12/04/2018
Thứ Năm tuần 2 Phục Sinh
BÀI ĐỌC I: Cv 5, 27-33
"Chúng tôi là nhân chứng
các lời đó cùng với Thánh Thần".
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Hôm ấy, khi các thủ hạ
dẫn các tông đồ đi, họ đem các ngài ra trước công nghị. Vị thượng tế hỏi các
ngài rằng: "Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà
các ngươi đã giảng dạy giáo lý các ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn
làm cho máu người đó lại đổ trên chúng tôi ư?" Phêrô và các tông đồ trả lời
rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa của
cha ông chúng ta đã cho Đức Giêsu sống lại, Đấng mà các ông đã giết khi treo
Ngài trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm
Đấng Cứu Độ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng
tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho
mọi kẻ vâng lời Người?" Khi nghe những lời đó, họ liền phẫn nộ và tìm mưu
giết các ngài. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 33, 2 và 9.
17-18. 19-20
Đáp: Kìa người đau
khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Tôi chúc tụng Chúa
trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Các bạn hãy nếm thử và
hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở
nơi Người. - Đáp.
2) Chúa ra mặt chống
người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và
Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Đáp.
3) Chúa gần gũi những
kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát. Người hiền đức gặp
nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. - Đáp.
ALLELUIA: Ga 16, 7 và
13
Alleluia, alleluia!
- Chúa phán: "Thầy sẽ sai Thần Chân Lý đến, người sẽ dạy các con biết tất
cả sự thật". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 3, 31-36
"Đức Chúa Cha thương mến
Con Ngài, nên ban toàn quyền trong tay Con Ngài".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, ông Gioan nói
để làm chứng về Chúa Giêsu rằng: "Đấng từ trên cao mà đến thì vượt trên hết
mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất. Đấng
từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Điều gì Người thấy và nghe, thì Người
làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận
lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Đấng chân thật. Đấng được
Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh
khôn lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con
thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống,
nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy". Đó là lời Chúa.
Suy niệm : Tình yêu thương
“Thiên Chúa đã yêu
thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Ngài cho thế gian, để những ai tin
vào Con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống đời đời".
Ðó là một sự thật quan
trọng được Chúa Giêsu mạc khải cho ông Nicôđêmô trong cuộc đối thoại ban đêm,
được ghi lại nơi chương 3, Phúc Âm thánh Gioan. Lời quả quyết trên về tình
thương của Thiên Chúa đối với con người được Chúa Giêsu lập lại một lần nữa
trong bữa Tiệc Ly như sau: "Thật vậy, Thiên Chúa Cha đã yêu thương các con
vì các con đã yêu mến Thầy và tin rằng Thầy từ Thiên Chúa mà đến" (Ga
16,27).
Thử hỏi, có ai có uy
tín hơn Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, để mạc khải cho chúng ta biết
tình thương của Thiên Chúa Cha đối với thế gian, đối với toàn thể tạo vật đã được
dựng nên và nhất là đối với tất cả mọi người đã được dựng nên giống hình ảnh của
Ngài?
Lý trí tự nhiên của
con người qua những suy tư triết học khó có thể, nếu không muốn nói là không bao
giờ có thể đạt đến kết luận chắc chắn rằng Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài yêu
thương con người đến mức độ cho đi điều quí nhất là chính Con Một Thiên Chúa, để
cứu chuộc con người khỏi nô lệ tội lỗi, khỏi phải chết. Chỉ nhờ mạc khải của
Chúa Giêsu Kitô, con người chúng ta mới nghe được sự thật đầy an ủi này, Thiên
Chúa đã yêu thương thế gian, Thiên Chúa Cha hằng yêu thương con người. Lý do
thôi thúc hành động của Thiên Chúa cứu rỗi con người chính là tình yêu thương,
và Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người biết và cho cả ông Nicôđêmô, là người
có đủ uy tín để nói như vậy, bởi vì Người từ nơi Thiên Chúa Cha mà mạc khải cho
chúng ta biết.
Những lời tâm sự trên
xác nhận căn cứ và nguồn gốc của Chúa Giêsu từ trên cao, từ Thiên Chúa Cha. Những
lời này nhắc cho chúng ta nhớ lại những suy tư cao sâu của tác giả Phúc Âm theo
thánh Gioan, nơi khởi đầu sách Phúc Âm của ngài như sau: "không ai đã thấy
Thiên Chúa bao giờ. Nhưng Con Một Ngài là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung
lòng Thiên Chúa Cha, chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết nguồn gốc thần linh của
Chúa Giêsu Kitô". Làm cho những sự thật được Chúa mạc khải cho con người
có được giá trị trỗi vượt hơn mọi lý thuyết, hơn mọi lẽ khôn ngoan do trí khôn
con người nghĩ ra. "Kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện
dưới đất. Ðấng từ trên trời mà đến thì ở trên mọi người". Người làm chứng
về những gì Người đã thấy và đã nghe trực tiếp từ Thiên Chúa Cha, vì Người hằng
ở cùng Thiên Chúa Cha, được sai xuống trần gian để mạc khải cho con người biết.
Ðáp lại mạc khải của
Chúa Giêsu, con người cần khiêm tốn, vâng phục và kính tin. Ðây là điều Chúa mời
gọi ông Nicôđêmô ngày xưa và mọi người ngày nay hãy thực hiện: "Ai tin vào
Con Thiên Chúa thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời".
Chúng ta đã đáp lại
mạc khải của Thiên Chúa như thế nào?
Thảm trạng của con người
bắt đầu khi con người tin không có Thiên Chúa và nếu có Thiên Chúa thì họ vẫn
lãnh đạm thờ ơ không tin vào Thiên Chúa, và cũng không tin, không quí trọng sự
thật được Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, mạc khải nữa. Nhưng thử hỏi,
con người có thể dập tắt khát vọng hướng về Thiên Chúa đã ăn rễ sâu trong tâm hồn
của mình hay không?
Lạy Cha, chúng con cảm
tạ Cha vô cùng vì đã ban cho chúng con Chúa Giêsu Kitô để chỉ cho chúng con biết
con đường sống như những con cái Cha, và trở về cùng Cha an toàn. Xin thương
giúp cho chúng con trưởng thành trong đức tin mỗi ngày một hơn. Xin củng cố đức
tin chúng con trước những thách đố của môi trường xã hội trần tục, không ngừng
tìm cách chối bỏ Chúa cũng như cố ý làm méo mó và cười nhạo những sự thật do
Chúa mạc khải.
Lạy Cha, xin thương củng
cố đức tin của chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần II PS
Bài đọc: Acts
5:27-33; Jn 3:31-36.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người cần
khiêm nhường nhận ra và chấp nhận uy quyền của Thiên Chúa.
Vũ trụ quá bao la
trong khi khả năng hiểu biết của con người quá hạn hẹp. Nếu con người chưa biết
hết được những gì xảy ra dưới đất, làm sao có thể thông suốt những sự trên trời?
Vì thế, con người cần tránh thái độ “cóc ngồi đáy giếng.” Vì cóc chỉ thấy được
một bầu trời hạn hẹp bằng miệng giếng, cóc cho mình là nhất. Cóc có biết đâu
bên ngoài miệng giếng là cả một vũ trụ mênh mông!
Vũ trụ tiềm tàng bao sức
mạnh kinh hồn trong khi con người lại quá yếu đuối. Nếu con người chưa có sức mạnh
đủ để đương đầu với những sức mạnh của thiên nhiên (gió bão, núi lửa, động đất),
làm sao con người có thể chống lại uy quyền của Thiên Chúa? Nếu con người vẫn
ngoan cố chống chọi uy quyền của Thiên Chúa, khác nào như con người lấy trứng
chọi vào đá!
Các Bài Đọc hôm nay nhắc
nhở cho con người biết khả năng hạn hẹp của mình. Trong Bài Đọc I, khi Thượng Hội
Đồng cấm các tông đồ không được rao giảng đạo lý Đức Kitô; các tông đồ cương
quyết bảo vệ lập trường của mình: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người
phàm.” Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhắc nhở cho mọi người về nguồn gốc của Ngài:
“Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất
và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.
Trong Cuộc Thương Khó
và Tử Nạn của Đức Kitô, tất cả các Tông-đồ và Thượng Hội Đồng đều chối từ và chống
lại Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không kết tội con người, nhưng Ngài muốn
con người phải chịu trách nhiệm về những việc mình làm: Nếu họ đã làm sai, hãy
có can đảm chấp nhận và tìm cách sửa sai; chứ không thể cứ nhắm mắt và đổ lỗi
cho người khác.
1.1/ Các Tông-đồ trình
bày niềm tin của mình: Mặc dù các ông đã chối
từ và bỏ chạy trong Cuộc Thương Khó, nhưng khi được Chúa Giêsu hiện ra, các ông
đã nhận ra tội của mình; và sau khi được củng cố bởi quyền lực của Thánh Thần,
các ông mạnh dạn ra đi và làm chứng cho Đức Kitô trước mặt mọi người: Trước
tiên, các Tông-đồ tố cáo Thượng Hội Đồng tội giết Đấng Thiên Sai: “Đức Giêsu đã
bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi.” Sau đó, các ông vạch ra cho mọi người
nhìn thấy uy quyền Thiên Chúa: “Nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm
cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ
lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội.”
Khi bị Thượng Hội Đồng
đe dọa và ngăn cấm không cho rao giảng Danh Chúa Giêsu, ông Phêrô và các Tông-đồ
khác đáp lại rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”
1.2/ Phản ứng ngoan cố của
Thượng Hội Đồng: Đã sai lầm khi luận tội và
xin đóng đinh Chúa Giêsu, họ vẫn không chịu nhận tội khi các Tông-đồ làm chứng
cho Ngài. Vị Thượng Tế hỏi các Tông-đồ: "Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông
không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Jerusalem ngập đầy
giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!"
Khi các Tông-đồ trả lời phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm, họ giận
điên lên và muốn giết các ông.
Một câu trả lời hết sứ
hợp lý, nhất là cho những con người mang tiếng bảo vệ Lề Luật của Thiên Chúa;
thế mà họ không nhận ra sự thật, lại còn để cho sự kiêu ngạo và ghen tị thống
trị con người họ, và dùng sức mạnh để áp đảo các Tông-đồ. Họ nhân danh bảo vệ Lề
Luật; nhưng thực ra họ coi thường Lề Luật; chẳng hạn: (1) Họ kết án Chúa Giêsu
mà không điều tra về Ngài như Lề Luật đòi hỏi; (2) Họ đòi đóng đinh Chúa vào thập
giá ngay cả khi một người ngoại, Philatô, đã tuyên bố Ngài vô tội; và (3) Họ đe
dọa, đánh đòn, và muốn giết cả hai nhân chứng, Phêrô và Gioan, khi các ông muốn
làm chứng cho Chúa Giêsu. Nói tóm, họ không còn biết gì đến Lề Luật như chức vụ
họ đòi phải thi hành; nhưng họ để cho tính nóng giận và sự ghen tức làm chủ, để
rồi chỉ biết dùng bạo lực để đàn áp người vô tội.
2/ Phúc Âm: Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời.
2.1/ Chúa Giêsu mặc khải
cho con người những gì từ Thiên Chúa: Chân
lý căn bản con người cần khiêm nhường nhìn nhận: “Đấng từ trên cao mà đến thì ở
trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất.
Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người.” Tiên tri Isaiah cũng từng tuyên sấm
những gì Thiên Chúa nói: “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường lối
của Ta cũng cao hơn các ngươi bấy nhiêu (Isa 55:9).
Vì có sự khác biệt lớn
lao như thế, nên con người không thể hiểu những gì từ Thiên Chúa, nếu những điều
đó không được mặc khải và soi sáng cho con người. Chúa Giêsu đến để mặc khải
cho con người những mầu nhiệm của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần soi sáng cho
con người để họ có thể hiểu những chân lý này. Chúa Giêsu nói: “Người làm chứng
về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. Ai
nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật.”
Sở dĩ con người không
tin vào Đức Kitô là vì từ trước tới giờ họ chỉ tin có Một Thiên Chúa. Tuy họ biết,
theo lời các ngôn sứ, Thiên Chúa sẽ gởi Đấng Thiên Sai đến để cứu chuộc dân;
nhưng họ tin Ngài là Đấng sẽ dùng uy quyền mà cứu chuộc và thống trị dân, chứ
không phải bằng khiêm nhường chịu đau khổ như Đức Kitô. Chúa Giêsu đến cắt
nghĩa cho họ biết về sự liên hệ giữa Thiên Chúa và Ngài, Người được Thiên Chúa
sai đến, nhưng họ từ chối không tin vào lời chứng của Người. Chúa muốn nhắc nhở
cho họ biết nếu họ chưa thông suốt việc dưới đất, làm sao có thể thông suốt việc
trên trời.
2.2/ Hậu quả của việc
nhìn nhận hay chối từ Con Thiên Chúa: Nếu một
người nhìn nhận Đức Kitô là Đấng được Thiên Chúa sai đi, họ sẽ được hưởng sự sống
đời đời, được nhận lãnh Thánh Thần, và được hưởng muôn hồng ân mà Thiên Chúa
Cha đã trao vào tay Người Con. Nếu họ từ chối không tin Đức Kitô là Đấng được
Thiên Chúa sai đến, họ sẽ không được hưởng sự sống đời đời, nhưng cơn thịnh nộ
của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi
để nhận biết sự khôn ngoan và uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta cũng phải nhìn
nhận khả năng giới hạn và sự yếu đuối của mình. Có như vậy, chúng ta mới biết
cách sống làm sao cho đúng và đạt được kết quả tốt đẹp cho cuộc đời.
- Ai tuyên bố phải hiểu
mới tin là người kiêu ngạo và rồ dại. Kiêu ngạo vì cho mình có thể thông suốt mọi
sự trên trời cũng như dưới đất. Rồ dại vì không biết giới hạn của mình và bỏ lỡ
cơ hội để học hỏi những điều mới lạ.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
12/04/2018 - THỨ NĂM TUẦN 2 PS
Ga 3,31-36
NÓI CHUYỆN TRÊN TRỜI
“Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ bởi đất mà
ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất.” (Ga 3,31)
Suy niệm: “Kẻ bởi đất mà
ra thì nói những chuyện dưới đất”, và giả như có nói “những chuyện trên trời”
thì cũng nói theo kiểu “những chuyện dưới đất”. Con người dù có ai thông thái
khôn ngoan đến mấy đi nữa, khi nói về Thiên Chúa, cũng phải dùng ngôn ngữ loài
người và những quan niệm của con người để phóng chiếu lên tới vô cùng, và giả định
như thế là Thiên Chúa. Do đó, con người vẫn thường vô tình tạo ra những thần
linh theo hình ảnh, sở thích của mình để rồi tôn thờ chính “những thần linh do
tay mình làm ra”. Chỉ có Đấng từ trời xuống mới đủ khả năng, đủ thế giá để nói
về những sự trên trời. Vì thế, nếu chúng ta muốn biết điều chi về Thiên Chúa,
chúng ta chỉ có thể tìm biết từ chính Con Một của Người, Đấng từ trời mà xuống.
Và nếu chúng ta muốn đến với Thiên Chúa, chúng ta cũng chỉ có thể đến qua Đức
Giê-su Ki-tô, Đấng duy nhất đã chết, sống lại và lên trời. Quả thật, Đức Giê-su
Ki-tô là “Đấng Cứu Độ Duy Nhất” của nhân loại.
Mời Bạn: Khi mọi lời nói của chúng
ta đều bất cập trước mầu nhiệm vô biên của Thiên Chúa thì bạn vẫn còn một
phương thế để đạt tới Thiên Chúa đó là dựa vào chính Lời Chúa và nhờ Thánh Thần
hướng dẫn, để hiểu biết và đón nhận thánh ý Ngài.
Sống Lời Chúa: Trung thành đọc và suy gẫm
Lời Chúa mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin
ban Thần Khí Đức Ki-tô trên chúng con, cho chúng con luôn say mê những sự trên
trời để dùng những biết dùng của cải đời này mà đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu đời
sau.
(5 Phút Lời Chúa)
Đấng từ trên cao mà đến (12.4.2018 – Thứ năm Tuần 2 Phục sinh)
Chẳng có giây phút nào tôi quên mình là Con, người được sai. Chẳng có giây
phút nào tôi quên Cha tôi là Đấng sai tôi.
Suy niệm:
Giêsu ơi! Ngài từ đâu
đến?
Tôi là Đấng từ trên cao
mà đến.
Tôi là Đấng từ trời mà
đến (c.31).
Tôi sinh ra trên đất,
sống trên đất, chết trên đất.
Nhưng tôi không thuộc về
đất, đất không phải là gốc của tôi.
Gốc của tôi ở nơi cung
lòng Thiên Chúa (Ga 1, 18).
Dù cư ngụ trên mặt đất,
tôi vẫn luôn hướng về Cha tôi trên trời.
Khi làm xong sứ mạng, tôi
sẽ trở về với gốc của tôi.
Giêsu ơi! Ngài làm gì
vậy?
Tôi làm chứng về điều tôi
đã thấy và đã nghe (c. 32).
Tôi làm chứng về Thiên
Chúa là Cha của tôi.
Tôi đã thấy việc Người
làm và đã nghe tiếng Người nói.
Nhiều vĩ nhân diễn tả rất
hay, rất đúng về Thiên Chúa
và cũng có kinh nghiệm
rất sâu về Người.
Nhưng họ không phải là
Con như tôi.
Họ chẳng thể nào gần mầu
nhiệm Thiên Chúa như tôi.
Chẳng ai biết Cha bằng
Con, không ai biết Cha trừ ra Con (Lc 10, 22).
Chỉ mình tôi mới có thể
vén mở trọn vẹn khuôn mặt Thiên Chúa.
Giêsu
ơi! Ngài là ai?
Tôi là người được Thiên
Chúa sai đến với nhân loại trên mặt đất (c. 34).
Chẳng có giây phút nào
tôi quên mình là Con, người được sai.
Chẳng có giây phút nào
tôi quên Cha tôi là Đấng sai tôi.
Khi nhận mình triệt để
tùy thuộc vào Cha, tôi chẳng hề xấu hổ.
Tôi đáng tin vì chính sự
tùy thuộc đó.
Tôi chẳng làm điều gì tự
mình,
tôi chỉ làm điều tôi đã
thấy Cha tôi làm (Ga 5, 19).
Tôi chẳng nói điều gì tự
mình,
tôi chỉ nói điều tôi đã nghe
Cha tôi nói (Ga 8, 26).
Chính khi tôi tùy thuộc
trọn vẹn vào Cha mà tôi được tự do.
Giêsu ơi! Ngài có hạnh
phúc không?
Tôi hạnh phúc vì tôi yêu
và được yêu.
Cha tôi yêu mến tôi và
tôi ở lại trong tình yêu của Cha (Ga 15, 10),
Người vẫn ở với tôi và không
để tôi cô độc (Ga 8, 29).
Người yêu mến tôi vì tôi
dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (Ga 10, 17).
Tình yêu của Cha thể hiện
qua việc Người trao phó mọi sự trong tay tôi (c. 35).
Tôi có quyền phán xét,
quyền cho sống lại ngày sau hết, quyền trên mọi xác phàm.
Bởi vậy tôi mới nói mọi
sự Cha có là của tôi (Ga 16, 15).
Hãy đón nhận lời chứng
của tôi (c. 33).
Hãy tin vào tôi để được
sự sống vĩnh hằng ngay từ đời này (c. 36).
Hãy đến với tôi để được
chia sẻ cùng một sứ mạng và vinh quang.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.
(Charles de Foucauld)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
12 THÁNG TƯ
Đức Tin Và Việc Làm
Vậy thì, thế nào là trở
nên một Kitôhữu? Câu trả lời: đó là tiếp tục đón nhận và chấp nhận lời chứng của
các Tông Đồ, các thị chứng nhân, về ơn cứu độ của chúng ta. Đó là tin vào Đức
Kitô với cùng một đức tin đã được khai sinh nơi các Tông Đồ do những hành động
và lời nói của Đấng Phục Sinh.
Tông Đồ Gio-an viết:
“Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là
chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không
tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người
ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên
hoàn hảo” (1Ga 2,3-5).
Vị Tông Đồ đang nói về
một đức tin sống động. Một đức tin sống động là một đức tin đem lại hoa trái là
những việc làm thiện hảo. Đó chính là những việc làm của tình yêu. Đức tin sống
động nhờ tình yêu của Thiên Chúa ở nơi chúng ta. Tình yêu được diễn tả qua việc
tuân giữ các điều răn. Cũng có thể không có mâu thuẫn nào giữa sự hiểu biết (=
tôi biết Người) và những hành động của một người tuyên xưng Đức Kitô. Chỉ những
ai hoàn thành đức tin của mình bằng những việc làm thiện hảo mới là người ở lại
trong sự thật.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 12/4
Cv 5, 27-33; Ga 3,
31-36.
LỜI SUY NIỆM: “Ai tin vào
người Con thì được sống muôn đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì
không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.”
Tin vào người Con là
tin vào tình yêu thương cứu độ của Thiên Chúa, một tình yêu vĩnh cửu, một tình
yêu thương xót và tha thứ; một tình yêu đi tìm con chiên đi lạc, một tình yêu đợi
trông đứa con đi hoang trở về; nếu không chịu tin vào người Con là phủ nhận
tình yêu của Ngài, tự đứng riêng ra bên ngoài tình yêu ấy, không muốn lệ thuộc
vào Ngài.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng
con tạ ơn Chúa đã ban ơn đức tin cho chúng con và chúng con đang tin Chúa là Đấng
cứu độ chúng con, xin cho chúng con luôn trung thành với niềm tin của mình qua
cuộc sống hằng ngày hôm nay.
Mạnh Phương
12 Tháng Tư
Ra Ði Là Chết Trong Lòng Một Ít
Phật giáo Trung Hoa
rất nhớ ơn và hãnh diện vì có thiền sư là Ðường Tam Tạng. Ông là người đã có
công vượt núi trèo non để đi Tây Trúc thỉnh Kinh đem về phổ biến cho dân gian.
Truyện Tây Du Ký đã
ghi lại cuộc ra đi đầy gian nan của thầy Tam Tạng. Nhưng những gian nan thử
thách xảy đến cho thiền sư họ Ðường không phải chỉ là gai góc hiểm trở của đoạn
đường dài, mà chính là những tật xấu mà ba người môn đệ thân tín nhất của thầy
là hiện thân. Tôn ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Tăng, ba cái tên này chính là
ba nết xấu mà thiền sư họ Ðường cũng như bao người khác phải vượt qua để đạt
chính quả. Ba nết xấu đó là: lòng kiêu căng, lòng ham vật dục và tính lười biếng.
Ra đi là chết trong
lòng một ít... Thiền sư họ Ðường có lẽ đã phải chiến đấu và hao mòn vì những
tham sân si trong lòng thầy.
Tin Mừng cũng nhắc đến
một cuộc ra đi: đó là cuộc ra đi của Chúa Giêsu. Ngài rời bỏ quê hương để đi
Galilêa. Galilêa chỉ cách Nagiarét vài chục cây số... Nhưng với Chúa Giêsu cuộc
trẩy đi này bao hàm một cuộc lột xác và từ bỏ trọn vẹn. Ngài từ bỏ tất cả để
vào sa mạc.
Ra đi có nghĩa là ra
khỏi chính mình và không quay nhìn lại phía sau. Ra đi tức là chấp nhận chết đi
trong lòng một ít.
Thánh nữ Têrêxa Hài Ðồng
Giêsu, mặc dù chưa một lần ra khỏi bốn bức tường của tu viện, đã được Giáo Hội
chọn làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Một lúc nào đó, có lẽ
chúng ta cũng khao khát được mang Tin Mừng của Chúa đến một nơi xa lạ... Ước mơ
ấy có thể làm cho chúng ta quên đi thựck tại của không biết bao nhiêu người thiếu
thốn lương thực cho thể xác cũng như tinh thần.
Ra đi loan báo Tin Mừng,
trước tiên chính là ra lhỏi con người của chúng ta. Ra khỏi con người của thiển
cận, ích kỷ của chúng ta để mặc lấy một cái nhìn nhậy cảm hơn trước sự hiện diện
của tha nhân.
(Lẽ Sống)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét