Trang

Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2016

19-06-2016 : (phần I) CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN năm C

19/06/2016
Chúa Nhật tuần 12 thường niên năm C
(phần I)

Bài Ðọc I: Dcr 12, 10-11
"Họ sẽ nhìn thấy Ðấng họ đã đâm thâu qua".
Trích sách Tiên tri Dacaria.
Ðây Chúa phán: "Ta sẽ gieo rắc tinh thần ân phúc và cầu nguyện trên nhà Ðavít và trên dân cư Giêrusalem. Họ sẽ ngước mắt nhìn Ta, Ðấng họ đã đâm thâu qua: họ sẽ khóc than người, như khóc than con một, họ sẽ thương tiếc người như quen thương tiếc đứa con đầu lòng đã chết.
Trong ngày đó, tại Giêrusalem sẽ có tiếng khóc than to lớn, như khóc than Ađadremmon trong cánh đồng Magêđđô".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 62, 2. 3-4. 5-6. 8-9
Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khát khao Chúa (c. 2b).
Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước! - Ðáp.
2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quang của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài. - Ðáp.
3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con, con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn con được no thoả dường như bởi mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan hỉ. - Ðáp.
4) Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài. Linh hồn con bám thân vào Chúa, và tay hữu Chúa nâng đỡ người con. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Gl 3, 26-29
"Anh em đã chịu phép rửa tội, nên anh em đã mặc lấy Ðức Kitô".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô. Vì chưng tất cả anh em đã chịu phép rửa tội trong Ðức Kitô, nên anh em đã mặc lấy Ðức Kitô. Nay không còn phân biệt người Do-thái và Hy-lạp, người nô lệ và tự do, người nam và người nữ: vì tất cả anh em là một trong Ðức Giêsu Kitô. Nhưng nếu anh em thuộc về Ðức Kitô, thì anh em là dòng dõi Abraham, những kẻ thừa tự như lời đã hứa.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 9, 18-24
"Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu nhiều đau khổ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Việc xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người, thì Người hỏi các ông rằng: "Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?" Các ông thưa rằng: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa đã sống lại". Người lại hỏi các ông rằng: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa". Và Người ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà rằng: "Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại".
Người lại phán cùng mọi người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Vác lấy thập giá của mình

Bài sách Dacaria hôm nay với những lời: "Chúng sẽ nhìn lên Ta, người chúng đã đâm" (13,10) gợi lại cho chúng ta bầu khí của ngày lễ Thánh Tâm cử hành trong tuần qua. Nhưng phụng vụ hôm nay không muốn kéo dài lễ Thánh Tâm đâu. Nằm trong số các Chúa nhật thường niên sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, hôm nay phụng vụ chỉ muốn cho chúng ta nhìn vào công cuộc cứu độ vừa hoàn tất trong cuộc đời trần gian của Ðức Giêsu để chúng ta đón nhận mọi hồng ân được ban xuống cho chúng ta và để chúng ta cố gắng sống phù hợp với ơn cứu độ đã nhận được. Thế nên các bài Kinh Thánh vừa nhắc lại mầu nhiệm Cứu Thế vừa nói lên yêu sách của đời sống mới. Chúng ta hãy mở lòng đón nhận mạc khải để được sức trung thành với ơn gọi Kitô hữu.

1. Ðấng Tiên Tri Sẽ Cứu Chuộc Chúng Ta
Thiên Chúa quá thương dân Người. Không bao giờ Người bỏ họ bơ vơ, không được hướng dẫn. Càng khi họ gặp cảnh thử thách tối tăm mặt mũi, Chúa càng soi sáng dẫn đưa họ. Bài sách Dacaria hôm nay làm chứng điều ấy.
Ðây là một đoạn sách khó hiểu. Trước hết nó nằm trong phần II của sách mang tên Dacaria. Phần này gồm các chương 9-14; khác hẳn với phần trước gồm 8 chương đầu là của Dacaria thật sự. Ông thuộc dòng tư tế, xuất hiện công bố Lời Chúa vào khoảng năm 520, tức là gần lúc dân Chúa trở về sau lưu đày ở Babylon. Phần II trong sách của ông ám chỉ những biến cố lịch sử muộn hơn nhiều, có thể là 200 năm sau những việc đã xảy ra trong phần I. Thế nên, chúng ta phải đặt bối cảnh của Phần II sách Dacaria vào thời "Thiên Cư" (diaspora), tức là vào lúc Israen không còn là một quốc gia nữa, nhưng đã trở thành một dân phiêu bạt, sống từng đám một ở nhiều quốc gia khác nhau.
Chúa đã bỏ hẳn dân Người rồi sao? Các kinh nghiệm sau lưu đày cho thấy hết hy vọng xây dựng lại dân tộc. Tác giả phần II sách Dacaria không phủ nhận sự thật phũ phàng, nhưng không mất lòng tin ở lòng Chúa thương xót. Ông chắc chắn Chúa không bỏ rơi dân Người. Người là Ðấng Trung Tín cho dù dân Người vẫn bội phản. Nhưng có thể Người sẽ thương dân một cách khác và kỳ diệu hơn. Cách ấy thế nào? Ðoạn sách hôm nay trả lời điều ấy.
Sấm của Giavê như sau: "Sẽ xảy ra là trong ngày ấy Ta sẽ đổ xuống nhà Ðavít và dân cư Giêrusalem một thần khí ơn huệ và khẩn nguyện...". Lời tuyên bố chắc như đinh đóng cột. Nó nói lên tư cách trung thành của Thiên Chúa. Người không bỏ nhưng sẽ thi hành mọi lời hứa. Người kiên quyết dùng nhà Ðavít biến dân cư Giêrusalem nên dân thiết nghĩa với Người. Qua Giêrêmia Người đã hứa ban cho dân một tinh thần và một thần khí mới để họ không còn giữ đạo hình thức và tội lỗi nữa, nhưng sẽ có trái tim thịt để thi hành lòng yêu mến. Hôm nay dùng miệng Dacaria, Người khẳng định lại sẽ đổ thần khí ấy xuống cho dân để họ thành khẩn với Người mà được đầy ân sủng.
Nhưng Chúa sẽ không thi hành lời hứa như trong quá khứ nữa. Trước đây Người đã đưa dân ra khỏi Ai Cập để lập giao ước, nhưng rồi họ đã không trung thành. Gần đây, Người đã cho họ từ Babylon trở về nhưng rồi họ cũng không xây dựng lại được một dân tộc đạo đức. Lần này Người nghĩ ra một kế hoạch huyền diệu. Người sẽ gởi đến cho dân một tiên tri mới, một vua hòa bình, một nhân vật mầu nhiệm giống như Người nhưng vẫn khác Người. Dân tưởng Ngài cũng chỉ là một vị tiên tri như mọi tiên tri khác.
Thành ra cuối cùng họ cũng xử với Ngài như với các tiên tri trước đây. Họ đâm giết Ngài. Nhưng kỳ diệu làm sao! Khi nhìn vào Người mà họ vừa đâm chết, dân sẽ oà khóc lên, ân hận vô cùng. Sự vô tội của Ngài mở mắt cho họ thấy tội lỗi của họ. Lòng thống hối ăn năn thay đổi trái tim chai đá của họ thành trái tim thịt. Nhờ đó họ được thần khí mới và trở nên dân mới.
Nội dung của sấm thì rõ đấy. Nhưng lời văn không phải dễ hiểu ngay đâu. Tác giả viết: "Chúng sẽ nhìn lên Ta, Người chúng đã đâm". Câu này như khẳng định chính Thiên Chúa là người bị thương tích. Nhưng câu sau, tác giả lại ghi: "Chúng sẽ khóc than trên Người, như người ta khóc than người con một". Và như vậy, người bị đâm lại không phải là chính Thiên Chúa nữa. Danh từ "người con một", hay "người con đầu lòng", thường ám chỉ người quý hóa nhất trong gia đình, trong dân được chọn, và cũng có khi là toàn dân Thiên Chúa nữa.
Ngày nay với mạc khải trọn vẹn ở nơi Ðức Giêsu, chúng ta thấy lời sấm quả thực đã nói về Ðấng Thiên Sai cứu thế một cách rất phong phú. Người vừa có bản tính Thiên Chúa vừa là loài người; Người vừa là Con Một và Con Ðầu Lòng vừa cũng là toàn thể Dân Chúa. Do đó thánh Gioan thật có lý khi đứng dưới chân thập giá, nhìn lên Ðấng bị đâm thâu, mà nhớ lại lời sách Dacaria chúng ta đọc hôm nay (Ga 19,37).
Nhưng khi chưa có mạc khải toàn bộ nơi Ðức Giêsu Kitô, lời sấm ở đây chắc chắn phải mầu nhiệm. Nhưng nếu chúng ta đọc với nhiều đoạn Dacaria khác nói về vua hòa bình đến ngồi trên lưng lừa (9,9) nói về người mục tử đến bênh vực chiên Israen nhưng bị bạc đãi (11,4-17; 12,10-13; 13,7-9), chúng ta sẽ thấy tác giả ở trong truyền thống tiên tri và nói về Ðấng Thiên Sai sẽ đến. Ðặc biệt chúng ta hãy so sánh những đoạn Dacaria ở đây với những bài ca về Người Tôi Tớ Thiên Chúa trong sách Isaia, và sẽ thấy: "Ngài cũng đã bị đâm vì những ngỗ nghịch của chúng tôi... và đứng ra bầu chữa cho những kẻ ngỗ nghịch" (53,5.12).
Như vậy, đoạn sách Dacaria hôm nay là một trong những yếu tố quan trọng dựng lên hình ảnh về Ðấng Thiên Sai cứu thế. Tự nó, những lời sấm này còn nhiều vẻ mầu nhiệm. Nhưng được đọc dưới ánh sáng tử nạn phục sinh của Ðức Giêsu, nó đã trở nên hầu như hiển nhiên. Dù vậy nó vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Chẳng hạn nó chưa nói gì về việc Ðức Kitô sống lại. Tác giả Gioan nhận thấy như vậy, nên sau khi vận dụng lời Dacaria vào việc Ðức Giêsu chết trên thập giá và trích lại câu: "Chúng nhìn xem Người chúng đã đâm", Gioan trong sách Khải huyền đã muốn bổ túc khía cạnh Phục sinh và đã viết: "Này Ngài đến với ánh mây trời, và mọi mắt phàm sẽ trông thấy Ngài, kể cả những kẻ đã đâm Ngài" (1,7).
Nhưng đó là Gioan muốn làm cho lời Dacaria được đầy đủ. Chúng ta chẳng cần làm như thế. Phụng vụ hôm nay chỉ muốn chúng ta nhớ rằng: Dacaria đã báo trước về cuộc tử nạn cứu độ của Ðức Giêsu, điều mà không ai để ý khiến chính Người hôm nay phải báo lại cho môn đệ biết trong bài Tin Mừng Luca mà chúng ta cần suy niệm thêm.

2. Người Sẽ Chịu Nhiều Ðau Khổ
Thật vậy, cho dù có cả một truyền thống tiên tri báo trước về cuộc khổ nạn của Ðấng Thiên Sai Cứu Thế, người Do Thái hầu như không để ý gì. Họ chỉ trông đợi một vị hoàng tử, một bậc hoàng đế mà họ tin rằng sẽ cứu độ cho họ với những chiến công hiển hách. Não trạng của môn đồ Ðức Giêsu trong đoạn đầu cũng như vậy. Họ mơ ước một ngày nào đó được ngồi bên tả hữu ở trong nước của Người. Nhưng Người thì ý thức rõ rệt về kế hoạch của Thiên Chúa trong sách Isaia và Dacaria. Người biết: Con Người sẽ phải chịu rất nhiều đau khổ. Và Người phải đưa môn đệ vào mầu nhiệm này.
Cũng như mỗi khi phải làm công việc nào quan trọng (xem Lc 3,21; 5,16; 6,12; 9,28; 11,1; 23,24) hôm nay trước khi mạc khải cho môn đệ chân lý cao cả này, Ðức Giêsu đã cầu nguyện (9,18). Rồi Người đối thoại, đi từ những vốn liếng tri thức mà họ có, dần dần giúp họ khuất phục các tồn tại và đi đến mạc khải chân lý. Người đi từ sự kiện Hêrôđê cũng như mọi người bấy giờ bắt đầu đặt những dấu hỏi về bản thân Người. Ai ai cũng đã nghe nói và chứng kiến cách thức Người đã sinh sống, giảng dạy và chữa bệnh. Bề ngoài Người thật đơn sơ, bình dị. Nhưng chắc chắn sự thật không phải chỉ như vậy. Người là con người rất khác thường. Phải nói, Người thật độc đáo. Không thể kể Người vào hạng người nào. Không phải chỉ là một vị tiên tri. Nơi Người có một sự sống thần linh. Nên phải nói Người là một tiên tri đã sống lại. Có lẽ là Gioan Tẩy giả đã phục sinh? Hay là Êlya hiện về. Hoặc phải là một tiên tri nào đó? Chính Hêrôđê cũng phải lưỡng lự không dám khẳng định thế nào và đang chờ xem (9,7-9).
Còn các môn đồ Ðức Giêsu thì nghĩ thế nào? Họ vẫn đi theo Người và ở gần Người hơn hết. Họ phải có nhận định về Người hơn người ta chứ? Ðức Giêsu muốn họ phải nói lên suy nghĩ của họ. Phêrô thay mặt anh em thưa: "Thầy là Ðức Kitô của Thiên Chúa".
Chúng ta không thấy Ðức Giêsu công nhận hay phủ nhận câu trả lời một cách trực tiếp và minh bạch. Tức là trả lời như vậy đúng nhưng chưa được sáng tỏ. Người là Ðức Kitô, chắc rồi; nhưng Ðức Kitô là gì? Theo nguyên tự, Kitô là người được xức dầu để lo việc của Thiên Chúa. Trong dân Chúa, chỉ có hoàng đế, tư tế và tiên tri đươc xức dầu để có ơn của Chúa mà phục vụ dân, nhưng dần dần, với truyền thống của các tiên tri, danh từ "Ðấng được xức dầu" tức là Ðấng Kitô được dành để ám chỉ Ðấng Thiên Sai - cứu thế sẽ đến khi thời gian đã sung mãn. Vậy khi tuyên xưng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô của Thiên Chúa, ông Phêrô nói lên niềm tin Ngài là Ðấng Thiên Sai cứu thế. Lời khẳng định của ông rất đúng nên trong một đoạn văn tương tự ở sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu, Ðức Giêsu đã khen Phêrô là người có phúc vì không phải xác thịt đã nói cho Phêrô biết được như vậy, nhưng là chính Cha trên trời đã soi sáng dạy dỗ ông. Ở đây, trong sách Luca, Ðức Giêsu không khen Phêrô. Người cũng không trực tiếp chấp nhận lời ông tuyên xưng. Người còn muốn dạy dỗ ông hiểu thêm nữa và hiểu cho thật đúng.
Là vì khi công nhận Người là Ðấng Kitô, người ta vẫn còn có thể ngộ nhận về Người, khi có một quan niệm không đúng về Ðấng Kitô. Người ta có thể hình dung Ngài là Ðấng sẽ đến để cứu chuộc dân Chúa bằng những chiến công hiển hách. Và ở đây là quan niệm của hầu hết mọi người, kể cả các môn đồ của Ðức Giêsu. Họ nghĩ rằng Ðấng Kitô sẽ phải sống mãi... bởi vì, như bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, họ quan niệm Ngài như một bậc đại tiên tri đã sống lại để không bao giờ chết nữa. Người ta đâu có để ý đến những lời tiên tri về một Ðấng Thiên Sai sẽ bị đau khổ và bị đâm thâu, như bài sách Dacaria hôm nay loan báo.
Thế nên, Ðức Giêsu không muốn môn đồ cứ hiểu lầm mãi, mặc dù lời họ tuyên xưng hôm nay thật đúng, nhưng nội dung lời ấy chưa được họ hiểu rõ. Ðức Giêsu lôi kéo tâm trí họ đi vào nội dung và cho họ biết: Con Người sẽ chịu nhiều đau khổ, bị các đầu mục và hàng tư tế phế thải, bị giết đi và ngày thứ ba sẽ sống lại... lúc đó họ hãy tuyên xưng Ngài là Ðấng Kitô của Thiên Chúa; và khi ấy lời tuyên xưng mới có nội dung chân thật. Trong khi chờ đợi, họ không nên đọc lại lời tuyên xưng ấy với ai, kẻo người ta tiếp tục ngộ nhận, coi Người là Ðấng Kitô sẽ phải sống mãi, đang khi như các lời tiên tri đã loan báo, Người còn phải đi qua đau khổ và sự chết rồi mới phục sinh. Ðồn thổi tin Người là Ðấng Kitô lúc này chỉ tổ làm cho người ta không được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận việc Người sắp bị nộp và bị giết.
Ðức Giêsu không làm như vậy. Người phải kéo tâm trí người ta vào kế hoạch của Thiên Chúa; nên Người nói với mọi người: Ai muốn đi theo Ta, thì phải chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình mỗi ngày và hãy theo Ta. Tôi dám nghĩ tác giả Luca khi viết sách đã muốn áp dụng Lời Chúa vào trường hợp cụ thể của độc giả, nên đã nói rõ ràng là mọi người phải vác lấy khổ giá của mình mỗi ngày mà theo Chúa. Chứ thực ra có lẽ Ðức Giêsu đã chỉ vắn tắt nói rằng mọi người phải vác lấy thập giá mà đi theo Chúa, vì chính Người sẽ phải vác thập giá đi trước. Và như vậy, Người muốn dạy người ta biết, kẻ đi theo Người đừng ngộ nhận tìm ngồi bên tả, bên hữu một Ðấng Kitô chiến thắng oanh liệt ở trần gian. Họ phải biết uống chén đắng với Người. Còn chuyện ngồi bên tả, bên hữu trong vinh quang, thì cứ để Chúa Cha định liệu, tức là chỉ nên trông đợi trong bình diện mầu nhiệm Nước Trời, chứ không phải ở trần gian này.
Như thế bài Tin Mừng Luca hôm nay không những rõ rệt và cụ thể hơn bài sách Dacaria vì xác định công khai Ðức Kitô sẽ bị bắt, bị giết nhưng sẽ sống lại; mà còn cho chúng ta thấy mọi kẻ đi theo Người, tức là mọi Kitô hữu đều phải vác lấy thập giá của mình mà bước theo. Như vậy, sứ điệp của Ðức Kitô còn có thể là một Tin Mừng cho mọi người nữa không? Nói cách khác, chúng ta có nên sợ cho thân phận những người đi theo Ðức Kitô mà phải vác thập giá hằng ngày không? Bài thư Phaolô tuy không trả lời hết mọi khía cạnh, nhưng cũng nói lên một điều rất đáng chú ý suy nghĩ.

3. Chúng Ta Ðược Thừa Tự Lời Hứa
Thánh Phaolô biết rõ các đòi hỏi của ơn gọi Kitô hữu khi viết: "Phàm ai đã được thanh tẩy trong Ðức Kitô, thì đã được mặc lấy Ðức Kitô", người đã cân nhắc nội dung của những lời ấy. Theo Người, "được thanh tẩy trong Ðức Kitô" là đã cùng chết với Ngài cho xác thịt, thế gian và tội lỗi, để đóng đinh con người cũ vào thập giá và mặc lấy con người mới. Không bao giờ thánh Phaolô nói đến thanh tẩy mà không nghĩ đến mầu nhiệm thập giá, tức là đối với người, chẳng ai là Kitô hữu nếu không vác lấy thập giá hằng ngày của mình mà đi theo Ðức Kitô đã chịu đóng đinh.
Nhưng đồng thời thánh Tông đồ cũng đã nghĩ đến những ơn lành phong phú đi kèm theo việc vác thập giá, đến nỗi đối với người, thập giá đã trở thành thánh giá đem lại vinh quang và sự sống dồi dào. Ở đây người chỉ khai triển một khía cạnh vinh quang của vinh quang thánh giá. Người nói, nhờ mặc lấy Ðức Kitô, chúng ta hết thảy là con cái Thiên Chúa. Không còn Do Thái hay Hy Lạp, nam hay nữ nữa, vì hết thảy đã là một trong Ðức Kitô. Và chúng ta trở thành miêu duệ của Abraham và được thừa tự lời hứa.
Những quan niệm này rất quan trọng. Lập tức chúng ta được đưa sang bình diện khác hẳn nếp sống thế tục. Người đã được thanh tẩy như đã cởi bỏ hết mọi cái cũ kỹ của trần gian. Họ nên con người mới. Phái tính, chủng tộc, giai cấp xã hội không còn quan trọng nữa. Hết mọi người là con cái Thiên Chúa, là chi thể trong thân thể Ðức Kitô, là những kẻ thừa tự mọi lời hứa. Lối nhìn mới mẻ này là cách nhìn của đức tin, của ý thức về ơn gọi Kitô hữu. Nó thôi thúc chúng ta hãy nhìn xã hội loài người và tương lai của tất cả một cách mới mẻ hẳn, để chúng ta biết bù đắp cho nhau như để xây dựng một thân thể và một hạnh phúc chung. Nó cho đời ta một phương hướng mới vô cùng phấn khởi, phát xuất từ mầu nhiệm Ðức Giêsu.
Giờ đây chúng ta cử hành mầu nhiệm nầy. Lời Chúa cho chúng ta biết Người đã đến để trở thành "Ðấng bị đâm thâu" ban ơn cứu độ cho mọi người. Thánh Thể kêu gọi chúng ta kết hợp với mầu nhiệm Tử nạn để được sự sống mới. Bổn phận của chúng ta sau khi cử hành phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể là chứng tỏ trong đời sống những ơn ích mà mầu nhiệm Thánh giá của Chúa Giêsu mang lại: đó là nếp sống làm con Thiên Chúa, hợp nhất với nhau trong Ðức Kitô và xây dựng Trời mới Ðất mới như Lời Hứa.
Chúng ta hãy phấn khởi tuyên xưng niềm tin mà chúng ta sẽ đem ra thực hành.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 12 Thường NiênNăm C
Bài đọc: Zech 12:10-11; Gal 3:26-29; Lk 9:18-24.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải nhận ra Đức Kitô và làm những gì Ngài yêu cầu.
Để trở thành môn đệ thực thụ của Đức Kitô, một người phải làm 3 việc: Thứ nhất, người đó phải nhận ra Ngài là ai, địa vị quan trọng của Ngài trong cuộc đời, và những gì Ngài truyền dạy. Thứ hai, người đó phải mong muốn theo Ngài và làm những gì Ngài truyền dạy. Sau cùng, người đó phải thực thi tất cả những điều đó. Đây là một tiến trình khó khăn và không thể thi hành với sức lực con người; nhưng Thiên Chúa không những đã ban đầy đủ ơn thánh qua công nghiệp của Đức Kitô lại còn ban Thần Khí vào tâm hồn con người để giúp con người nhận ra, ao ước, và làm theo sự thật.
Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta nhận ra tiến trình nhận ra – ao ước – và thi hành sự thật. Trong bài đọc I, ngôn sứ Zechariah phác họa Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa cho con người: Ngài sẽ ban Thần Khí của ơn thánh và cầu nguyện xuống trên dòng dõi David và dân cư Jerusalem để giúp họ biết sống đẹp lòng Thiên Chúa và tha thiết cầu nguyện, đồng thời sẽ giúp họ biết nhận ra và than khóc Đấng họ sẽ đâm thâu là Đức Kitô để ăn năn trở lại và nhận được ơn cứu độ. Trong bài đọc II, thánh Phaolô giúp các tín hữu nhận ra: khi họ chịu Phép Rửa là họ đã “mặc lấy” Đức Kitô. Vì thế, họ không được phép kỳ thị chủng tộc hay phân chia giai cấp, vì tất cả đều là những chi thể của một thân thể là Đức Kitô. Trong Phúc Âm, tuy Phêrô nhận ra và tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô;” nhưng ông chưa mong muốn một Đấng Thiên Sai chịu đau khổ. Đức Kitô khuyến khích các ông phải can đảm đi theo con đường này mới có thể trở thành môn đệ của Ngài.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Khi chúng ngước nhìn lên Ta mà chúng đã đâm thâu, chúng sẽ khóc than như người ta khóc than đứa con một.
1.1/ Khác biệt về văn bản:
- MT và nhiều bản cổ dịch, “Khi chúng ngước nhìn lên Ta mà chúng đã đâm thâu.” Túc từ “Ta” ở ngôi thứ nhất, ám chỉ Người nói là Đức Chúa. Khi Gioan trích dẫn câu này, thánh sử viết “Chúng sẽ nhìn lên Đấng mà chúng đã đâm thâu” (Jn 19:37). Túc từ “Đấng” ở ngôi thứ ba, người nói không phải là Đức Chúa.
- LXX đọc sai động từ dqr (đâm thâu) thành rqr (chửi rủa). Chữ d và chữ r viết rất giống nhau trong tiếng Do-thái, và dễ bị lẫn lộn với nhau. Vì thế, họ phiên dịch khác hoàn toàn: “Chúng sẽ nhìn lên Ta mà chúng đã chửi rủa.” Mặc dù đọc sai động từ, LXX đọc giống MT ở chỗ “Ta,” ở ngôi thứ nhất.
+ Hadadrimmon có thể là thần bão Hadad hay thần chính thức Rimmon của Damascus (2 Kgs 5:18), mà cái chết của ông được dân chúng than khóc mỗi năm khi thời tiết đổi qua mùa khô.
+ Vị trí của Megiddo nằm trên trục lộ giao thông chính của hai miền Nam Bắc Palestine, nên thường là nơi của những trận chiến lớn tôn giáo hay chính trị trong lịch sử. Vua Josiah là một vị vua tốt lành của Do-thái đã tử trận tại đây và dân chúng than khóc sự ra đi của nhà vua.
1.2/ Ý nghĩa thần học của trình thuật:
(1) Thần khí ơn thánh và cầu nguyện: Khi Thiên Chúa muốn đập tan quân thù để cứu dân chúng, trước tiên Ngài đổ thần khí ơn thánh và cầu nguyện xuống trên họ. Thần khí ơn thánh ám chỉ thái độ biết sống đẹp lòng Thiên Chúa (x/c Gen 6:8, 33:8, 34:11) để nhận được ơn lành. Thần khí cầu nguyện để dân chúng biết nhận ra điều phải và kêu cầu lòng thương xót của Thiên Chúa (2 Sam 12:22; Isa 27:11). Cầu nguyện với Thiên Chúa là điều không thể thiếu trong cuộc sống con người; nhưng để biết cách cầu nguyện, con người cần được Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn.
Việc giải thoát hay ban ơn là việc của Thiên Chúa; nhưng con người cần nhận ra sự cần thiết của việc giải thoát hay ban ơn và mong muốn bằng việc kêu xin Ngài ban ơn hay giải thoát. Thiên Chúa gởi Thần Khí xuống trên con người để họ nhận ra sự thật, những gì đáng ước mong, và khơi dậy lòng ăn năn xám hối vì tội lỗi đã lìa xa Thiên Chúa (Eze 36:37). Việc Thiên Chúa hứa sẽ tuôn đổ Thần Khí xuống trên con người đã được loan báo trong (Isa 44:3). Điều này được thực hiện khi Đức Kitô được vinh quang trên Thập Giá (Jn 7:39). Đó là lời hứa ban Thánh Thần và tất cả ơn lành thiêng liêng từ trời gồm chứa trong Đức Kitô.
(2) Trên nhà David và dân cư của Jerusalem: Một cách tổng quát, những nhà lãnh đạo của Thiên Chúa sẽ nhận được Thánh Thần trước như các tông đồ trong ngày Lễ Năm Mươi, sau đó sẽ lan ra cho toàn dân. Một cách đặc thù, “nhà của David” hay “con vua Dadid” ám chỉ Đức Kitô, Thánh Thần Thiên Chúa ngự trên Đức Kitô là đầu của thân thể, và từ Ngài, Thánh Thần lan xuống cho tất cả chi thể. Dân cư ở Jerusalem không phải chỉ những người sống tại Jerusalem; nhưng còn tất cả mọi người thuộc Giáo Hội.
(3) Họ sẽ nhìn lên Ta Đấng họ đã đâm thâu và sẽ than khóc: Tại sao không vui mừng mà phải than khóc? Than khóc vì con người nhận ra Đức Kitô phải chết là tội của con người. Than khóc vì những kẻ đã đóng đinh Đức Kitô nhận ra họ đã đóng đinh Người Con Một của Thiên Chúa. Con người vẫn và sẽ tiếp tục than khóc vì họ không ngừng phạm tội phản bội tình thương của Thiên Chúa. Đức Kitô nói “Phúc cho kẻ than khóc, vì họ sẽ được yêu ủi” là thế. Nếu họ nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh mà không nhận ra tình thương Thiên Chúa và tội lỗi của họ, làm sao họ có thể được cứu thoát?
Họ sẽ khóc than như người ta khóc than đứa con một. Họ sẽ thương tiếc, như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng: Còn nỗi đau đớn nào hơn nỗi đau đớn của cha mẹ mất đứa con một, người con duy nhất họ có. Câu này gợi lại cho chúng ta sự than khóc của người Ai-cập khi các thiên thần tiêu diệt những đứa con đầu lòng của họ. Hay nỗi đau đớn của các bà mẹ mất con khi vua Herode tiêu diệt tất cả các con trẻ tại Bethlehem và các vùng phụ cận từ 3 tuổi trở xuống. Ngôn sứ Zechariah có ý muốn nói con người phải than khóc cho tội mình như thế, vì tội lỗi của họ mà Đức Kitô, Người Con Một của Thiên Chúa, đã phải đóng đinh vào Thập Giá và bị quân lính lấy lưỡi đòng đâm thâu.
2/ Bài đọc II: Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.
2.1/ Tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô.
(1) Đức Kitô đã kiên kết chúng ta nên một: Thánh Phaolô nói với các tín hữu Galat: “Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô.” Đức tin vào Đức Kitô đòi hỏi phải có trước khi một người lãnh nhận Phép Rửa. Khi lãnh nhận Phép Rửa, người tín hữu trở thành con cái của Thiên Chúa. Khi thánh Phaolô nói “người tín hữu mặc lấy Đức Kitô” là có ý muốn nói họ trở nên một phần thân thể hay chi thể của Ngài.
(2) Chúng ta không được chia cắt thân thể Chúa: Nếu các tín hữu đã trở nên những chi thể của Đức Kitô, bổn phận của tất cả là xây dựng Nhiệm Thể này sao cho mỗi ngày đạt tới mức thập toàn. Họ không được phép chia cắt thân thể của Ngài bằng việc “phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô.”
2.2/ Anh em là những người thừa kế theo lời hứa: “Nếu anh em thuộc về Đức Kitô, thì anh em là dòng dõi ông Abraham, những người thừa kế theo lời hứa.”
Một số người Do-thái cho nếu Dân Ngoại muốn trở thành con cháu Abraham, họ phải chịu cắt bì.” Thánh Phaolô trong Thư hôm nay và Thư Rôma đả phá quan niệm này. Ngài lý luận: Abraham được Thiên Chúa hứa ban cho một dòng dõi là vì đức tin của tổ phụ vào Thiên Chúa, chứ không do bởi việc cắt bì. Cũng vậy, khi một người tin vào Đức Kitô, họ trở thành con Thiên Chúa và thuộc dòng dõi Abraham. Họ được thừa kế những gì Thiên Chúa hứa nhờ lòng tin, nên không cần phải cắt bì.
3/ Phúc Âm: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa."
3.1/ Căn tính của Đức Kitô: Sắp đến giờ Đức Kitô phải lên Jerusalem để bắt đầu Cuộc Thương Khó và từ giã các môn đệ, Ngài muốn biết sau một thời gian sống với, mặc khải và giáo dục, các môn đệ đã nhận ra Ngài là ai chưa. Sau khi cầu nguyện, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ:
(1) "Dân chúng nói Thầy là ai?" Câu hỏi này chỉ để giúp các môn đệ suy nghĩ trước khi Chúa hỏi các ông câu thứ hai. Các ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Elijah, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại." Tất cả những danh xưng này không đủ để diễn tả căn tính của Đức Kitô, chúng chỉ nói lên phần nào đặc tính của Chúa Giêsu qua cái nhìn nhân loại: can đảm nói và bênh vực sự thật như Gioan Tẩy Giả, có khả năng làm nhiều phép lạ như ngôn sứ Elijah, hay có những lời dạy dỗ khôn ngoan của một ngôn sứ. Chúa Giêsu hỏi tiếp:
(2) Các con bảo Thầy là ai? Đây là câu hỏi không dễ trả lời vì câu trả lời không những phải nói lên căn tính của Chúa mà còn phải nói lên niềm xác tín của các tông đồ vào Ngài. Phêrô, tuy là một người mau mắn, nhưng nói năng không trôi chảy, đã mạnh dạn tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa." Trong trình thuật của Matthew, Chúa Giêsu nói với Phêrô: "Này anh Simon con ông Jonah, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16:17a). Điều này cho thấy để biết căn tính của Đức Kitô vượt quá trí khôn con người; để hiểu, họ cần được sự mặc khải của Thiên Chúa qua Thánh Thần của Ngài.
3.2/ Đấng Thiên Sai phải chịu đau khổ: Tuy tuyên xưng đúng căn tính của Đức Kitô, Phêrô vẫn chưa hiểu đúng Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa; vì khi Chúa Giêsu nói: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy." Phêrô đã kéo Chúa ra một nơi và can ngăn Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: "Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mt 16:22-23).
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Ai giữ sẽ mất, ai liều sẽ giữ lại được.” Để trở thành môn đệ của Đức Kitô, một người phải bỏ tất cả những ý riêng không hợp với ý của Thiên Chúa và làm theo thánh ý của Ngài. Ngoài ra, người đó còn phải chấp nhận con đường đau khổ, nghĩa là phải bắt chước Đức Kitô vác Thập Giá hằng ngày để mưu cầu ơn cứu độ cho mình và cho tha nhân.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Chúng ta cần xin Thánh Thần Chúa soi sáng để nhận ra Đức Kitô và những chân lý Ngài truyền dạy. Chúng ta cần xin Thánh Thần Chúa thúc đẩy để mong ước những điều tốt lành từ Thiên Chúa và chê ghét tội lỗi của mình. Sau cùng, chúng ta cần xin Chúa Thánh Thần ban sức mạnh giúp chúng ta đủ sức thi hành điều chúng ta mong muốn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

19/06/16 CHÚA NHT TUN 12 TN – C 
Lc 9,18-24

Suy nim: Ch cn mt câu tr li đúng và đc ý người phng vn là người đi xin vic được chp thun ngay. Kh ni có quá nhiu phương án tr li mà ch có mt cách làm đc ý người phng vn thì biết làm thế nào đây?! Các môn đ không trong hoàn cnh này vì Chúa Giê-su đã chn và nhn các ông vào làm vic cho mình trước khi các ông được hi. Hôm nay Chúa hi các môn đ là đ dn t cho các ông khuôn mt và s mnh ca Đng-được-Chúa-Cha-xc-du. S mnh đó là cu thế trong đau kh-ti nhc-vinh quang: hai mt ca mt đng xu!
Mi Bn: Mãi đến khi Chúa Giê-su sng li, các môn đ mi hiu ni dung ca nhng li Tin Mng hôm nay. Còn chúng ta bây gi chng khó khăn gì đ hiu nhng li đó, nhưng vn còn mt thách đ ln đó là thc thi điu mình đã hiu, đó là dám hy sinh t b chính mình đ bước theo Chúa Giê-su-vác thp giá-liu mng sng. Đó chính là câu tr li phng vn đp ý Chúa.
Sng Li Chúa: Trong cuc sng hng ngày, bn đã làm gì đ t ra mình đang sng điu mình tin vào Chúa? Có nhiu cách, bn hãy quyết làm mt trong nhng đ ngh này: b rượu chè, dn con cái đi d l ngày thường, nhc bo chúng hc giáo lý ngày Chúa Nht, thăm viếng người đau m trong xóm…
Cu nguyn: Ly Chúa, ch mình Chúa mi có li ban s sng đi. Xin cho con tin và làm theo li Chúa dy, nh đó cuc sng ca con s là câu tr li đúng ý Chúa cho nhng ai mun hi con như Chúa đã hi các môn đ ngày xưa.

THY LÀ AI? 
Mu nhim Vượt Qua nm trung tâm đi sng Kitô hu. Vượt qua ln nht là vượt qua chính mình mi ngày. T b chính mình là đ có th sng cho tha nhân. 


Suy nim:
Ðám đông bảo Thầy là ai?
Nói chung đám đông coi Ngài là một ngôn sứ đã khuất,
nhưng nay sống lại:
một Gioan Tẩy Giả, một Êlia hay một ngôn sứ nào khác.
Hiểu như thế đã là kính trọng lắm rồi,
nhưng tiếc thay lại không đúng,
vì Ðức Giêsu chẳng phải là người của kiếp trước hiện về...
Hôm nay tôi cũng cần biết người quanh tôi nghĩ gì về Ngài:
một nhà cách mạng xã hội? Một nhà cải cách tôn giáo?
một người đã dám sống và đã chịu chết,
để khai sinh một xã hội bình đẳng và huynh đệ đại đồng?
Có cái nhìn còn khiếm khuyết,
nhưng đã là một con đường rộng mở về chân lý.
Các con bảo Thầy là ai?
Phêrô trả lời đúng: Thầy là Ðức Kitô của Thiên Chúa.
Bản thân tôi cũng phải trả lời câu hỏi trên,
sau khi đã theo Chúa một thời gian dài.
Ðức Giêsu là một mầu nhiệm không ngừng mở ra và lớn mãi.
Ngài không thay đổi, nhưng sau mỗi biến cố,
tôi lại khám phá ra những nét mới nơi con người Ngài.
Ngài vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay,
nhưng Ngài thường đến với tôi dưới nhiều dáng dấp.
Ðời tôi là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi:
“Con bảo Thầy là ai?”
Càng lúc câu trả lời càng được thanh luyện.
Tôi sẽ sống dựa trên câu trả lời của mình.
Ðức Kitô bảo mình là ai?
Ngài thường định nghĩa mình bằng những hình ảnh cụ thể.
Tôi là Cửa (Ga 10,7), là Mục Tử (10,11), là Ánh Sáng (12,46).
Tôi là Ðường (14,6), là Cây Nho (15,1), là Bánh (6,51).
Ðịnh nghĩa nào cũng gắn chặt Ngài với con người.
Cửa để chiên ra vào. Mục Tử để chiên được sống.
Ánh Sáng để ta dễ bước đi, Ðường để đưa ta đến với Cha.
Thân Nho để các cành sinh trái, Bánh để nuôi nhân loại.
Ðức Kitô sống cho con người và sống với con người.
Ngài nhận mình là Chúa, là Thầy, là Bạn,
là Anh Trưởng của mọi người chúng ta.
Ngài nhận mình là Ðức Kitô dân Do thái mong đợi.
Nhưng Ngài không giấu ta thân phận của Ngài:
phải vượt qua khổ đau và cái chết mới được vào cõi sống.
Ðức Kitô bảo tôi là ai?
Kitô hữu là người vác thập giá theo sau Ðấng vác thập giá.
Chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Ngài đã đi.
Thân phận Kitô hữu gắn liền với thân phận Thầy mình:
“Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài” (2Tm 2,11).
Mầu nhiệm Vượt Qua nằm ở trung tâm đời sống Kitô hữu.
Vượt qua lớn nhất là vượt qua chính mình mỗi ngày.
Từ bỏ chính mình là để có thể sống cho tha nhân.
Mất mạng sống mình là để tín trung với Chúa.
Ước gì tôi là tôi hơn, khi tôi ra khỏi tôi.
Cầu nguyn:
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy không gọi chúng con là tôi tớ,
Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ.
Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy,
vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con
những điều riêng tư thầm kín nhất
trong tương quan giữa Thầy và Cha.
Hơn nữa, sau phục sinh,
Thầy đã gọi các môn đệ là anh em.
Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng
đứng đầu một đoàn em đông đúc.
Xin cho chúng con luôn thi hành ý muốn của Cha
để trở nên những người em cùng huyết nhục với Thầy.
Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên
làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy.
Còn Thầy lại hạ mình xuống
phục vụ chúng con như người tôi tớ,
rửa chân cho chúng con như một nô lệ
và chết thay cho chúng con trên thập giá.
Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy
và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
19 THÁNG SÁU
Tình Yêu Hôn Nhân Và Gia Đình Kitô hữu
Nơi người Kitôhữu, vai trò làm cha làm mẹ trước hết là một thực tại luân lý và tâm linh. Người ta chỉ cần có mấy tháng để đưa một em bé vào đời, nhưng trọn cả đời người cũng không đủ để hoàn thành việc nuôi dạy đứa con. Thật vậy, có rất nhiều giá trị – cả nhân bản lẫn siêu nhiên – mà cha mẹ phải truyền đạt cho con cái mình. Bởi vậy, hành vi trao ban sự sống của cha mẹ có một chiều kích hoàn toàn nhân bản. Và điều này đòi hỏi thời gian, lòng kiên nhẫn, trí phán đoán, sự khéo léo và tình yêu thương mấy cũng không vừa. Đó là nẻo đường mà cả gia đình được mời gọi cùng nhau bước đi từ ngày này sang ngày khác. Trong đó, mọi thành viên của gia đình – cả cha mẹ lẫn con cái – sẽ trưởng thành ngày càng hơn. Quả vậy, các bậc cha mẹ sống tư cách làm cha làm mẹ một cách đầy trách nhiệm sẽ khám phá thấy rằng trong tình yêu hôn nhân của họ có những khía cạnh rất tuyệt vời mà họ vốn không ngờ.
Những khía cạnh thâm sâu ấy của tình yêu hôn nhân cho phép chúng ta nhìn thoáng thấy chân trời rộng lớn ấy. Chúng ta nhận ra rằng tình yêu giữa người nam và người nữ siêu vượt trên kinh nghiệm về thời gian và nó tự mở ra tới viễn tượng sự phục sinh vinh quang của thân xác, ở đó sự sinh sản thể lý sẽ không còn, nhưng mối kết hợp tâm linh của hai tâm hồn sẽ vẫn tồn tại.
Trong ánh sáng này, hình ảnh của Giu-se được nhận thấy có một ý nghĩa phi thường. Vì trong cuộc hôn nhân trinh khiết giữa ngài với Đức Trinh Nữ Maria, một cách nào đó ngài báo trước kinh nghiệm trọn vẹn về thiên đàng. Ngài cho chúng ta thấy sự phong phú của tình yêu phu phụ được xây dựng trên những hòa điệu thâm sâu của linh hồn và được nuôi dưỡng bằng nguồn mạch yêu thương không bao giờ cạn kiệt.
Đây là một bài học rất có ý nghĩa cho thời đại chúng ta – một thời đại mà gia đình thường lâm vào khủng hoảng chỉ vì tựa vào một thứ tình yêu thiếu hẳn chiều sâu và sự phong phú này. Đàng khác, gia đình hôm nay in hằn những rối rắm, những nhấn mạnh thái quá đến bản năng và những sự lôi cuốn bên ngoài. Đành rằng bản năng và những lôi cuốn bên ngoài rất quan trọng, nhưng chúng không thể là nền tảng của tình yêu hôn nhân đối với các đôi vợ chồng Kitôhữu. Chúng ta hãy học lấy gương mẫu của Thánh Giu-se.
“Này con, sao con nỡ làm thế? Kìa cha con và mẹ đã lo lắng tìm con” (Lc 2,48). “Cha con” – đó là Thánh Giu-se, chồng của Mẹ Thiên Chúa, và trước mặt người đời là cha của Giê-su Na-da-rét, Giê-su Kitô, Con Thiên Chúa. Câu nói trên là một lời khiển trách rất bình dị, rất ‘người’. Nhưng, trên tất cả, câu nói ấy bày tỏ mối ưu tư. Nỗi ưu tư này chính là đặc trưng của vai trò làm cha làm mẹ, từ khoảnh khắc thụ thai đứa con trong cung lòng người mẹ, xuyên qua tuổi ấu thơ và cả cho đến tuổi trưởng thành. Mối ưu tư ấy của cha và mẹ há không phải là phản ảnh của sự quan phòng thần linh đó sao?
Và rồi, một câu nói khác nữa, lần này là của Đức Giê-su: “Cha mẹ không biết rằng con phải ở trong nhà Cha con sao?” (Lc 2,49). Câu nói của Giê-su, người con, nói với cha mẹ mình – là Giu-se và Maria. Câu nói ấy vén mở cho thấy rằng ở giữa mối ưu tư nói trên của cha và mẹ, vẫn có những khả năng cho đứa con lớn lên, vẫn luôn có khả năng cho tiếng gọiđến từ Thiên Chúa: “Con phải ở trong nhà Cha con…”
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 19 – 6
Chúa Nhật XII Thường niên
Dcr 12,10-11;13,1; Gl 3,26-29; Lc 9,18-24.

Lời suy niệm: “Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện. Các môn đệ cùng ở đó với Người, và Người hỏi với các ông rằng: Dân chúng nói Thầy là ai?”
Sau một thời gian dài Chúa Giêsu đã rao giảng, đã chữa lành với bao phép lạ giữa dân chúng từ nơi này đến nơi khác. Giờ đây Người long trọng hỏi các môn đệ của Người về dân chúng nói Người là ai. Các môn đệ đã trả lời những gì các ông đã nghe, nhưng Chúa Giêsu chưa thỏa mãn; Người lại đặt câu hỏi này đối với các môn đệ, là những người đã theo sát Người, cùng ở với Người, đã được Người dạy cách riêng: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Phần đông cũng đã giữ thái độ im lặng, chỉ có một mình Phêrô tuyên xưng: Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa cũng đang hỏi chúng con về Chúa. Xin cho chúng con phải học biết về Chúa để trả lời với lòng tin của mình, đừng để chúng con phải im lặng hầu che giấu vì sự thiếu hiểu biết của mình.
Mạnh Phương


19 Tháng Sáu
Thế Ư?
Hakuin là một thiền sư nổi tiếng tại Nhật Bản, ông sống ẩn dật trên núi. Ngày kia, có một thiếu nữ con nhà gia giáo bỗng thấy mình có thai. Cô nàng tuyên bố với mọi người rằng chính thiền sư Hakuin là tác giả của bào thai. Vừa nghe tin này, cả dân làng, do cha mẹ của cô thiếu nữ dẫn đầu, đã giận dữ kéo đến chòi của vị thiền sư. Họ la hét, chửi rủa vị thiền sư đủ điều...
Nhưng vốn điềm tĩnh, nhà sư chỉ biết mỉm cười thốt lên: "Thế ư?". Ai cũng nghĩ đó là một cách chịu tội. Ai cũng nghĩ chính ông là tác giả của bào thai trong lòng người thiếu nữ. Khi đứa bé chào đời, thiền sư Hakuin lặng lẽ đến nhận nó và đưa về chiếc chòi nghèo nàn của mình. Ông bồng lấy nó, nang niu nó và chăm sóc nó như chính đứa con ruột của mình.
Nhưng khoảng 18 năm sau, người thiếu nữ bông hối hận về hành vi của mình. Cô thú nhận rằng người cha của đứa bé chính là chàng ngư phủ trẻ trong làng.
Nghe tin này, ai ai trong làng cũng cảm thấy xấu hổ vì đã nghĩ xấu và nhục mạ một con người đáng kính. Một lần nữa, dưới sự dẫn đầu của cha mẹ thiếu nữ, cả làng kéo nhau đến chòi của vị thiền sư. Mọi người sụp lạy tỏ dấu sám hối vì đã xúc phạm đến thanh danh của vị đạo sĩ thánh thiện. Giữa lúc mọi người đồng thanh tuyên bố sự vô tội và cứu gỡ danh dự cho mình, vị thiền sư chỉ mỉm cười nói: "Thế ư?".
Hai tiếng " Thế ư?" của thiền sư Hakuin trên đây xem chừng như cũng cùng một âm điệu với hai tiếng "Xin vâng" của Mẹ Maria.
Thái độ điềm nhiên và chấp nhận không chỉ là kết quả của một sự rèn luyện ý chí, nhưng còn là một thể hiện của niềm tin. Thưa xin vâng trước tiên có nghĩa là tuyên xưng Tình Yêu không hề lay chuyển của Thiên Chúa. Thưa xin vâng là chấp nhận đi vào chương trình của Thiên Chúa, trong đó cho dù phải trải qua tăm tối và thử thách, con người vẫn tin ở sự thành toàn.
Thưa xin vâng cũng có nghĩa là nói lên niềm tin nơi chính bản thân: dù có yếu hèn, vấp ngã, con người vẫn luôn là đối tượng của một Tình Yêu chung thủy và là trọng tâm của một chương trình cao cả mà thiên Chúa đang thực hiện.
Thưa xin vâng cũng có nghĩa là nói lên niềm tin vào cuộc đời. Cuộc đời này, dù có đen bạc đến đâu, vẫn luôn có một ý nghĩa và tha nhân, dù có thấp hèn, xấu xa đến đâu, vẫn tiếp tục mang lấy hình ảnh cao vời của Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét