15/04/2018
Chúa Nhật tuần 3 Phục Sinh năm B
(phần II)
SCĐ CHÚA NHẬT III PHỤC SINH NĂM B
CHỦ ĐỀ
BÀI GIÁO LÝ II VỀ CUÔC SỐNG KITÔ HỮU :
NHẬN BIẾT ĐỨC GIÊSU
Đức Giêsu hiện ra cho hai môn đệ
trên đường Emmau
(Lc 24,35-48)
Sợi chỉ đỏ
- Bài đọc I (Cv 3,13-15.17-19) : Bài giảng của Phêrô cho người
do thái sau khi chữa lành một người què à "Anh em đã hành động (giết Đức
Giêsu) mà không biết".
- Bài Tin Mừng (Lc 24,35-38) : Đức Giêsu hiện ra với hai môn
đệ Emmau à Hai ông đã nhận ra Đức Giêsu khi Ngài giải thích Sách Thánh và khi
Ngài bẻ bánh.
- Bài đọc II (1 Ga 2,1-6a) : Dấu chỉ mình thực sự "biết"
Chúa là tuân giữ giới răn Ngài.
Như thế bài giáo lý II này nhấn mạnh đến việc "nhận biết"
Đức Giêsu.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Trên cuộc lữ hành dương thế, chúng ta không phải là người độc
hành cô đơn phải tự mình giải quyết mọi vấn đề. Nhưng có Chúa cùng đi với chúng
ta. Tuy vô hình nhưng Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Lời Ngài soi sáng
tâm trí và sưởi ấm cõi lòng chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe câu nói mà phụng vụ
thường nhắc đi nhắc lại : "Chúa ở cùng anh chị em".
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Đức Giêsu đã nói "Bình an cho chúng con". Nhưng
bình an có đang thực sự ngự trị trong tâm hồn chúng ta và trong môi trường
chúng ta sống không ?
- Đức Giêsu đã nói "Hãy ở trong Thầy". Nhưng chúng
ta có thực sự ở trong Chúa khi cầu nguyện, khi lãnh nhận các bí tích và khi sống
trong cộng đoàn Giáo Hội không ?
- Đức Giêsu đã nói "Chúng con là nhân chứng của Thầy".
Nhưng chúng ta có thực sự làm chứng cho Chúa qua lời nói, việc làm và cách sống
không ?
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I : Cv 3,13-15.17-19
Sau khi Phêrô chữa lành một người què tại cửa Đền thờ, nhiều
người ngạc nhiên và bàn tán. Nhân cơ hội này, Phêrô giảng một bài :
- Trong phần đầu bài giảng, Phêrô xác nhận người què này được
chữa lành không phải nhờ quyền năng hay đạo đức riêng của ông, mà chính là nhờ
Danh Giêsu.
- Qua phần hai, Phêrô nhắc lại vụ án Đức Giêsu. Ông nói người
do thái đã giết Đức Giêsu vì họ không "biết". Nay Thiên Chúa đã cho
Ngài sống lại. Việc này chứng tỏ Đức Giêsu chính là Đấng Messia. Vậy họ hãy sám
hối và tin vào Ngài để được ơn cứu độ.
2. Đáp ca : Tv 4
Đây là lời cầu nguyện bày tỏ lòng trông cậy phó thác : mặc
dù đang ở trong cơn khốn khó, tín hữu vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ giải thoát
mình cho nên người tín hữu cảm thấy "thư thái bình an, vừa nằm tôi đã ngủ".
Đức Giêsu chính là người sống tâm tình này tuyệt hảo nhất :
Ngài đã "nằm ngủ" bình an trong tay Thiên Chúa rồi được Thiên Chúa
cho "thức dậy" qua cuộc phục sinh.
3. Tin Mừng : Lc 24,35-48
Hai môn đệ Emmau đã theo Đức Giêsu bấy lâu nay, họ nghĩ rằng
họ "biết" Ngài. Theo cái "biết" ấy thì Ngài chỉ là "một
tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ" và họ "hy vọng
Ngài sẽ cứu Israel".
Nhưng khi Đức Giêsu bị giết, họ mới ý thức rằng cái "biết"
đó chỉ là cái họ "tưởng" chứ không phải là "biết" thật.
Đức Giêsu giúp họ "biết" thực sự, nhờ việc Ngài giảng
giải Lời Sách Thánh và nhờ việc Bẻ bánh.
Khi đã "biết" Đức Giêsu, hai ông vội vã trở lại
Giêrusalem để loan báo cho các môn đệ khác "biết" nữa.
4. Bài đọc II : 1 Ga 2,1-6a
Chịu ảnh hưởng của thuyết Ngộ đạo, các tín hữu cũng coi trọng
sự "biết" và họ tự hào rằng mình đã biết Đức Giêsu.
Thánh Gioan tông đồ giải thích thế nào là "biết"
thật : "Chính nơi điều này mà chúng ta biết rằng mình "biết" Đức
Giêsu, đó là chúng ta giữ các giới răn của Ngài. Ai nói rằng mình "biết"
Ngài mà không giữ giới răn Ngài thì ấy là kẻ nói dối".
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. "Biết" và được cứu độ
Vào khoảng cuối thế kỷ I, có một lạc thuyết nổi lên trong
Giáo Hội, đó là thuyết Ngộ đạo. Thuyết này đề cao sự hiểu biết ("ngộ")
: ai đã đạt đến trình độ hiểu biết cao sâu về Chúa thì sẽ bảo đảm được cứu độ.
Ngày nay, có nhiều người cũng lầm tưởng rằng nếu "biết" giáo lý,
"biết" lề luật, "biết" Thánh Kinh thì cũng bảo đảm được phần
rỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay xóa tan ngộ nhận ấy, cái "biết"
có thể mang đến ơn cứu độ là cái "biết" do suy gẫm sách Thánh và kết
hợp với Đức Giêsu Thánh thể. Bài trích thư thứ nhất Thánh Gioan cho thấy thêm một
điều kiện nữa : không chỉ biết Chúa mà còn phải tuân giữ các giới răn của Ngài
nữa thì mới được cứu độ.
* 2. Những cảm nghiệm Emmau
Vào chính ngày Đức Giêsu sống lại, có hai môn đệ chán nản rời
Giêrusalem để về làng Emmau. Thánh Luca cho biết tên một người, đó là Clêôpát.
Còn người kia thì Luca không nói tên. Chắc chắn không phải vì ông không biết,
nhưng có lẽ vì người thứ hai ấy chính là Luca, hoặc cũng có thể vì một lý do gì
khác. Ch. Perrot đã đoán lý do khác ấy là : "Người bạn của Clêôpát không
được nêu rõ tên nhưng lại mang tên của mọi tín hữu". Nghĩa là, theo suy
đoán của Ch. Perrot, Thánh Luca cố ý không nêu tên người môn đệ kia vì muốn coi
người ấy là đại biểu của mọi tín hữu. Nói cách khác, bất cứ ai trong chúng ta
cũng đều có thể trải qua những cảm nghiệm của người môn đệ ấy.
Vậy chúng ta hãy đi vào tâm trạng của người môn đệ ấy, và
chia xẻ những cảm nghiệm của ông.
1. "Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán thì chính Đức
Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản nên không nhận
ra Ngài" : Đây là cảm nghiệm thứ nhất, cảm nghiệm về tình trạng của Đức
Giêsu phục sinh. Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với
chúng ta. Chỉ có điều là cặp mắt xác thịt của chúng ta không thấy được Ngài, giống
như có một bức màn ngăn cách giữa chúng ta với Ngài. Đến một lúc nào đó, nếu
Ngài muốn, thì Ngài bỏ bức màn ấy xuống, khi đó không còn gì ngăn cản nữa thì
chúng ta sẽ thấy được Ngài. Đối với hai môn đệ Emmau, đó là lúc ở trong lữ
quán, "mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài".
2. Vậy nhờ cái gì mà tấm màn ngăn cách chúng ta với Đức
Giêsu phục sinh được cất đi để chúng ta nhận ra Ngài ? Cảm nghiệm của hai môn đệ
Emmau cho thấy nhờ hai điều :
a/ Điều thứ nhất là nhờ suy gẫm Sách Thánh : "Ngài giải
thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh".
Sau này hai ông nhớ lại cảm giác lúc đó : "Dọc đường khi Ngài nói chuyện
và giải thích Sách Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên đó
sao ?".
b/ Điều thứ hai là Bí tích Thánh Thể : "Ngài cầm lấy
bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra
Ngài".
Sách Thánh đã làm cho những cõi lòng lạnh giá chán chường bừng
cháy lên, Bí tích Thánh Thể khiến cho bức màn ngăn cản cặp mắt xác thịt hạ xuống.
*
Thực ra chúng ta đã nhiều lần đọc Sách Thánh và tham dự Bí
tích Thánh Thể. Nhưng tại sao khi đọc Sách Thánh lòng chúng ta không "cháy
bừng lên", và khi tham dự Thánh Lễ mắt chúng ta không "mở ra" ?
Thưa vì chúng ta đọc Sách Thánh như đọc về Đức Giêsu chứ không phải đọc vớiĐức
Giêsu như hai môn đệ Emmau ; và chúng ta dâng Thánh Lễ như dâng lên cho Ngài chứ
không phải cùng dâng với Ngài.
Chúng ta có thể làm mọi việc với Ngài, bởi vì Đức Giêsu phục
sinh luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo
đường đời. Ngày xưa đối với hai môn đệ Emmau cũng thế và ngày nay cũng vẫn thế.
3. Cuộc sống mới của các môn đệ
Có thể nói sau khi Đức Giêsu chết thì các môn đệ cũng chết
luôn, chết về mặt tinh thần và về luân lý : nhóm 12 đã rã rời, vì Giuđa đã tự vẫn,
Tôma đã bỏ đi do khủng hoảng đức tin, những người còn lại thì co cụm với nhau
trong căn phòng đóng kín cửa, lòng họ đầy sợ hãi, nghi ngờ, mặc cảm tội lỗi, buồn
phiền và thất vọng.
Nhưng ngay sau khi sống lại, Đức Giêsu phục sinh cũng làm
cho họ sống lại : Ngài chủ động đến với họ chứ không chờ họ đi tìm Ngài, Ngài
không nói một lời trách móc nhưng lại chúc bình an, Ngài ăn uống với họ để họ
tin chắc Ngài vẫn sống, Ngài mở trí cho các ông hiểu ý nghĩa Thánh Kinh, Ngài lại
còn sai họ ra đi rao giảng cho muôn dân. Tất cả những việc làm tế nhị và yêu
thương ấy đã giúp cho các môn đệ
- không còn sợ hãi
- không còn nghi ngờ
- không còn mặc cảm tội lỗi
- không còn buồn phiền
- không còn thất vọng
Con người cũ của các ông không còn, các ông như được sống lại
trong con người mới, sẵn sàng ra đi khắp nơi loan báo Tin Mừng phục sinh cho mọi
người.
4. "Hãy nhìn chân tay Thầy"
Một người con kia rất yêu thương cha mình. Người cha là một
nông dân, suốt đời cần cù lao động để nuôi sống gia đình. Khi người cha chết
đi, lòng người con rất buồn rầu. Anh cứ đứng gần thi thể của cha mà nhìn, nhất
là nhìn đôi bàn tay của cha. Anh nói : "Nhìn đôi bàn tay sần sùi chai sạm ấy,
tôi nhớ lại tất cả những cực nhọc khổ sở mà cha tôi đã chịu vì yêu thương
tôi"
Khi hiện đến với các môn đệ, Đức Giêsu cũng bảo họ hãy nhìn
chân tay Ngài, những chân tay không phải chai sạm mà đầy những thương tích.
Nhìn không phải chỉ để xác nhận Đức Giêsu hôm nay cũng chính là Đức Giêsu hôm
qua bị đóng đinh, mà còn để nhận ra tình thương bao la vô bờ bến của Ngài :
"Không có tình thương nào lớn hơn tình của người thí mạng sống cho người
mình thương".
Khi hiện ra với Tôma, Đức Giêsu cũng bảo ông hãy chạm đến
các vết thương của Ngài, rồi Ngài nói : "Đừng hồ nghi nữa, nhưng hãy
tin" (Ga 20,28). Tin gì ? Không chỉ tin là Ngài đã sống lại, mà còn tin
vào tình thương của Ngài.
Tình Chúa thương ta là một điều chắc chắn, đã được đóng dấu
bằng những vết thương trên thân xác Ngài. Chúng ta hãy tin chắc như thế, không
có gì lay chuyển được.
5. Biến cố làm đảo lộn lịch sử thế giới
Trong những ngày ấy, có hai người bước trên đường về Emau, một
làng cách Giêrusalem vài cây số. Về Emau, có nghĩa là trở về hư vô, về cõi của
những niềm hy vọng đã tan vỡ. Họ kiệt lực rồi, họ hết còn mơ mộng, họ cũng đã hết
nhiệt tình. Trước đây, họ đã đi theo phong trào Giêsu với tất cả nhiệt huyết, họ
cứ chắc mẩm rằng họ sẽ giải phóng thế giới khỏi cái ác, giải phóng dân tộc họ
khỏi giới quí tộc Đền thờ và khỏi ách đô hộ La Mã.. Nhưng nay thì hết rồi Thầy
đã chết, chết quá dễ dàng không một biểu hiện tự vệ. Các thủ lãnh phong trào
Giêsu, những bạn đồng hành thân cận nhất của Thầy, những người mà Thầy tín cẩn,
cũng đã lánh mặt vì khiếp nhược, vì thất vọng. Có người thậm chí còn bảo, anh
Phêrô nhiệt tình là thế, bao giờ cũng tranh ăn trên nói trước, thế mà người ta
bảo anh đã thề độc, đã chứng minh anh không hề quen biết Giêsu.
Thế là hết. Hai anh tưởng đã được tham dự vào một cuộc phiêu
lưu độc đáo, khiến cho đời các anh có một ý nghĩa rực sáng, mở ra cho hai anh,
mở ra cho mọi người một tương lai chan chứa niềm vui và niềm hy vọng. Vậy mà giờ
đây họ chỉ còn những nuối tiếc, hận đời và dằn vật.
Một người khách lạ nhập bọn với hai anh, bảo hai anh kể cho
ông ta nghe về những nỗi buồn và niềm bất hạnh của họ. Cái ông khách này là một
người hiếm hoi, biết nghe người khác nói. Rồi ông ta giải thích cho hai anh nghe
về lịch sử thế giới, bắt đầu bằng kể về ông Môisê và các ngôn sứ. Hai anh thấy
lòng ấm dần lên, cởi mở dần ra. Đầu óc của hai anh, chậm hiểu hơn trái tim, chỉ
nhận ra Ngài sau khi cùng Ngài chia sẻ bữa tối và sau khi Ngài khuất dạng.
Thế là hai anh quay lại, bước ra khỏi tăm tối và hư vô, trở
về Giêrusalem. Những người các anh gặp lại ở Giêrusalem cũng đã từng trải qua
những thất vọng não nề... Vậy mà những con người thảm hại ấy bỗng đứng lên, mạnh
dạn tuyên bố rằng Đức Kitô đang sống, và bằng chúng thuyết phục nhất là chính họ
đã thấy Ngài, thậm chí đã cùng ăn uống với Ngài.
Những điều họ nói, thật ra không phải một bằng chứng bằng chứng
thuyết phục nhất là chính họ, những người thấp hèn, nhát gan, ít chữ nghĩa, nay
dám đương đầu với mọi hiểm nguy và làm phục sinh lại phong trào Giêsu. Đến đâu
họ cũng nhắc lại những lời yêu thương và giải phóng, những lời không hẳn được tất
cả mọi người nghe theo, nhưng là những lời đã thay đổi lịch sử thế giới.
Vậy thì, trong những ngày ấy, đã có một biến cố xảy ra, như
một vụ bùng nổ, làm xuất hiện niềm tin và thay đổi cuộc đời những người này. Đối
với họ, biến cố đã xảy ra đó là, Đức Giêsu đang sống. Đức Giêsu đã phục sinh,
và họ đã loan truyền cái tin ấy đến nỗi dám hy sinh cả mạng sống. Chẳng ai có
thể đưa ra những bằng chứng để chứng tỏ điều đó. Ai cũng có quyền nghi ngờ.
Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã rao giảng thì tôn trọng tự do của con người đến độ đẻ
họ nghi ngờ và phủ nhận Ngài... Tuy nhiên, trong những ngày ấy, một biến bố đã
xảy ra làm đảo lộn những người đàn ông, những người phụ nữ ấy, và đã làm đảo lộn
thế giới. Jacques Duquesne (Nhà văn Pháp)
6. Đời sống chứng nhân
Albert Schweitzer là một cậu bé rất thông minh, lại say mê
âm nhạc. Khi trưởng thành cậu chơi đàn Organ, và cuối cùng đã trở thành Tiến sĩ
âm nhạc. Sau đó, Albert nghiên cứu các chủ đề về tôn giáo, và đã đậu Tiến Sĩ
Triết Học. Ông làm Hiệu Trưởng trường Đại Học.
Như thể học chưa đủ, ông từ chức Hiệu trưởng để theo ngành y
khoa, 7 năm sau, trở thành bác sĩ với bằng Tiến sĩ Y Khoa. Với 3 bằng cấp Tiến
sĩ, Albert Schweitzer dễ dàng trở thành một người giàu có, và nổi tiếng.
Thế nhưng, tiến sĩ Albert Schweitzer lại cùng với người vợ
bán tất cả gia tài, sang tận Châu Phi thiết lập một bệnh viện ở Lambarene. Ông
cứu giúp hàng ngàn người phong cùi và những người mắc bệnh buồn ngủ.
Ông huấn luyện y tá và điều dưỡng để phụ giúp ông. Khi hết
tiền mua thuốc, ông trở về Âu Châu, trình diễn âm nhạc trong thành phố lớn, lấy
tiền vé vào cửa để trả tiền mua thuốc cho bệnh viện của ông ở Lambarene. Ông
tin rằng những người nghèo ở Châu Phi đều là những thành viên trong gia đình
Thiên Chúa. Ông được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1953.
Sau khi dâng hiến cả cuộc đời cho người Châu Phi nghèo khổ,
nhà truyền giáo đã đi về nhà Cha năm 1965 lúc 90 tuổi.
*
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh kêu gọi các môn đệ hãy
làm chứng nhân cho Người.
Chúng ta hãy là chứng nhân của sự sống mới. Thế giới ngày
nay quay cuồng trong nỗi chết. Cái chết của chiến tranh, khủng bố khiến người
ta chết không toàn thây. Cái chết của sida, ma tuý làm người ta chết không ra
con người. Cái chết của phá thai, tự vẫn như cướp quyền Đấng Tạo Hóa. Người tín
hữu Kitô phải làm chứng cho sự sống mới.
Sự sống của Đấng Phục sinh : Lôi cuốn, hấp dẫn gấp ngàn lần
nỗi chết quay quắt điên loạn của con người. Sự sống của Đấng Phục sinh tràn đầy
niềm hy vọng. Nếu Đức Kitô bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ, thì chúng ta có
quyền tin tưởng vào chiến thắng của Người trên bạo lực, hận thù và nỗi chết.
Chúng ta hãy là chứng nhân của niềm vui. Nếu các môn đệ buồn
phiền vì Thầy đã chịu khổ hình, thì các ông lại vui mừng biết bao khi nghe tin
Thầy sống lại. Nếu các môn đệ lo âu vì sợ người ta đã giết Thầy sẽ bắt luôn cả
trò, thì các ông lại trọn niềm hân hoan khi thấy Thầy sống lại ra khỏi mồ. Nếu
chúng ta thực sự ra khỏi nỗi âu lo về mình, chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui. Nếu
chúng ta mang lại nụ cười cho những người bất hạnh, chúng ta đang công bố tin
vui Phục sinh.
Đức Hồng Y Danielou có nói : "Chúng ta hãy tự khai mở
niềm hy vọng của người bất hạnh, cho dù điều đó đe dọa đến của cải chúng
ta".
Cha Charles de Foucauld quả quyết : "Chỉ có một số người
có khả năng làm chứng bằng lời nói, nhưng mọi người đều có thể làm chứng bằng đời
sống lương thiện, gương mẫu, và bằng đời sống Kitô hữu sinh động".
Trong nghi thức rửa tội của Giáo hội Ấn Độ, người chịu phép
Rửa tội đặt tay lên đầu và nói : "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng
Tin mừng" (1Cr.9,16).
Vậy lời rao giảng Tin mừng sinh động nhất, hữu hiệu nhất và
cao đẹp nhất chính là một cuộc đời quên mình phục vụ như nhà truyền giáo Albert
Shweitzer đã làm cho những người phong cùi Châu Phi.
*
Lạy Chúa,
Khi chúng con u sầu, xin đem đến một ai đó để chúng con an ủi.
Khi gánh nặng đè bẹp, xin chất thêm cho chúng con gánh nặng của người khác nữa.
Khi chúng con cần sự âu yếm vỗ về, xin cho người khác kêu gọi
chúng con đến để vỗ về âu yếm họ.
Xin dạy chúng con trở nên chứng nhân của một Thiên Chúa phục
vụ và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã truyền cho các
môn đệ phải kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và phải làm chứng về Chúa Phục
sinh cho muôn dân. Ý thức trách nhiệm đó, chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện :
1. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh
/ luôn nêu gương khiêm tốn ăn năn sám hối về các thiếu sót lỗi lầm / và luôn
kêu gọi mọi người ăn năn sám hối / để loại trừ bớt tội lỗi trong thế giới.
2. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế
giới / biết cộng tác với nhau để ngăn chặn chiến tranh / diệt trừ tội ác, khủng
bố, giết người / và xây dựng một thế giới hòa bình hạnh phúc hơn.
3. Chúng ta cùng cầu xin cho những nạn nhân của bất công khủng
bố / những người vô tội bị bách hại / những người nghèo đói bị khinh chê / những
người yếu đuối bị áp bức / được Đức Giêsu Phục sinh nâng đỡ và ủi an.
4. Chúng ta cùng cầu xin cho anh chị em trong họ đạo chúng
ta / luôn nhớ đến trách nhiệm làm chứng về Đức Giêsu Phục sinh cho mọi người
chung quanh chúng ta.
Chủ tế : Lạy Chúa,
xin giúp chúng con luôn nhớ lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô là ăn năn sám hối và
dùng tất cả đời sống làm chứng về Người, để chúng con thực sự là môn đệ của Người.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha : Đức Giêsu là Đấng công chính nhưng đã
hiến thân làm lễ vật đền tội cho loài người chúng ta. Chính vì công nghiệp của
Ngài mà chúng ta dám thưa với Thiên Chúa là Cha chúng ta rằng : "Lạy Cha
chúng con ở trên trời…"
- Chúc bình an : Ngày xưa Đức Giêsu phục sinh đã "ở giữa
các môn đệ và nói ‘Bình an cho anh em". Hôm nay nguyện chúc bình an của
Chúa cũng hằng ở cùng anh chị em.
- Trước rước lễ : Đức Giêsu phục sinh đã mời các môn đệ đụng
chạm vào thân thể Ngài và hãy tin. Bây giờ Ngài cũng mời chúng ta kết hợp với
Mình Máu Thánh Ngài. "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng…"
VII. GIẢI TÁN
Anh chị em đã biết rằng Đức Giêsu đã chịu nạn, chịu chết và
sống lại để sinh on cứu rỗi cho loài người. Anh chị em phải làm chứng điều đó
trước mặt mọi người. Chúc anh chị em về bình an.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật III Phục Sinh (B)
Chủ Nhật 15 Tháng Tư, 2018
Chúa Giêsu hiện ra với
các tông đồ
Lc 24:35-48
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy CHÚA là Thiên Chúa toàn năng,
Chúa là Đấng đã biến đời sống mong manh của chúng con
thành đá tảng đền thờ Chúa ngự.
Xin hãy hướng dẫn tâm trí chúng con
biết đập vào những phiến đá trong sa mạc,
để cho nước có thể chảy ra hầu làm dịu cơn khát của chúng
con.
Nguyện xin cho sự nghèo nàn về cảm xúc của chúng con
che phủ chúng con như tấm áo choàng trong bóng tối của đêm
đen.
Và xin Chúa hãy mở lòng trí chúng con để chúng con có thể
nghe được tiếng vang vọng của sự im lặng cho đến lúc bình minh,
Xin hãy ấp ủ chúng con trong ánh sáng của buổi rạng đông mới,
Xin hãy mang đến cho chúng con,
Với than hồng từ lửa của những mục tử của Đấng Tuyệt Đối
Là những người canh thức cho chúng con được gần với Thầy Chí
Thánh,
hương vị của kỷ niệm thánh.
2. Bài Đọc
i) Tin Mừng:
35 Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường
và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. 36 Mọi người còn đang bàn
chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: “Bình an cho các con! Thầy
đây, đừng sợ”. 37 Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. 38 Chúa lại phán:
“Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? 39 Hãy xem tay chân Thầy:
chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có
đây”. 40 Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. 41 Thấy họ còn chưa tin, và
vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: “Ở đây các con có gì ăn không?” 42 Họ dâng cho
Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. 43 Người ăn trước mặt các ông và
đưa phần còn lại cho họ. 44 Đoạn Người phán: “Đúng như lời Thầy đã nói với các
con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép
về Thầy trong luật Môisen, trong sách tiên tri và thánh vịnh”. 45 Rồi Người mở
trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh. 46 Người lại nói: “Có lời chép rằng: Đấng
Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. 47
Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội
cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. 48 Còn các con, các con sẽ làm chứng
nhân về những điều ấy”.
ii) Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Hãy để cho Lời Chúa vang vọng ở trong lòng chúng ta.
3. Suy Gẫm
i) Một vài câu hỏi gợi ý:
a) Chuyện đã xảy ra trên đường đi, các ông nhận ra Người: Đã
có bao nhiêu cơ hội ân sủng dọc theo con đường đời của chúng ta? Chúng ta có nhận
ra được Người trong lúc Người bẻ bánh với chúng ta vào buổi tối tại quán trọ
không?
b) Đức Giêsu đang ở giữa các ông. Hãy xem và chạm vào: Chính
Thầy đây! Hai tay của chúng ta đã có chạm vào ân sủng của sự tự do trong con
người của Chúa Kitô hằng sống chưa? và trong việc đánh vỡ tình yêu của chúng ta
chưa?
c) Các ông giật mình và bối rối vì tưởng mình thấy ma: Chúng
ta bị lôi cuốn theo Thiên Chúa nào? Có phải là Thiên Chúa vô hình là Đấng luôn
luôn vượt ngoài tầm thế giới nhỏ bé của chúng ta không, hay là Thiên Chúa “thần
thánh” đầy quyền năng như chúng ta mong muốn?
d) Các ông vẫn chưa tin, vì vui mừng và bỡ ngỡ: sự vui mừng
có phải là cây gậy đi đường trên cuộc hành trình của chúng ta không? Cảm giác
mong đợi có sống động trong chúng ta không hay là chúng ta di chuyển theo cái
bóng cam chịu số phận của chúng ta?
e) Chúa Giêsu mở trí để cho các ông hiểu được Kinh Thánh:
Hình ảnh người mà chúng ta tìm kiếm đang ở đâu? Chúng ta đã có sự hoài niệm
Kinh Thánh cho Lời Chúa đã bị bỏ rơi như làn gió thoảng của Tình Yêu vĩnh cửu ở
giữa các chi tộc loài người đang chịu đau khổ không?
ii) Chìa khóa dẫn đến bài Tin Mừng:
Ý tưởng về một cuộc hành trình trong Tin Mừng Luca, phản ảnh
rõ ràng lộ trình thần học cuộc hành trình về sự can thiệp của ơn Chúa trong các
sự kiện của loài người. Gioan Tiền Hô dọn đường cho Chúa đến (Lc 1:76) và hô
hào sửa lối cho ngay thẳng (Lc 3:4); Đức Maria vội vã lên đường, đến miền núi
(Lc 1:39); Đức Giêsu, đường của Thiên Chúa (Lc 20:21), đi với loài người và dẫn
vào nẻo bước bình an (Lc 1:79) và đường về cõi sống (Cv 2:28), Người đi trước
trên đường bằng sự hiện hữu của mình. Sau khi sống lại, Chúa tiếp tục cuộc hành
trình cùng với các môn đệ (Lc 24:32) và vẫn là nhân vật chủ đạo trên cuộc hành
trình của Giáo Hội được đồng hóa với cuộc hành trình của Chúa (Cv 18:25). Tất cả
lý do hiện hữu của Giáo Hội nằm trong cuộc hành trình của ơn cứu độ này (Cv
16:17) để dẫn đến Thiên Chúa (Cv 18:2). Giáo Hội được mời gọi để sống theo đường
lối và chỉ ra cho tất cả muôn dân để mọi người có thể từ bỏ đường lối của mình
(Cv 14:16) và hướng về Chúa là Đấng cùng đồng hành với những ai thuộc về Người.
Câu 35: Khi ấy, trên đường trở về từ Emmau, hai môn đệ được
giải thích những gì đã xảy ra trên đường đi và cách họ đã nhận ra Chúa khi Người
bẻ bánh. Kinh nghiệm cuộc gặp gỡ với Sự Sống, cho phép người ta trở lại con đường
cũ. Đây không phải là sự trở lại vì hối hận hoặc hối tiếc. Đó là sự trở về của
người đọc lại câu chuyện của mình và biết rằng người ấy sẽ tìm thấy, dọc theo
đường đi, nơi ghi dấu của mình. Chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa trong những sự kiện.
Người là Đấng đến để gặp chúng ta và sánh bước với chúng ta trên con đường thường
là khô khan và cằn cỗi với những thứ còn dang dở. Thiên Chúa tỏ mình qua những
cử chỉ quen thuộc của kinh nghiệm đã được ưa chuộng từ lâu. Đây là những dấu vết
đã được hoàn thành để chào đón một ngày mới không bao giờ tàn. Mọi người được mời
gọi để chào đón sự hiện diện của Thiên Chúa trên con đường của mỗi người nơi
Thiên Chúa tỏ mình trong những dấu chỉ căn bản của đời sống cộng đoàn Kitô hữu:
Kinh Thánh, đọc trong ánh sáng đạo lý Kitô giáo, và việc bẻ bánh (Lc
24:1-33). Lịch sử nhân loại, không gian
đặc quyền cho hoạt động của Thiên Chúa, là lịch sử cứu độ cố hữu trong mọi tình
huống của con người và trải qua hằng thế kỷ trong dạng của cuộc xuất hành lưu
niên, đầy đủ tính mới mẻ của việc công bố.
Câu 36: Trong lúc hai môn đệ đang nói với các ông điều này,
đột nhiên Chúa hiện ra giữa các ông và phán: “Bình an cho các con!” Thánh sử
Luca đã khôn khéo dệt các sự kiện để cung cấp cho một nền tảng và tính liên tục
lịch sử ơn cứu độ. Hạt giống được công bố sẽ nở hoa và bầu không khí của sự mới
mẻ nhẹ nhàng thổi qua các trang của những sự kiện này, tạo thành căn bản cho sự
phát triển Ký Ức về Thiên Chúa (Dei Memoria) thỉnh thoảng nảy trồi. Chúa Giêsu
trở lại với những ai thuộc về Người. Người đứng giữa các ông, hoàn toàn, như
trước đây, dù rằng trong một cách khác nhau mà bây giờ là cuối cùng. Người tỏ
mình trong hình thức thân xác vinh quang để chứng minh rằng sự sống lại là một
điều đã thực sự xảy ra.
Câu 37: Các ông bối rối và sợ hãi vì tưởng rằng mình thấy
ma. Phản ứng của các môn đệ không có vẻ phù hợp với câu chuyện đã được kể trước
đây bởi vì các ông đã tin vào sự sống lại từ lời của ông Phêrô (câu 34). Tuy
nhiên, sự bối rối của các ông không liên quan đến việc xác tín rằng Chúa Giêsu
đã sống lại, mà liên quan đến bản chất cơ thể của Chúa Giêsu Phục Sinh. Vì vậy,
không có sự mâu thuẫn trong câu chuyện. Thật cần thiết cho các môn đệ trải nghiệm
một cách mạnh mẽ cơ thể thực của Chúa Giêsu Phục sinh để cho họ thực hiện đầy đủ
sứ vụ tương lai là làm nhân chứng cho tin mừng và làm rõ ý tưởng về Đấng Đã Sống
Lại: các ông đã không nghĩ đó là Chúa Giêsu, nhưng lại cho rằng họ đã trông thấy
ma.
Các câu 38-40: Nhưng Chúa lại phán với các ông: “Sao các con
bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây!
Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây”. Nói xong,
Người đưa tay chân cho họ xem. Chúa Giêsu trong Tin Mừng Luca gần giống như là
một vị anh hùng đối diện với số phận của mình với sự tin chắc, và có một vài
bóng tối chỉ làm nổi bật và nhấn mạnh đến sự viên mãn của Người. Luca đã gợi nhớ
lại nguồn gốc và gia phả khiêm tốn, những người khá bình thường và không danh
giá, một đám đông những kẻ vô danh mà từ đó hình ảnh Đức Kitô đã xuất hiện.
Trong cuộc khủng hoảng và nghi ngại của các môn đệ sau khi Chúa sống lại, rõ
ràng rằng Chúa Giêsu không những là Đấng Cứu Độ vĩ đại, mà còn hơn hết tất cả,
cho dù các ông có giật mình và bối rối. Chúa Giêsu, nhân vật chủ động trong cuộc
hành trình của Giáo Hội, đã đi trên con đường hoài nghi của nhân loại để chữa
lành cho họ với đức tin, và tiếp tục song hành, cho các tín hữu xem tay và chân
của Người bằng xương bằng thịt.
Các câu 41-43: Thấy các ông vẫn còn chưa tin, vì họ đầy tràn
vui mừng và bỡ ngỡ; Chúa đã hỏi các ông: “Ở đây các con có gì ăn không?” Họ
dâng cho Người một mẩu cá nướng, Người ăn trước mặt các ông. Tất cả mọi lời mời
ngồi vào bàn ăn, bao gồm cả điều mong muốn được gần gũi; nó vẫn là một sự chia
sẻ. Sự sống lại không cất đi khỏi Chúa Giêsu khả năng cho thấy chính Người là
nơi để chia sẻ. Mẩu cá nướng đó, sau nhiều năm ăn chung với các môn đệ của Người,
tiếp tục là một phương tiện hiệp thông. Mẩu cá nướng trong tình yêu thương với
nhau; một của ăn đã không ngừng trấn an cơn đói tiềm ẩn của nhân loại, một thức
ăn có khả năng bác bỏ ảo ảnh của điều gì đó đem đến kết thúc trong hoang tàn của
quá khứ.
Câu 44: Đoạn Người phán với các ông: “Đúng như lời Thầy đã
nói với các con, khi Thầy còn ở với các con là: cần phải ứng nghiệm hết mọi lời
đã ghi chép về Thầy trong Luật Môisen, trong sách tiên tri và trong Thánh Vịnh.”
Những khoảnh khắc lo âu, cảm xúc, khóc thương cho dân tộc (Lc 19:41), nỗ lực đi
lên Giêrusalem, những cám dỗ, tất cả những điều này đã xác định biên giới muôn
đời giữa sự tủi nhục tiềm ẩn và sự vinh quang khẳng định tập trung trong các
giai đoạn khác nhau trong đời sống con người của Chúa Giêsu trong ánh sáng của
thánh ý Chúa Cha. Sự cay đắng, tối tăm và đau khổ đã nuôi dưỡng trái tim của Đấng
Cứu Thế: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho
đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12:50). Giờ đây công việc của ân sủng đã thấy
rõ ràng bởi vì thông qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, ngày tận thế, đã được
hoàn thành trong Chúa Kitô và trong những kẻ tin vào Người, tạo ra một bầu
không khí chúc tụng, một môi trường vui mừng và bình an sâu xa, điển hình của
những điều vừa thực hiện. Việc tái xuất hiện của Chúa Kitô sẽ đánh dấu sự kết
thúc của cuộc hành trình cứu độ, thời của an ủi và phục hồi vạn vật (Cv 3:21).
Câu 45: Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh. Đức
tin của các tông đồ vào sự phục sinh là chìa khóa chú giải cho một giải thích của
Kinh Thánh và căn bản cho việc rao giảng mầu nhiệm vượt qua. Kinh Thánh đã được viên mãn trong Đức Kitô,
trong Người nó được thống nhất về giá trị tiên tri của Người và trong Người nó
có được đầy đủ ý nghĩa. Loài người không thể tự hiểu được Lời Chúa. Sự hiện diện
của Đấng Phục Sinh mở tâm trí đến một sự hiểu biết đầy đủ Mầu Nhiệm tàng ẩn
trong những lời thiêng liêng liên quan đến sự tồn tại của loài người.
Câu 46-47: “Có lời chép rằng: Đấng Cứu Thế sẽ phải chịu
thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người
rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ
thành Giêrusalem.” Trong Tin Mừng Luca, ơn cứu rỗi liên quan đến tất cả mọi
khía cạnh của nhân loại qua việc làm của Đức Kitô, Đấng cứu nhân loại khỏi sự dữ,
Đấng giải thoát nhân loại khỏi bóng tối (Cv 26:18) và khỏi tội lỗi (Lc 5:20-26;
Cv 2:38), khỏi bệnh tật, khỏi đau khổ, khỏi sự chết, khỏi sự hoài nghi và ngẫu
tượng; Đấng thừa nhận cuộc sống loài người trong cộng đoàn Thiên Chúa, hạnh
phúc của tình yêu anh chị em; Đấng không để chúng ta mồ côi nhưng luôn luôn hiện
diện cùng với Chúa Thánh Thần từ trên trời (Cv 2:2). Nguồn gốc căn bản việc cứu
rỗi nhân loại nằm trong việc giải thoát tâm hồn khỏi chai đá và nhận được trái
tim mới, ngụ ý một sự năng động hầu giải thoát khỏi mọi hình thức của chế độ nô
lệ (Lc 4:16-22). Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử; chính Ngài là Đấng đã phúc âm
hóa và hướng dẫn cuộc hành trình của những kẻ thuộc về Ngài. Người rao giảng
Tin Mừng của chân trời rộng mở – từ thời Adong đến Vương quốc Nước Trời, từ
Giêrusalem đến tận cùng trái đất – Người cũng là nhà truyền giáo của tất cả các
sự kiện hằng ngày. Quá trình lịch-sử-ngày-sau-hết đang xảy ra thông qua lịch sử
cụ thể được thực hiện vượt quá lịch sử nhân loại và Chúa Giêsu tiếp tục ban ơn
cứu rỗi qua Chúa Thánh Thần là Đấng tạo nên các nhân chứng có khả năng nói tiên
tri và truyền bá ơn cứu chuộc cho đến ngày Chúa Kitô trở lại (Lc 21:28) khi mà
sự tự do hoàn toàn của nhân loại sẽ được chứng tỏ. Trong sách Tông Đồ Công Vụ
câu 2:37, chúng ta tìm thấy một bản lý lịch của toàn bộ đường đi an toàn được đề
nghị ở đây: đón nhận Lời Chúa, được hoán cải, tín thác, được thanh tẩy và được
nhận lãnh sự tha thứ các tội lỗi và ơn Chúa Thánh Thần. Lời của ơn cứu rỗi, lời
của ân sủng, mở ra sức mạnh của nó trong tâm hồn của những kẻ lắng nghe (Lc
8:4-15), và lời khẩn cầu đến Danh Đấng Cứu Độ đóng ấn sự cứu rỗi trong kẻ hoán
cải vì đức tin. Hành động của Chúa Giêsu qua Chúa Thánh Thần, hiện diện qua
trung gian của Giáo Hội (Cv 9:3-5), bổ sung cho hoạt động được thực hiện qua
Giáo Hội đến những ai mà Người nhắc đến như trong việc gọi ông Phaolô (Cv
9:6-18).
Câu 48: Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về các điều ấy.
Cộng đồng Kitô hữu, được kêu gọi để vạch ra hành trình cho nhân chứng trong lịch
sử nhân loại; công bố bằng lời nói và việc làm sự ứng nghiệm của Nước Thiên
Chúa ở giữa nhân loại; và sự hiện diện của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục công việc của
Đấng Cứu Thế, Chúa và ngôn sứ trong Giáo Hội của Người. Giáo Hội sẽ tăng triển
và bước đi trong niềm kính sợ Chúa, đầy dẫy sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần (Cv
9:31). Đây là cuộc hành trình của phục vụ, có nghĩa là để vang vọng Lời Cứu Độ
đến tận cùng trái đất (Cv 1:1-11). Dần dần cuộc hành trình tiến xa hơn từ
Giêrusalem và đi đến trung tâm của thế giới dân ngoại. Khi nó đi đến Rôma, thủ
đô của đế chế, Luca sẽ đặt ký hiệu của ông trên những bước đi rao giảng Tin Mừng
của mình. Không một ai sẽ bị loại trừ trong quá trình này. Tất cả mọi người đều
đáng được nhận ơn cứu rỗi, đặc biệt là những người tội lỗi bởi vì việc ăn năn của
họ tạo niềm vui khôn xiết trên trời (Lc 15:7-10). Giống như Đức Maria, người mà
đối với Luca là tấm gương cho người môn đệ bước đi trong Chúa, các tín hữu được
kêu gọi hoán cải hoàn toàn để sống tình mẫu tử của Đấng Thiên Sai, bất luận
tình trạng “đồng trinh” của một người, đó là câu nói về sự bần hàn của loài thụ
tạo (Lc 1:30-35). Lời xin vâng của kinh Ngợi Khen là con đường để đi. Chúng ta
đi mang theo bên trong mình lời của ơn cứu rỗi; chúng ta bước đi trong đức tin,
tín thác vào Thiên Chúa là Đấng trung tín; chúng ta bước đi trong sự vui mừng của
Đấng đã làm cho chúng ta được ơn phúc, không phải vì bất kỳ một công trạng nào
mà là trong sự khiêm tốn của cuộc sống. Nguyện xin hành trình của Đức Maria
cũng là hành trình của chúng ta: ra đi, được dìu đắt bởi Chúa Thánh Thần, hướng
về anh chị em chúng ta, hành lý duy nhất là Lời Cứu Rỗi: Chúa Kitô (Cv 3:6).
iii) Suy niệm:
Trong buổi gặp gỡ với mọi người, Chúa Giêsu ban phát sự hiện
diện nhân từ của Người và chờ đợi cho hạt giống Lời Chúa và đức tin được nảy mầm.
Khi các tông đồ bỏ rơi Người, khi Phêrô chối Chúa, khi người đàn bà tội lỗi yêu
Người, khi các người Biệt Phái gần gũi Người, Chúa đã không bị tai tiếng hoặc bị
giao động. Chúa biết Người đã nói những gì và đề nghị để họ không bị hư mất…
và, thật vậy sau ngày lễ Ngũ Tuần, chính những người này đã không hề nao núng
ra trước Thượng Hội Đồng để nói rằng người ta cần phải vâng phục Thiên Chúa hơn
là vâng phục loài người, Phêrô đã rao giảng công khai đến nỗi đã chết trên thập
giá như Chúa của mình, những người phụ nữ đã được sai như là nhân chứng của sự
sống lại đi đến các tông đồ và người thanh niên con của người Biệt Phái, Phaolô
quê ở Tácxô, trở thành vị tông đồ của dân ngoại.
Nếu bạn, bất luận là nam hay nữ, không thể tránh được cái chết
của mình trong cuộc sống hằng ngày, tuy nhiên, thì bạn không nên quên rằng sự sống
lại được ẩn dấu trong những vết thương của mình để làm cho bạn sống trong Người,
ngay cả lúc này. Trong số những người chung quanh bạn, họ có thể là ngôi mộ của
cái chết và bùn đất cho bạn, một cây thập giá oan khiên, bạn sẽ tìm thấy cuộc sống
mới. Vâng, bởi vì Đức Kitô Phục Sinh sẽ đảm nhiệm vẻ bề ngoài của những người
chung quanh bạn: người làm vườn, kẻ lữ thứ, bóng ma, người bên bờ hồ… Khi bạn
có thể chấp nhận sự thử thách của Philatô lặp lại qua nhiều thế kỷ và không chấp
nhận lời đề nghị đổi chác (Ga 18:39-40) bởi vì bạn sẽ có kinh nghiệm trong đêm
của sự từ bỏ rằng bạn không thể đánh đổi mạng sống của kẻ trộm cướp với mạng sống
của Đức Giêsu, Con Một của Thiên Chúa hằng sống, Chúa của sự sống và cái chết,
bạn là kẻ bất xứng với danh xưng của Người: Bar-Abba, Con của Chúa Cha… thì khi
ấy bạn cũng sẽ kêu lên như ông Tôma, tông đồ, trong mầu nhiệm của đức tin: Lạy
Chúa con và lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20:28), Thiên Chúa của con và Đấng trên
hết của con, và vẻ đẹp sự vui mừng của bạn sẽ không bao giờ phai nhạt.
4. Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con tìm kiếm Chúa và muốn thấy dung nhan
Ngài:
Một ngày khi tấm màn che sẽ được gỡ bỏ,
Chúng con sẽ có thể chiêm ngưỡng Ngài.
Chúng con tìm kiếm Chúa trong Kinh Thánh nói về Ngài:
Dưới bức màn của sự khôn ngoan chúng con chào đón cây thập
giá, ân sủng của Chúa cho tất cả mọi người.
Chúng con tìm kiếm Ngài trong những khuôn mặt rạng rỡ của
anh chị em chúng con:
Chúng con thấy Chúa trong các dấu tích của sự thương khó của
Ngài trên cơ thể đau khổ của họ.
Không phải mắt của chúng con, mà là tâm hồn của chúng con
nhìn thấy Chúa:
Trong ánh sáng của niềm hy vọng, chúng con mong sẽ được gặp
Chúa và trò chuyện cùng Ngài.
5. Chiêm Niệm
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự kiên trì để tiến bước về
thượng trí, trong ánh sáng của Lời Chúa, Lời duy nhất đem đến ơn cứu rỗi. Như
anh chị em ruột thịt, Bửu Huyết Chúa khiến tất cả chúng con là anh chị em một
nhà, con vẫn đứng đây, gần ngôi mộ của cái chết nội tâm để sửa soạn ra đi như một
lữ khách trên lối đi vô cảm và đi đến con đường của tình bằng hữu và tập hợp.
Hôm nay, con muốn chia sẻ điều diệu kỳ của tình yêu nhân loại, niềm vui của những
người tuyệt vời sống gần con, không phải bên lề của sự hiện hữu của họ mà là
trong những bí mật rộng mở của họ, nơi tâm hồn họ đón nhận Thiên Chúa Chí
Thánh. Xin cảm tạ Chúa đã ban cho con khuôn mặt phục sinh của Ngài và trái tim
say mến của Sự Sống và được hôn bởi Đấng Đời Đời. Xin cảm tạ Chúa về sự tự do
đi tìm kiếm nhận chìm trong chiều sâu của Đấng Cần Thiết. Thiên Chúa của hoang
địa đã trở nên vườn cây, xin cho con luôn là một ánh lửa nhỏ thắp sáng trong
bóng đêm của sự nỗ lực loài người, sự ấm cúng lan truyền đến những nơi cơn gió
lạnh của sự dữ đã tiêu diệt và làm mất đi những chân trời của Sự Thật và Toàn Mỹ,
điều đó nói với thế giới về cuộc phiêu lưu tuyệt vời của tình yêu con người sống
lại, tình yêu biết làm thế nào chết đi để được nhập thể với nụ cười của Thiên
Chúa. Amen.
www.dongcatminh.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét