theo ý định của Người. Những ai Người đã biết trước, thì Người đã tiền định cho nên đồng hình thức với ảnh tượng Con Người, để Con Người làm huynh trưởng một đại số các em. Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 1, 28
Alleluia, alleluia! - Kính chào Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ; trinh Nữ được chúc phúc giữa các người phụ nữ. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 11, 27-28
"Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: "Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!" Nhưng Người phán rằng: "Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn".
Đó là lời Chúa.

Thứ Bảy sau Chúa Nhật 33 Quanh Năm


Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 6, 1-13
"Vì các tai hoạ trẫm đã gây cho Giêrusalem mà trẫm phải buồn bực mà chết".
Trích sách Macabê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, vua Antiôcô rảo khắp các tỉnh miền bắc. Vua nghe nói tại Ba-tư có thành Êlymai nổi tiếng là giàu có và lắm vàng bạc; trong thành lại có một ngôi đền thờ lắm bảo vật, đầy những binh giáp bằng vàng, chiến bào, khiên mộc di sản của Alexanđrô, con Philipphê, vua xứ Macêđônia, là vua tiên khởi cai trị dân Hy-lạp. Vậy ông đến tìm cách chiếm lấy thành để cướp của. Nhưng ông không thành công, vì dân thành đã biết trước ý định của ông, nên đã vùng lên chống lại. Ông bỏ chạy và buồn bực lui quân trở về Babylon.
Lúc vua còn ở Ba-tư, có người đến đem tin cho vua hay toán quân của ông ở Giuđa đã bị đánh bại chạy tán loạn, và Lysia, vị tướng chỉ huy một đoàn quân hùng hậu, cũng đã phải tháo lui chạy trốn quân Do-thái; quân Do-thái lại càng mạnh thêm nhờ ở khí giới, lương thực và chiến lợi phẩm rất nhiều đã lấy được của các đoàn quân họ đánh bại. Họ đã hạ tượng thần vua đã đặt trên bàn thờ ở Giêrusalem; họ cũng đã xây thành đắp luỹ cao như trước chung quanh Ðền thờ và chung quanh thành Bethsura.
Nghe tin ấy, nhà vua khiếp đảm và rất xúc động. Vua vật mình xuống giường và buồn đến lâm bệnh, (bởi vì) sự việc đã không xảy ra như vua ước muốn. Vua liệt giường nhiều ngày, càng ngày càng buồn. Và tưởng mình sắp chết, vua liền triệu tập tất cả bạn hữu lại mà nói với họ rằng: "Trẫm không còn chớp mắt được nữa và lòng trẫm tan nát vì ưu tư. Trẫm tự nghĩ: trước kia khi trẫm còn quyền thế, trẫm vui sướng và được người ta quý mến, mà giờ đây trẫm lâm cảnh buồn sầu và đau khổ biết bao! Bây giờ trẫm hồi tưởng lại các tai hoạ trẫm đã gây cho Giêru-salem: trẫm đã chiếm đoạt các chén bằng vàng bạc tại đó, và đã ra lệnh tiêu diệt dân Giuđêa cách vô cớ. Trẫm nhìn nhận là vì các việc ấy mà phải khốn khổ như thế này, mà giờ đây trẫm phải buồn bực mà chết nơi đất khách quê người".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 9, 2-3. 4 và 6. 16b và 19
Ðáp: Lạy Chúa, con mừng rỡ vì ơn Ngài cứu độ (x. c. 16a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh Ngài, lạy Ðấng Tối Cao. - Ðáp.
2) Vì quân thù của con đã tháo lui, chúng chạy trốn và vong mạng trước thiên nhan Chúa. Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi nhoà tên tuổi chúng tới muôn đời. - Ðáp.
3) Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cạm bẫy mà họ đã che. Vì kẻ cơ bần không bị đời đời quên bỏ, hy vọng người đau khổ không mãi mãi tiêu tan. - Ðáp.

Alleluia: Pl 2, 15-16
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 20, 27-40
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ?"
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa".
Bấy giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa Người rằng: "Lạy thầy, Thầy dậy đúng lắm". Và họ không dám hỏi Người điều gì nữa.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Có Sự Sống Lại

Sự sống, thân xác và tất cả những gì con người có được, đều là những món quà Thiên Chúa ban tặng, do đó, phải được bảo toàn và trân trọng. Chính cung cách sống và hành xử của con người trong cuộc sống hiện tại định đoạt số phận tương lai của họ: được cứu độ hay bị trầm luân đời đời. Bởi vì cuộc sống của con người không kết thúc với cái chết của thân xác trên trần gian này; sau khi chết, thân xác và linh hồn con người mới bắt đầu cuộc sống tràn đầy hạnh phúc, một cuộc sống phục sinh, một cuộc sống hoàn toàn biến đổi.
Ðó cũng là sự thật Chúa Giêsu khẳng định khi trả lời cho một số người thuộc nhóm Sađốc, như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay.
Vào thời Chúa Giêsu, giới lãnh đạo Do thái chia thành nhiều nhóm khác nhau. Liên quan đến sự sống lại, số người thuộc nhóm Biệt phái thì tin rằng cuộc sống sau khi chết cũng giống như cuộc sống trước đó trên trần gian này, nghĩa là con người cũng ăn uống, buôn bán, sống đời vợ chồng, nhưng chỉ có sung sướng mà thôi; tuy nhiên, một số khác thì tin rằng cuộc sống sau cái chết là cuộc sống hoàn toàn biến đổi. Còn nhóm Sađốc thì không tin vào cuộc sống đời sau: đối với họ, chết là hết; họ dựa trên luật Do thái buộc người em phải lấy chị dâu để đảm bảo cho anh mình có con nối dõi tông đường, nếu người anh chết mà chưa có con. Họ đặt ra trường hợp bảy anh em nhà kia cùng lấy một người đàn bà và hỏi Chúa Giêsu: khi sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai? Chúa Giêsu khẳng định cuộc sống phục sinh hoàn toàn được biến đổi và không giống cuộc sống trên trần gian này như một số người Biệt phái tưởng nghĩ; do đó, mọi tương quan giữa con người với nhau cũng sẽ được biến đổi và tan hòa trong tương quan tình yêu thương của Thiên Chúa, cũng như mang sắc thái và chiều kích của tình yêu ấy, vì thế, mọi cách diễn tả và biểu lộ trong các liên hệ cuộc sống trần gian khi đó không còn ý nghĩa nữa.
Chúa Giêsu quả quyết có sự sống lại, nhưng Ngài không giải thích sự việc sẽ xẩy ra thế nào và khi nào sẽ xẩy ra biến cố sống lại, vì điều đó không quan trọng cho ơn cứu rỗi. Chẳng những có lời quả quyết của Chúa, chúng ta còn có một sự kiện cụ thể khác, đó là sự phục sinh của Chúa Kitô, đó là câu trả lời duy nhất cho thắc mắc của con người về sự chết, về sự sống lại và sự sống đời đời.
Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm tin vào sự sống lại và kiên trì hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 33 TN1
Bài đọc: I Mac 6:1-13; Lk 20:27-40.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự sống lại và cuộc sống đời đời
Có thể nói câu hỏi: “Có sự sống lại và cuộc sống đời đời không?” là câu hỏi then chốt và quan trọng nhất của cuộc đời; vì niềm tin này sẽ hướng dẫn con người trong cuộc sống ở đời này. Nếu con người tin có sự sống lại và cuộc sống vĩnh cửu mai sau, con người sẽ biết sống ở đời này làm sao để đạt được cuộc sống vĩnh cửu mai sau; nếu không tin có sự sống lại và cuộc sống đời sau, con người sẽ tập trung mọi cố gắng để làm sao cho cuộc sống đời này được hạnh phúc và hưởng thụ tối đa, mà không cần quan tâm đến việc thưởng phạt ở đời sau. Niềm tin vào sự sống lại, tuy đã được đề cập đến trong Cựu-Ước, nhưng chưa được cắt nghĩa rõ ràng; đa số người thời đó tin hạnh phúc chỉ ở đời này: sống lâu trăm tuổi, con đàn cháu đống, được Thiên Chúa ban muôn phúc lành. Quan niệm về sự bất tử của linh hồn được cắt nghĩa rõ ràng hơn trong Sách Khôn Ngoan (khỏang ~100 BC), và sự sống lại trong Sách Maccabees (~150 BC). Khi Đức Kitô nhập thể, Ngài đã mặc khải rõ ràng cho con người những điều này và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trong các Sách Tin Mừng.
Các Bài đọc hôm nay tập trung vào việc tìm ra câu trả lời cho câu hỏi quan trọng này. Trong Bài đọc I, vua Antiochus hối hận về những việc làm gian ác đã gây ra cho người Do-thái trong những ngày cuối đời, khi nhà vua phải đương đầu với những thất bại liên tiếp, bệnh tật, và sự chết. Trong Phúc Âm, những người Sadducees muốn chứng minh không có sự sống lại nên dựng nên một câu truyện giả sử để hỏi thử Chúa. Ngài trả lời Nhóm Sadducees về sự sống lại và sửa sai niềm tin của họ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến.
1.1/ Những thất bại liên tiếp của vua Antiochus:
(1) Lòng tham vô đáy: Những người tham lam không bao giờ bằng lòng với những gì họ đang có, lòng họ luôn mong muốn có nhiều của cải hơn. Khi con người say men chiến thắng, họ nghĩ họ có thể làm mọi sự, và không ai có thể ngăn cản họ. Đó là lý do mà khi vua Antiochus ''nghe tin ở Ba-tư có thành Elymais, một thành nổi tiếng vì nhiều của cải vàng bạc. Đền thờ trong thành cũng có nhiều báu vật, có cả những mảnh giáp trụ bằng vàng, có áo giáp và vũ khí mà con vua Philíp là Alexandre đã để lại;'' nhà vua đã tới đó, tìm cách đánh chiếm và cướp phá thành.
Nhưng lần này không thành công, vì dân trong thành đã hay tin trước. Họ đứng lên giao chiến chống lại vua khiến vua phải bỏ chạy về Babylon mà lòng buồn não ruột.
(2) Thất bại trong việc quản trị đất Judah: Việc gian ác và cai trị bất chính sẽ không tồn tại lâu dài vì "trời cao có mắt." Hơn nữa, khi con người bị dồn vào chân tường, họ sẽ phản ứng lại để bảo vệ sự sống còn của họ. Đang khi vua ở Ba-tư, có người đến báo cho vua biết là các đoàn quân bên đất Judah đã bị thảm bại: ''Tướng Lysias chỉ huy đoàn quân tinh nhuệ nhất đã bị người Do-thái đẩy lui. Những người này càng thêm mạnh nhờ vũ khí, quân nhu và và nhiều chiến lợi phẩm thu được của những đoàn quân đã bị họ đánh tan tành. Họ đã triệt hạ Đồ ghê tởm do vua xây ở trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu tại Jerusalem, rồi xây tường luỹ cao chung quanh Thánh Điện giống như ngày xưa. Cả thành Bethzur của vua, họ cũng xây như vậy.'' Nghe tin ấy, vua rất đỗi kinh hoàng. Vua lâm bệnh liệt giường vì phiền não, lại cũng vì sự việc không diễn ra như lòng mong ước.
1.2/ Gieo gió sẽ gặt bão: Khi đối diện với thất bại, bệnh tật, và sự chết, con người mới biết suy nghĩ lại những việc gian ác họ đã làm. Vua Antiochus nhận ra tất cả của cải ông đã vơ vét được cách bất chính không đem lại hạnh phúc cho ông. Máu của những người vô tội đổ ra vì tham vọng ngông cuồng của ông giờ đây trở lại ám ảnh ông ngày đêm. Vua Antiochus nhận ra sự liên quan giữa bệnh tật ông đang chịu với những hành vi gian ác ông đã làm. Vua nói với các bạn hữu: "Hồi tưởng lại những hành vi tàn bạo đó, tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến, và giờ đây sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn."
Những suy xét của vua Antiochus phải là bài học cho những người ngông cuồng không chịu tuân theo luật tự nhiên của Đấng Tạo Hóa. Họ phải biết một luật luân lý hết sức nền tảng của con người họ phải tuân theo là "làm lành tránh dữ." Theo nguyên lý nhân quả, con người phải hứng chịu mọi hậu quả về các hành động họ làm khi còn sống trên dương gian này. Nếu làm những điều tốt lành, họ sẽ được thưởng công xứng đáng; nếu làm những sự gian ác, họ sẽ phải đền trả cách cân xứng. Hầu hết các tôn giáo lớn trên địa cầu đều chịu ảnh hưởng của nguyên lý này, cho dù mỗi tôn giáo một niềm tin khác nhau.
2/ Phúc Âm: Có sự sống lại hay không?
2.1/ Câu hỏi khó của Nhóm Sadducees nhằm chứng minh không có sự sống lại: Nhóm này chỉ tin vào Sách Luật Moses và không tin có sự sống lại. Đó là lý do tại sao họ đến và hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, ông Moses có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình (Deut 25:5). Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?" Câu hỏi của họ tuy dựa trên Lề Luật, nhưng không thực sự xảy ra trong cuộc đời. Tuy nhiên, nếu có sự sống lại, nàng sẽ thuộc về ai trong 7 người anh em?
2.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu tách rời 2 vấn đề của họ: chuyện vợ chồng và sự sống lại; đồng thời Ngài sửa sai niềm tin của họ:
(1) Chuyện vợ chồng: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng.” Vợ chồng chỉ xảy ra khi còn ở dương gian; tất cả là anh chị em trong cuộc sống mai sau. Con người không có nhu cầu để cưới vợ lấy chồng trên Thiên Đàng như Hồi-Giáo tin.
(2) Cuộc sống trường sinh: “Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.”
(3) Chúa dùng Luật họ tin để bắt bẻ sự tin sai của họ: “Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Moses cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai (Exo 3:1-6), khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaac, và Thiên Chúa của tổ phụ Jacob. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là, vì đối với Người, tất cả đều đang sống." Nếu họ tin “Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống,” họ phải tin các tổ phụ Abraham, Isaac, và Jacob vẫn đang sống; nói cách khác, họ phải tin có sự sống lại.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải chịu trách nhiệm cho mọi hành động của mình khi còn sống trên dương gian; vì thế, chúng ta phải luôn hành động theo Luật Chúa dạy và luật tự nhiên.
- Căn bản của niềm tin vào sự sống lại là chính Chúa Giêsu. Chúng ta phải để niềm tin này nuôi dưỡng và soi sáng mọi công việc chúng ta làm, và phải biết sống làm sao ở đời này để xứng đáng thừa hưởng cuộc sống mai sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

21/11/15 THỨ BẢY TUẦN 33 TN
Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ
Mt 12,46-50

Suy niệm: Khi dâng con mình vào Đền thánh, song thân Đức Ma-ri-a và chính ngài sau này đều muốn thi hành thánh ý Thiên Chúa, trở nên bà con với Ngài. Như thế ta có thể nói rằng vai trò làm anh chị em, làm mẹ Chúa đã nằm sẵn từ trước biến cố dâng mình. Tình máu mủ đến sau mối tình thiêng liêng của con người đạo đức, biết kính sợ và yêu mến Thiên Chúa. Chính hành vi của Mẹ và sự tuyển chọn của Thiên Chúa đã “trình bày cho các tín hữu một mẫu gương hoàn hảo của tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại” (Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II). Từ thái độ ấy khai sinh ra một thế hệ bao gồm tất cả những ai muốn kết nối thành đại gia đình của Chúa; và không ai bị coi là người dưng nước lã.
Mời Bạn: Đức Ma-ri-a trở thành ngôn sứ cho lòng tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những ai phận nhỏ, cho những người muốn thực thi ý Chúa. Là tu sĩ hay giáo dân, khi biết dâng mình cho Chúa mỗi ngày, chúng ta cũng trở thành sứ giả của lòng thương xót Chúa. Đồng thời ta cũng hãy lắng nghe tiếng nói từ mẫu của Mẹ Ma-ri-a: “Người bảo gì anh em cứ việc làm theo” (Ga 2,5).
Sống Lời Chúa: Chúng ta hãy biết cụ thể hóa hành vi dâng hiến mỗi ngày khi tâm niệm và quyết sống theo lời Chúa dạy: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28).
Cầu nguyện: Lạy Mẹ Ma-ri-a, hôm nay con muốn dâng mình cho Chúa như Mẹ, để “toàn thân con thuộc về Mẹ; và tất cả những gì của con là của Mẹ”, nhờ đó con trở nên người một nhà với Mẹ và với Chúa Ba Ngôi.

Ai là mẹ tôi?
Bất cứ ai sống theo ý Cha trên trời trong niềm vâng phục phó thác, bất cứ ai sinh Đức Giêsu ra cho môi trường sống của mình... người ấy là mẹ Đức Giêsu.


 Suy nim:
Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bị sốc.
Đức Giêsu đang giảng cho một đám người khá đông.
Chắc là họ đứng chen chúc nhau đến nỗi khó lòng đến gần Ngài được.
Chính vào lúc này thì mẹ và anh em Ngài đến, không rõ lý do.
Họ muốn nói chuyện với Đức Giêsu, nhưng đành phải đứng ở ngoài.
Có người vào báo cho Ngài về chuyện đó.
Chúng ta tưởng Ngài sẽ ngưng ngay bài giảng để ra gặp mẹ và anh em.
Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
Mẹ Ngài hẳn đã phải đi một đoạn đường xa để đến gặp con trò chuyện.
Nhưng lạ thay Đức Giêsu vẫn tiếp tục giảng.
Ngài vẫn tiếp tục nói chuyện với đám đông đang nghe Ngài,
thay vì đi ra nói chuyện với mẹ.
Sự quan tâm của Ngài nhắm vào những người ở trong đây,
hơn những người đứng ở ngoài kia.
Sau đó Ngài lại đặt những câu hỏi vừa dễ lại vừa lạ:
“Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (c. 48).
Dĩ nhiên đó là những người đang đứng ngoài kia,
đang chờ được gặp mặt và nói chuyện với Ngài.
Nhưng đó không phải là đáp án của Đức Giêsu.
Chính Ngài cho ta đáp án bằng cách giơ tay chỉ các môn đệ mà nói:
“Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi” (c. 49).
Có một gia đình máu mủ đậm đà đứng ở ngoài kia,
và một gia đình mới rất thân thương đứng ở trong này.
Đức Giêsu không coi thường tình mẫu tử hay tình họ hàng ruột thịt.
Điều Ngài muốn nhấn mạnh ở đây là chuyện Ngài có một gia đình mới.
Các môn đệ của Ngài thuộc về gia đình này.
Họ là mẹ, là anh chị em của Ngài, vì họ thi hành Ý muốn của Cha Ngài.
Chính Đức Giêsu là người Con luôn thi hành Ý muốn của Cha.
Ai thi hành Ý Cha trên trời cũng trở nên gần gũi với người Con (c. 50).
Chúng ta có họ với Đức Giêsu và làm nên một gia đình bao la rộng lớn.
Bỗng nhiên chúng ta thấy mình gần Cha, gần Giêsu và gần nhau.
Nước Trời bắt đầu đến khi hơn hai tỉ kitô hữu
nhận ra là mình cùng muốn làm trọn Ý Cha,
cùng gắn bó keo sơn với Giêsu và cùng coi nhau là anh chị em (Mt 23, 8).
Đức Giêsu có nhiều anh chị em trong gia đình của Ngài.
Các phụ nữ thật là chị em của Ngài, dù xã hội Ngài trọng nam khinh nữ.
Đức Giêsu cũng không chỉ có một người mẹ tên là Maria.
Bất cứ ai sống theo ý Cha trên trời trong niềm vâng phục phó thác,
bất cứ ai sinh Đức Giêsu ra cho môi trường sống của mình,
bất cứ ai làm cho Ngài lớn lên trong trái tim nhân loại,
người ấy là mẹ Đức Giêsu.
Trong gia đình mới là Giáo Hội của Đức Giêsu,
Maria đã là Mẹ Đức Giêsu theo ý nghĩa tuyệt vời nhất.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa 
Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.

Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.

Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.

Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.

Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.

Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG MƯỜI MỘT
Trả Lại Cho Gia Đình Vai Trò Đúng Đắn Của Nó Trong Xã Hội
Trong tác phẩm Hành Trình Mục Vụ của ngài, Đức Hồng Y Baffi đã dành một số trang rất hay để nói về những hiểm họa và những niềm hy vọng của gia đình. Ngài nhấn mạnh rằng gia đình hôm nay rất ốm yếu trong xã hội chúng ta, và đôi khi thậm chí gia đình bị khinh thường. Đó là lý do tại sao sự chữa trị cho gia đình phải liên can tới việc Phúc Âm hóa nền văn hóa của chúng ta. Nếu nền văn hóa của chúng ta được chuyển hóa xuyên qua cuộc gặp gỡ với Tin Mừng, gia đình sẽ tìm lại được các gốc rễ của nó. Gia đình sẽ được canh tân hoàn toàn và bắt đầu sống căn tính của nó trong tư cách là một hiệp thông và cộng đoàn của các ngã vị trong niềm kính trọng hoàn toàn đối với tất cả các thành viên của nó: vợ chồng, con cái, trẻ già …
Như vậy, thay vì đóng kín chính mình và thoái thác trách nhiệm của mình đối với xã hội, gia đình Kitôhữu được canh tân sẽ trở thành tác nhân chủ yếu xây dựng xã hội tương lai. Điều này là tất nhiên vì gia đình là nền móng căn bản của xã hội. Vâng, gia đình Kitôhữu phải đảm nhận trách nhiệm phục vụ cộng đồng lớn hơn, nhất là phục vụ người nghèo và những ai bị gạt ra ngoài lề xã hội. Gia đình Kitôhữu phải chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng cho thế giới.
Gia đình Kitôhữu cũng có chỗ đứng riêng của mình trong sứ vụ của Giáo Hội. Nó được mời gọi để tham dự, trong tư cách là một gia đình, vào sứ mạng cứu độ của Giáo Hội. Gia đình thực thi sứ mạng này bằng việc sống trung thành với căn tính của mình và bằng việc xây dựng mình trở thành một cộng đoàn tin và loan báo Tin Mừng. Gia đình Kitôhữu được mời gọi sống cầu nguyện và phục vụ mọi người theo giới luật yêu thương. Bằng cách này, gia đình trở thành một nguồn sống và một nguồn ơn gọi – bởi vì trong tư cách là Giáo Hội tại gia, gia đình tham dự vào sứ mạng ba chiều kích của Giáo Hội Chúa Kitô: đó là sứ mạng tư tế, vương đế và ngôn sứ của Dân Thiên Chúa.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II



Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 21-11
Đức Mẹ dâng mình trong Đền Thờ
Dcr 2, 14-17; Mt 12, 46-50.

LỜI SUY NIỆM: “Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.”
Những ai muốn được trở nên người trong gia đình của Chúa Giêsu thì phải: “Thi hành ý muốn của Thiên Chúa”. Mà ý muốn của Thiên Chúa là tin vào Con Một của Ngài, Điều này Chính Thiên Chúa đã công khai tuyên bố khi Chúa Giêsu đã chịu phép Rửa xong: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3,16-17). Cũng như đang khi Chúa Giêsu hiển dung có sự hiện diện của ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5). Chúa Giêsu cũng nói rõ về ý muốn của Thiên Chúa: “Ý Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con thì được sống đời đời, và tôi cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,40) Và Chúa Giêsu cũng chúc phúc: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”.
Lạy Chúa Giêsu. Chính nhờ ơn Chúa và giáo huấn của Giáo Hội, chúng con đang cùng cầu nguyện và cố gắng sống theo lời Chúa dạy. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con trước mỗi lời cầu nguyện luôn nhớ đến câu: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho Danh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,9-10)
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 21-11
Lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh

Nói về lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh, đức giáo hoàng Phaolô VI viết: "Những lễ dựa trên lời truyền khẩu, nhưng có giá trị gương mẫu cao và đươc Giáo hội Đông phương đặc biệt mừng kính từ xa xưa, đó là lễ Đức Maria dâng mình và đền thánh"
Việc Đức Mẹ dâng mình và đền thánh dựa trên sự kiện này, là luật cũ đã nhận các trinh nữ tự hiến mình cho Thiên Chúa tại đền thành. Hơn nữa Đức Trinh nữ còn được đặc ân Vô nhiễm Nguyên tội ngay từ buổi đầu thai. Sư trinh trong này có thể dẫn tới hiệu quả là trí khôn Đức Maria đã phát triển sớm hơn bình thường, vì không bị ảnh hưởng bởi tội nguyên tổ. Bởi đó, người ta cho rằng, Mẹ đã dâng mình cho Chúa rất sớm, ngay khi trí khôn ngài có khả năng hiểu biết.
Cuốn ngụy thư "Phúc âm về cuộc sinh hạ của Đức Maria" còn cho rằng ngài đã thực hiện cuộc dâng hiến này khi mới ba tuổi. Giottô trong một bức họa đã diễn tả Đức Maria trong những bước chân mạnh mẽ tiến vào đền thánh.
Trong niềm tin này, người Hy lạp, Armênia và Latinh, đều mừng lễ Đức Mẹ dâng mình trong đền thánh vào ngày 21 tháng 11 hàng năm. Simon Métaphrate cho rằng lễ mừng đã được thiết lập vào năm 730 ở Constantinople. Năm 1143, hoàng đế Emmanuelđã xếp vào số các lễ được Giáo hội khắp nơi biết đến.
Vị đại sứ của vua Chypre bên đức giáo hoàng Grêgoriô XI (ở Avignon) đã thuyết phục, để giáo triều với đức Sixtô IV chấp nhận lễ này từ năm 1372. Kể từ đó, ở nhiều vương quốc và nhiều nhà thờ đã mừng long trọng theo sách nguyện Rôma. Đức giáo hoàng Pio V bãi bỏ và được đức Sixtô V tái lập.
Nhiều nhà dòng đã chọn lễ này làm ngày khấn dòng hay lặp lại lời khấn cho các tu sĩ. Cùng với Đức Maria, chúng ta cũng dâng mình cho Chúa một cách mau mắn và quảng đại.
(daminhvn.net)


21 Tháng Mười Một
Vâng ý Cha Dưới Ðất Cũng Như Trên Trời
William Barlay, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng người Anh đề nghị sửa một dấu trong Kinh "Lạy Cha" như sau: Giữa những câu "chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến" và câu "ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" thay vì dấu phết hay dấu chấm phết nên dùng dấu hai chấm, để nêu bật ý nghĩa: Nếu chúng ta vâng theo ý Chúa dưới đất ý Chúa được vâng phục trên trời thì chúng ta sẽ làm cho: danh Chúa cả sáng và Nước Chúa được thống trị mọi nơi.
Ðề nghị trên nhằm mục đích nhấn mạnh sứ mệnh xây dựng Nước Trời giữa lòng xã hội trần thế bằng cách hoàn toàn vâng theo ý Chúa của các tín hữu Kitô.
Bởi lẽ đây là một trong những nội dung quan trọng nhất của sứ điệp Chúa Giêsu rao giảng và cũng là mẫu gương nổi bật nhất trong cuộc đời của Ngài.
"Ai vâng theo ý Cha Ta ở trên trời thì kẻ ấy là anh em Ta, là chị em Ta và là Mẹ Ta".
Tuyên bố câu này, Chúa Giêsu không có ý khước từ mối dây liên lạc và tình mẫu tử giữa Ngài với Ðức Maria. Nhưng Ngài muốn nêu bật một thực tại: Ðức Maria đã trở nên Mẹ Ngài qua câu trả lời: "Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền" và trong suốt cuộc đời, Ðức Maria đã trung tín giữ trọn lời thưa xin vâng này đến giây phút đứng dưới chân thập giá.
Mừng Lễ Ðức Mẹ dâng mình vào đền thánh, không gì chúng ta có thể làm đẹp lòng Mẹ hơn là học cùng Mẹ để bập bẹ thưa: "Xin vâng!".
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét