11/04/2018
Thứ Tư tuần 2 Phục Sinh.
BÀI ĐỌC I: Cv 5, 17-26
"Kìa, những người mà các
ông tống ngục, hiện đang đứng giảng dạy dân chúng trong đền thờ".
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy, vị
thượng tế và mọi người thuộc phe ông, tức là phái Sađốc, đầy lòng phẫn nộ; họ
ra tay bắt các tông đồ tống ngục. Nhưng đến đêm, Thiên Thần Chúa mở cửa ngục, dẫn
các ngài đi và nói: "Hãy đi vào đền thờ giảng dạy cho dân chúng biết mọi lời
hằng sống này". Nghe lệnh ấy, sáng sớm các ngài vào đền thờ và giảng dạy.
Lúc bấy giờ vị thượng
tế và các người thuộc phe ông đến, triệu tập công nghị và tất cả các vị kỳ lão
trong dân Israel, rồi sai người vào tù dẫn các tông đồ ra. Khi thủ hạ đến nơi,
mở cửa ngục, không thấy các tông đồ, họ liền trở về báo cáo rằng: "Thật
chúng tôi thấy cửa ngục đóng rất kỹ lưỡng, lính canh vẫn đứng gác ngoài cửa,
nhưng khi chúng tôi mở cửa ra, thì không thấy ai ở bên trong cả".
Khi nghe các lời đó, viên lãnh binh cai đền thờ và các thượng tế rất lúng túng, không biết rõ công việc đã xảy đến cho các tông đồ. Lúc đó có người đến báo tin cho họ rằng: "Kìa, những người mà các ông đã tống ngục, hiện đang đứng giảng dạy dân chúng trong đền thờ". Bấy giờ viên lãnh binh cùng các thủ hạ tới dẫn các tông đồ đi mà không dùng bạo lực, vì sợ bị dân chúng ném đá. Đó là lời Chúa.
Khi nghe các lời đó, viên lãnh binh cai đền thờ và các thượng tế rất lúng túng, không biết rõ công việc đã xảy đến cho các tông đồ. Lúc đó có người đến báo tin cho họ rằng: "Kìa, những người mà các ông đã tống ngục, hiện đang đứng giảng dạy dân chúng trong đền thờ". Bấy giờ viên lãnh binh cùng các thủ hạ tới dẫn các tông đồ đi mà không dùng bạo lực, vì sợ bị dân chúng ném đá. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 33, 2-3.
4-5. 6-7. 8-9
Đáp: Kìa người đau
khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Tôi chúc tụng Chúa
trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi
hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Đáp.
2) Các bạn hãy cùng
tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa
đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. - Đáp.
3) Hãy nhìn về Chúa để
các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và
Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Đáp.
4) Thiên Thần Chúa hạ
trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm
thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai nương tựa ở
nơi Người. - Đáp.
ALLELUIA: Ga 14, 26
Alleluia, alleluia!
- Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những
gì Thầy đã nói với các con. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 3, 16-21
"Thiên Chúa đã sai Chúa
Con đến để thế gian nhờ Người mà được cứu độ".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói
với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người
để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống
đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế
gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy,
thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào
danh Con Một Thiên Chúa và đây là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian và
người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy,
ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc
làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự
sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa. Đó
là lời Chúa.
SUY NIỆM : Án xử của
Thiên Chúa
Cách đây 2.400 năm,
triết gia Hy Lạp là Socrate đã bị mang ra toà và bị kết án phải uống thuốc độc
vì hai tội: làm sa đoạ giới trẻ bằng những lý thuyết viển vông và tuyên truyền
cho các thần minh mới. Bồi thẩm đoàn xét xử Socrate gồm 501 người được tuyển lựa
trong số 6000 công dân Athène. Đây là vụ án nổi tiếng nhất của thế kỷ 4.
Vụ án nổi tiếng nhất
cuả thế kỷ 20 hẳn phải là vụ án của Hosê Simon, một cầu thủ bầu dục trở thành
tài tử kiêm phóng viên truyền hình về thể thao tại Hoa Kỳ. Simson là một người
da đen bị cáo buộc đã giết vợ và bạn trai của cô ta. Đã có quá nhiều chứng cớ
hiển nhiên, nhưng sau nhiều tháng xét xử, toà vẫn chưa đưa ra được một phán quyết
nào. Nhiều người cho rằng với một bồi thẩm đoàn gồm đa số người da đen và nhất
là với những luật sư nổi tiếng mà Simson đã bỏ tiền ra thuê, rồi ra anh ta có
thể được trắng án. Và quả thực tin giờ chót vừa cho hay toà tuyên bố Simson vô
tội và anh được tha bổng.
Nhà hiền triết bị kết
án, kẻ sát nhân được tha bổng, bao nhiêu người vô tội bị đầy ải trong các nhà
tù. Công lý của con người vốn bất toàn là thế. Chính vì vậy ở thời đại nào, nỗi
khao khát công lý trong lòng người vẫn không bao giờ được toả mãn. Người Do Thái
thời Chúa Giêsu cũng khao khát công lý: Đấng Cứu Thế mà họ mong đợi sẽ là một
quan toà khôn ngoan, có khả năng xoá bỏ bất công, trừng trị kẻ gian ác và tái lập
công lý. Các tín hữu tiên khởi phát xuất từ Do thái giáo cũng tiếp tục nuôi dưỡng
một niềm mong đợi đó.
Nhưng một cuộc phán xử
như thế đã không diễn ra khi Chúa Giêsu đến. Thay cho một quan toà nghiêm khắc,
người ta chỉ thấy một vị mục tử tốt lành. Thay cho những phán quyết thẳng thừng,
người ta chỉ nghe được những lời tha thứ dịu ngọt. Quả thật như Chúa Giêsu đã
giải thích cho Nicôđêmô: Thiên Chúa sai Con Ngài đến thế gian không phải để lên
án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của ngài mà được cứu độ. Chúa Giêsu
không xét xử và luận phạt con người. Chính con người tự xét xử mình bằng cách
chọn lựa hay khước từ Chúa Giêsu. Mỗi hành động xấu tự nó đã là một bản án cho
con người. Sự phán xét do đó không là một biến cố bên ngoài con người, mà chính
là thái độ đáp trả của con người với lời mời gọi của Chúa Giêsu. Nếu tôi bước
đi trong ánh sáng của Chúa Giêsu, tôi được bình an thư thái; trái lại, khi tôi
chọn lựa bóng tối của ích kỷ, thì tôi đã tự ký bản án, tự đày đoạ chính mình rồi.
Thiên đàng, hoả ngục,
ngày chung thẩm vốn được thêu dệt bởi biết bao hình ảnh thần thoại. Đó là những
thực tại vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta. Tuy nhiên, có điều chắc chắn là
Thiên đàng, hoả ngục, ngày chung thẩm đều gắn liền với cuộc sống tại thế này.
Con người có thể hưởng nếm Thiên đàng ngay từ cuộc sống này khi nó bước đi
trong ánh sáng chân lý của Chúa Giêsu. Cũng ngay trong cuộc sống này, mỗi khước
từ đối với Ngài đã là một thứ hoả ngục mà con người tự giam mình vào, và ngày
chung thẩm cũng đã diễn ra trong con người qua từng chọn lựa của mình.
“Thiên Chúa yêu thương
thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài. Ngài sai Con Một Ngài đến thế gian không phải
để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. Đó
phải là niềm xác tín thúc đẩy chúng ta luôn sống tin tưởng và yêu thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần II PS
Bài đọc: Acts
5:17-26; Jn 3:16-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người
ghét ánh sáng vì các việc làm của họ mờ ám.
Thiên Chúa dựng nên
con người có khả năng tìm ra sự thật. Sở dĩ con người không chịu nhìn nhận sự
thật là vì họ muốn ở trong sự tăm tối để người ta đừng nhận ra những việc làm mờ
ám của họ.
Các Bài Đọc hôm nay muốn
nêu bật sự tối tăm này nơi con người. Trong Bài Đọc I, vì ghen tức, vị Thượng Tế
và những người thuộc Nhóm Sadducees cho bỏ tù các tông đồ. Họ ghen tức vì dân
chúng trước đây nghe theo họ, giờ chạy theo để nghe lời giảng dạy của các tông
đồ. Họ nhân danh bảo vệ Lề Luật để bỏ tù các tông đồ, nhưng thực ra chỉ là để
che đậy ý đồ đen tối của họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu, sau khi tuyên bố tình
yêu Thiên Chúa dành cho con người, đã cắt nghĩa lý do tại sao con người ngoan cố
không chịu ra ánh sáng: họ muốn che dấu những việc làm mờ ám của họ. Nếu họ phải
ra ánh sáng, người khác sẽ nhìn thấy những việc mờ ám này; và vì vậy, tông tích
họ bị lộ tẩy.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vì ghen tức, họ bắt các Tông Đồ và nhốt vào nhà tù công cộng.
1.1/ Xung đột giữa uy quyền
của Thiên Chúa và sức mạnh của con người: Thiên
Chúa, Đấng dựng nên và đang điều khiển muôn vật, trao trái đất cho con người quản
lý; nhưng nhiều người đã sai lầm khi nghĩ: chính con người làm chủ trái đất
này. Vì thế, luôn hiện diện một sự xung đột giữa Thiên Chúa và con người trong
thế giới: Con người muốn thay Thiên Chúa quyết định mọi sự. Một ví dụ xảy ra
trong Bài Đọc hôm nay:
(1) Con người đàn áp
và bưng bít sự thật: “Bấy giờ, vị Thượng Tế cùng tất cả những người theo ông -
tức là phái Sadducees - ra tay hành động. Đầy lòng ghen tức, họ bắt các Tông Đồ
và nhốt vào nhà tù công cộng.”
(2) Thiên Chúa giải
thóat và truyền cho các tông đồ phải rao giảng sự thật: “Nhưng ban đêm thiên sứ
của Đức Chúa mở cửa ngục, đưa các ông ra mà nói: "Các ông hãy đi, vào đứng
trong Đền Thờ mà nói cho dân những lời ban sự sống."
1.2/ Lựa chọn của con người: theo Thiên Chúa hay theo thế gian?
(1) Các tông đồ chọn để
làm theo những gì Thiên Chúa truyền: Các ông khinh thường roi đòn và ngục tù của
quyền lực thế gian để rao giảng Tin Mừng như thiên sứ truyền dạy. Tại sao các
ông có thể làm được những điều này trong khi bao con người sợ hãi và trốn
tránh? Thưa vì các ông đã nhìn thấy rõ uy quyền của Thiên Chúa hơn hẳn mọi quyền
lực của con người: Thiên sứ của Đức Chúa đã đưa các ông ra khỏi ngục khi lính vẫn
canh và cửa tù vẫn đóng. Hơn nữa, các ông đã nhìn thấy rõ sự thật của Đức Kitô
và sự sai trái của Thượng Hội Đồng. Các ông chắc cũng đã tự hỏi: Tại sao lại cứ
phải tiếp tục làm nô lệ cho sự sai trái, mà không để cho sự thật giải phóng các
ông. Vì thế, khi có cơ hội là các ông loan báo sự thật và vạch trần sự sai
trái.
Dân chúng cũng chọn
theo sự thật của các tông đồ giảng dạy. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, “chẳng
có gì giấu kín mà không được tiết lộ.” Sự thật sẽ có lúc được tiết lộ, con người
không thể bưng bít mãi sự thật. Tuy là “dân đen ít học,” nhưng họ vẫn còn có
khôn ngoan Thiên Chúa ban để nhận ra sự thật. Họ không ngu dốt đến độ cứ bị
đánh lừa để xỏ mũi kéo đi mãi. Họ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai đích
thực Thiên Chúa gởi đến để cứu chuộc con người; họ cũng nhận ra sự mờ ám của những
người trong Thượng Hội Đồng, họ thủ tiêu Chúa Giêsu chỉ vì ghen tức mà thôi. Một
khi dân chúng đã nhận ra sự thực, những kẻ làm điều sai sẽ mất uy quyền cai trị
và phải coi chừng kẻo bị dân chúng ném đá.
(2) Các người thuộc
Thượng Hội Đồng tiếp tục ở trong bóng tối: Sách CVTĐ viết: “Nhưng khi thuộc hạ
đến, họ không thấy các ông trong ngục. Họ trở về báo cáo rằng: "Chúng tôi
thấy ngục đóng kỹ lưỡng và những người lính canh đứng ở cửa; nhưng khi mở cửa
ra, chúng tôi không thấy ai ở bên trong." Nghe những lời ấy, viên lãnh
binh Đền Thờ và các thượng tế phân vân về các ông, không biết chuyện gì xảy
ra.” Họ phân vân về những chuyện xảy ra, “ngục vẫn đóng, làm sao các ông có thể
thoát ra?” Nếu họ chịu khó để sự thật hướng dẫn, họ sẽ hiểu chính uy quyền của
Thiên Chúa đã giải thoát các tông đồ, và họ sẽ không tiếp tục chống lại Ngài nữa.
Nhưng họ vẫn cứng lòng
và không thay đổi thái độ đối với các tông đồ: “Viên lãnh binh bèn đi với bọn
thuộc hạ và điệu các ông về, nhưng không dùng bạo lực vì sợ bị dân ném đá.” Có
một sự khôi hài xảy ra ở đây: Lẽ ra các tông đồ là những người phải sợ họ;
nhưng giờ đây họ trở thành những người sợ dân chúng ném đá. Có lẽ họ biết có gì
khác thường xảy ra, nhưng vẫn không quan tâm để ý tới, vì đã quá quen thói dùng
sức mạnh để đàn áp người vô tội.
2/ Phúc Âm: Ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh
sáng.
2.1/ Thiên Chúa yêu
thương con người: Chúa Giêsu xác tín tình yêu
Thiên Chúa dành cho con người khi Ngài nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã
ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời.”
Mục đích của Thiên
Chúa khi sai Người Con đến thế gian, không phải là để lên án thế gian; nhưng là
để cứu độ thế gian. Một Thiên Chúa đã yêu thương nhân lọai đến độ hy sinh Người
Con Một của mình, điều này chứng tỏ Ngài không nghĩ đến việc lên án, mà chỉ
nghĩ đến việc cứu chuộc. Nếu Thiên Chúa không lên án, tại sao vẫn có người phải
hư mất? Thực tế, con người lên án chính mình khi quay lưng lại với tình yêu
Thiên Chúa và không tin vào Đức Kitô.
2.2/ Xung đột giữa ánh
sáng và bóng tối: là sự xung đột thể lý, những
gì mà con người thấy được. Chúa Giêsu được ví như ánh sáng đến để xua tan bóng tối
đang bao trùm thế gian. Con người có quyền tự do lựa chọn: hoặc chấp nhận ra
ngòai ánh sáng: tin vào Chúa Kitô, hoặc chấp nhận ở trong bóng tối: không tin
vào Chúa Kitô. Chính sự lựa chọn này mà con người được cứu độ hay bị lên án.
Đàng sau sự xung đột
thể lý là sự xung đột luân lý: giữa sự thiện và sự ác, như Chúa Giêsu nói: “Quả
thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc
họ làm khỏi bị chê trách.” Chúa Giêsu muốn nói lý do tại sao con người không chấp
nhận ánh sáng không phải vì họ không biết ánh sáng tốt lành và lợi ích, nhưng
vì có những điều ác (tội lỗi) họ đã quá quen thuộc và không muốn từ bỏ. Nếu chọn
ra ngòai ánh sáng hay tin vào Chúa Kitô, họ phải chấp nhận bỏ những điều này.
Sau cùng, đây là sự xung đột tâm linh: giữa Thiên Chúa và thế gian. Thiên Chúa
muốn cứu độ con người trong khi ma quỉ và các quyền lực thế gian muốn lôi kéo
con người về phía chúng. Để thuộc về Thiên Chúa, con người phải “đến cùng ánh
sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên
Chúa."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta luôn bị đặt
trong tình trạng xung đột giữa ánh sáng và bóng tối, giữa uy quyền Thiên Chúa
và sức mạnh của ma quỉ và thế gian, cho đến ngày chúng ta từ giã cuộc đời này.
- Chúng ta luôn bị đặt
phải lựa chọn để sống theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa hay tiêu chuẩn của thế
gian. Chúa Giêsu báo trước đau khổ nếu chúng ta chọn sống theo tiêu chuẩn của
Thiên Chúa: Họ sẽ ghét anh em vì anh em không thuộc về họ.
- Ngài cũng báo trước
cho chúng ta sự toàn thắng của lối sống theo Thiên Chúa: “Trong thế gian, anh
em sẽ bị người đời ghét bỏ; nhưng đừng sợ vì Thầy đã thắng thế gian.”
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
11/04/2018 - THỨ TƯ TUẦN 2 PS
Th. Sta-nít-la-ô, giám mục, tử đạo
Ga 3,16-21
ĐỨC GIÊ-SU, ĐẤNG CỨU ĐỘ
“Thiên Chúa yêu thế
gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16)
Suy niệm: Một khi không tin Chúa
Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất, người ta sẽ tin rằng mọi thứ người ta sở hữu sẽ
cứu độ họ. Nhiều người nghĩ rằng tiền bạc của cải đầy đủ sẽ cứu độ họ. Có người
cho rằng thế lực, sức khỏe sẽ đem lại sự an toàn vững bền và một thế giá sáng
ngời. Nhưng, những thứ sở hữu đó thật mong manh như Chúa Giê-su cảnh báo: “Đồ
ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn
đó sẽ về tay ai?” Kết quả sẽ ra sao nếu ta cứ bám vào bọt biển để bơi? Vì thế,
Lời Chúa hôm nay quả thật là Tin Mừng cho chúng ta, vì Thiên Chúa Cha đã ban
Con Một của Ngài là Chúa Giê-su để cứu độ chúng ta. Đức thánh cha Phanxicô giải
thích rằng, Thiên Chúa không cứu độ chúng ta bằng tờ giấy hay bằng một sắc lệnh
nào đó, nhưng bằng chính Con Một của Ngài. Trong Đấng Phục Sinh, Thiên Chúa phục
hồi phẩm giá con người bị đánh mất vì tội lỗi và ban sự sống cho những ai đón
nhận Đấng Phục Sinh. Thiên Chúa ban Đấng Cứu Độ duy nhất, đồng thời quả quyết,
tin vào Chúa Giê-su là cách duy nhất lãnh nhận ơn cứu độ.
Mời Bạn: Bạn đang trông mong vào điều
gì để cuộc đời bạn được bảo đảm? Gia đình bạn đang dựa vào điều gì để gia đình
bạn được vững bền? Bạn đón nhận Con Một của Thiên Chúa thế nào?
Sống Lời Chúa: Qui tụ gia đình trước bàn
thờ Chúa để cầu nguyện mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Đấng Cứu Độ duy nhất của gia đình con, ngoài Chúa ra chúng con không
tìm đâu được hạnh phúc. Xin cho gia đình con yêu Chúa hằng ngày.
(5 Phút Lời Chúa)
Thiên Chúa yêu thế gian (11.4.2018 – Thứ tư Tuần 2 Phục sinh)
Hãy từ bỏ những việc làm tối tăm, dối trá, xấu xa, bạn sẽ dễ dàng đến cùng ánh sáng Giêsu.
Khi nghĩ về Thiên Chúa,
người ta hình dung ra Ngài với nhiều khuôn mặt.
Có khi Thiên Chúa giống
một ông cảnh sát, luôn để ý theo dõi để trừng phạt,
hay như một quan tòa cứ
theo pháp luật mà kết án nghiêm minh.
Có khi Thiên Chúa giống
một nhà buôn, tính toán sòng phẳng,
chỉ ban ơn khi nhận được
một lợi lộc nào đó, có qua có lại.
Có khi Thiên Chúa giống
một nhà độc tài, áp đặt quyền lực trên con người,
không cho con người được
tự do, bắt con người phải theo một định mệnh có sẵn.
Có khi Thiên Chúa như một
thứ ô dù để người ấu trĩ dựa dẫm trong lúc khó khăn,
hay như một sản phẩm của
người bị áp bức tự ru ngủ mình.
Có bao nhiêu hình ảnh méo
mó về Thiên Chúa như vậy.
May mắn đó không phải là
khuôn mặt Thiên Chúa của các Kitô hữu.
Ngài chẳng phải là cảnh
sát hay quan tòa, là nhà buôn hay nhà độc tài.
Ngài cũng chẳng phải là
người cha độc đoán không muốn cho con mình khôn lớn.
Đơn giản Thiên
Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4, 8).
Và Tình Yêu vô lượng ấy
được thể hiện bằng hành động:
“Thiên Chúa đã yêu thế
gian đến nỗi đã ban Con Một…” (c. 16).
Tình yêu của Thiên Chúa
Cha ôm lấy thế gian, dù nó nghiêng chiều về sự dữ.
Như Abraham yêu quý đứa
con một là Isaac, và đã chịu sát tế con cho Chúa,
Thiên Chúa Cha cũng yêu
quý người Con Một của Ngài là Đức Giêsu,
và đã trao ban người Con
ấy cho thế gian.
Cha trao ban Con khi sai
Con vào đời mang thân phận xác phàm (Ga 1, 14).
Cha còn trao ban Con cho
thế gian qua cái chết của Con trên thập giá.
Nơi máng cỏ Bêlem hay nơi
đồi Sọ,
ta thấy Cha đưa hai tay
ra để trao món quà tình yêu quý giá nhất cho loài người.
Và Cha chờ con người đáp
lại bằng cách đưa hai tay đón nhận.
Con người vẫn có tự do để
đón nhận hay từ chối món quà ấy
qua việc tin hay không
tin Đức Giêsu.
Đứng trước Đức Giêsu, Con
Một Thiên Chúa,
là đứng trước một chọn
lựa nghiêm chỉnh có liên quan đến vận mệnh con người.
Ai tin vào Ngài thì có
ánh sáng, ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu (cc. 16.17.19).
Tiếc thay có kẻ ghét ánh
sáng và thích bóng tối hơn ánh sáng.
Hãy từ bỏ những việc làm
tối tăm, dối trá, xấu xa,
bạn sẽ dễ dàng đến cùng
ánh sáng Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt,
còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn.
Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối
nhưng khi nhìn thật sâu
vào lòng mình,
con vẫn thấy có nhiều
bóng mờ tác động.
Con an tâm ở lại trong
bóng mờ,
vì thấy đó chưa phải là
một tội.
Nhưng con cũng áy náy
vì biết rằng bóng mờ là
nơi
ánh sáng Chúa chưa thấm
nhập trọn vẹn.
Con không muốn bóng mờ
thành ánh sáng,
vì con vẫn muốn giữ lại
một điều gì đó rất quý
đối với con.
Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc
để con được tự do yêu mến
và phụng sự Chúa hơn.
Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con
để con được thuộc trọn về
Chúa.
Xin kéo con ra khỏi thái độ lấp lửng, nước đôi,
để dứt khoát đặt Chúa
trên mọi sự.
Ước gì con có đủ can đảm để dám nhìn thẳng
vào những bóng mờ trong
đời con.
Và ước gì con được trở nên trong suốt
nhờ để ánh sáng Chúa
tràn ngập mọi vùng mờ tối nơi con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG TƯ
Đức Tin Của Chúng
Ta Bật Ra Từ Chứng Từ Của Các Thị Chứng Nhân
Luca, tác giả Sách Tin
Mừng, kể tiếp: “Rồi Người mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh” (Lc 24,45). Từ bài diễn
từ của Phê-rô trong Sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta nhận ra việc Đức Kitô mở trí
cho các Tông Đồ nắm hiểu sự thật về Tin Mừng đã có hiệu quả như thế nào.
Thật vậy, sau khi
trình bày những biến cố nối kết với cái chết và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô,
Phê-rô tuyên bố với cư dân Giê-ru-sa-lem: “Như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện
những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của
Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để
Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,18-20).
Trong những lời ấy của
vị Tông Đồ, chúng ta nhận ra một âm vọng rõ ràng những lời của chính Đức Kitô.
Chúng ta nhận ra Chúa Phục Sinh đã biến đổi tâm trí và cuộc sống của các Tông Đồ
như thế nào qua việc truyền đạt sự thật của Người.
Đây là câu chuyện của đức
tin chúng ta. Chúng ta nhận ra cách mà thế hệ chứng nhân đầu tiên của Đức Kitô
– tức các Tông Đồ và các môn đệ – truyền đạt sứ điệp Tin Mừng căn bản. Nó bật
ra trực tiếp từ chứng từ của những chứng nhân mắt thấy tai nghe cái chết và sự
sống lại của Đức Kitô.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 11/4
Thánh Stanisiô,
giám mục, tử đạo
LỜI SUY NIỆM: “Thiên Chúa
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn đời.”
Lời Kinh Thánh này cho
chúng ta biết được khởi đầu của sự cứu chuộc nhân loại có nguồn gốc từ Thiên
Chúa, đối với nhân loại, tình yêu này là tình yêu duy nhất và vĩnh cửu. Ngài
trao ban Con Một của Ngài vì tình yêu, Ngài trông mong và dịu dàng kêu gọi mọi
người trở lại với tình yêu của Ngài, để được sống muôn đời.
Lạy Chúa Giêsu, Thánh
Augustinô đã nói: “Chúa yêu mỗi người chúng ta dường như chỉ có một mình ta để
Ngài yêu mà thôi.”. Xin cho mỗi người chúng con đáp lại tình yêu của Chúa
Cha với đức tin, tin Chúa là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng con, để chúng
con được sống.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 11-04
Thánh STANISLAÔ
Thánh Stanislaô được
kính nhớ như vị Thánh bảo trợ thành Krakow ở Balan, nơi Ngài làm giám mục và
hài cốt Ngài được lưu giữ ở nhà thờ chính tòa. Không có tường thuật đương thời
nào về Ngài được coi là đầy đủ và các chi tiết về đời Ngài cũng không rõ rệt lắm.
Người ta kể rằng: cha mẹ Ngài thuộc dòng dõi quí phái, nhưng lại hiếm muộn về
đàng con cái. Sau nhiều lời cầu nguyện khẩn thiết, ngày 26 tháng 07 năm 1030, họ
sinh được một người con trai và đặt tên là Stanislaô. Họ chú tâm đào luyện con
mình theo những tập quán đạo hạnh khiến Stanislaô, từ nhỏ đã tỏ ra có tinh thần
bác ái và nhiệt hành phụng sự Chúa.
Trong bầu khí đạo đức ấy,
từ thuở nhỏ Stanislaô đã nghe rõ tiếng Chúa kêu gọi đi làm tông đồ Chúa. Trước
hết Ngài đã theo học đại học tại triết học tại Đại học Gniezno. Sau đó Ngài
sang Paris theo học Luật và thần học ở tu viện Lorranin trong bảy năm trời. Khi
cha mẹ qua đời, Ngài phải trở về Balan.
Được thừa hưởng gia
tài lớn cha mẹ để lại, nhưng thánh nhân đã quyết chí hiến thân phụng sự Chúa vì
vậy Ngài đã đem của cải phân phát cho người nghèo khó rồi tiếp tục theo đưổi lý
tưởng tu trì. Đức Giám mục Lampert đã phong chức Linh mục cho Stanislaô, năm
1062 và đặt làm Kinh sĩ tại nhà thờ chánh tòa địa phận.
Giữ chức vụ kinh sĩ,
Stanislaô đã trở nên lừng danh về tài thuyết giảng và về chính đời sống gương mẫu
thánh thiện của Ngài. Đức cha Lambert, toàn thể giáo sĩ và giáo dân đã bầu
Stanislaô lên kế vị. Vì khiêm tốn, thánh nhân quyết không chịu nhận. Nhưng năm
1072, vâng lời đức thánh cha Alexandre II, Stanislaô đã nhận làm giám mục
Krakow.
Đức cha Stanislaô là một
giám mục thánh thiện và nhân hậu nhất là đối với những ai đau khổ và nghèo đói.
Tuy nhiên, Ngài cũng tỏ ra là người can đảm đặc biệt. Vua Balan lúc ấy là
Bôleslas II. Ong ta đã dùng sức mạnh khí giới để đạt tới vinh quang nhưng lại
chịu bị khuất phục trước những tật xấu khủng khiếp. Hành vi độc ác của ông đã
khiến cho người ta gọi ông là "kẻ độc ác". Cả nước đều phải run sợ
nhưng không ai dám mở lời can ngăn. Chỉ có một người, một vị thánh là Stanislaô
đã dám đương đâu với sự giận dữ của nhà vua.
Sau khi cầu nguyện với
tất cả tâm hồn, thánh nhân đến gặp nhà vua. Khiêm tốn nhưng đầy cương quyết,
thánh nhân quyết định nói với ông ta tất cả những gì phải nói, Ngài trình bày
cho nhà vua thấy trước những tội ác tày trời, gương mù trong vương quốc mà nhà
vua gây nên, Ngài cũng nói cho nhà vua rõ những phán xét Thiên Chúa đang chờ
đón. Vừa nghe, Bôleslas đã tỏ ra hối hận. Nhưng thật đang tiếc vì đây chỉ là một
tình cảm chóng qua, Bôleslas lại trở nên man rợ như trước và còn thêm một tội
ghen ghét vào những ác độc của ông.
Sau này, vua đã cướp vợ
của một nhà quí phái để nhốt trong hoàng cung. Cơn giận lan ra khắp tỉnh nhưng
dân chúng run sợ không ai dám mở miệng, thánh Stanislaô một lần nữa can đảm đến
gặp Boleslas, cố gắng đưa ông trở về với những tình cảm chân chính. Ngài đe dọa,
nếu còn cố chấp, nhà vua sẽ bị tuyệt thông. Run lên vì tức giận, nhà vua tìm kế
sát hại thánh nhân.
Bôleslas biết Đức cha
có mua một thuở đất để xây cất nhà thờ mà chỉ trao tiền trứơc mặt nhiều chứng
nhân mà không làm chứng từ. Khi chủ nhân cũ qua đời, ông đe dọa các chứng nhân
để họ phản chứng rồi tố giác Đức giám mục ra tòa. Mưu độc của ông bị thất bại.
Vì sau ba ngày cầu nguyện thánh Stanislaô đã truyền đào mồ người chết và kêu
ông dậy làm chứng sự thật.
Dầu vậy, Bôleslas vẫn
không thay lòng đổi dạ đối với vị giám mục gan dạ Stanislaô. Ngày 08 tháng 5
năm 1079, khi thánh Stanislaô đang dâng thánh lễ tại thánh đường thánh Micae.
Ông sai người đến sát hại thánh nhân. Cả ba nhóm binh sĩ lần lượt đến mà không
hoàn thành được lệnh truyền, khiến chính nhà vua phải ra tay. Ông xông vào nhà
thờ chém giết vị giám mục tại bàn thờ. Chưa đã thoả lòng giận dữ , ông còn chặt
xác Ngài thánh ra làm nhiều khúc rồi vứt ra ngoài đồng cho chim trời rúc rỉa.
Nhưng bốn ngày sau, trên trời chỉ có bốn cánh phương hoàng bay lượn ngăn cản tất
cả không cho bất cứ con vật nào xâm phạm tới xác thánh.
Bấy giờ Boleslas mới tỉnh
ngộ và hối lỗi. Ông cho tổ chức lễ an táng thánh Stanislaô rất trọng thể. Xác
thánh liền lại như mới qua đời vì bệnh tật và được chôn cát tại nhà thờ chánh
tòa Krakow.
(daminhvn.net)
11 Tháng Tư
Ðám Cưới Vĩ Ðại Nhất
Một trong những đám
cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám cưới của
Alexandre Ðại đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công
nguyên.
Khi quyết định một
người Á châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim. Nhưng qua cuộc
hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả lãnh thổ đã được chinh
phục từ Ðông sang Tây. Ông cũng hy vọng có một người con nối dõi với hai dòng
máu Ðông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.
Ðám cưới được cử
hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để tăng thêm phần
long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: thế vận hội
đã được khai sinh từ đó. Chính Ðại đế là người đích thân trao giải thưởng cho những
người thắng cuộc. Thông thường hoàng đế trao tặng những chiếc cúp bằng vàng.
Nhưng, người được coi là đoạt được nhiều giải thưởng nhất trong cuộc thi thế vận
hội đầu tiên ấy chỉ nhận được có mỗi một cành lá. Alexandre Ðại đế giải thích
như sau: chỉ có vinh hiển mới có thể tưởng thưởng được người xuất sắc nhất.
Có một hôn lễ còn vĩ đại
gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Ðại đế với công chúa Roxane: đó là hôn lễ của
Trời với Ðất, của Thiên Chúa với Nhân Loại. Ðây là cuộc hôn lễ mà loài người đã
chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy diễn ra qua việc Con Thiên Chúa
xuống thế mặc lấy xác phàm. Ngài đến không kèn không trống, không quân đội,
không thế vận hội. Ngài không mang lại các cúp vàng, Ngài không chỉ trao cành
lá vinh thắng cho một người, nhưng cho tất cả mọi người. Ai cũng có thể chiến
thắng cho cuộc sống của mình và ai cũng có thể nhận lãnh cành lá vinh hiển ấy.
Ai trong chúng ta cũng
có một phần thưởng vô giá, ai trong chúng ta cũng là người đoạt giải nhất và ai
trong chúng ta cũng nhận được cành lá vinh hiển của sự sống đời đời.
Với Chúa Giêsu là Ðấng
đã thắng thế gian và đang tiếp tục chiến đấu bên cạnh chúng ta, chúng ta tin chắc
rằng chúng ta cũng sẽ chiến thắng.
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét