09/12/2018
Chúa Nhật tuần 2 Mùa Vọng năm C.
(phần I)
BÀI ĐỌC I: Br 5, 1-9
"Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng
của Chúa trong ngươi".
Trích sách Tiên tri
Barúc.
Hỡi Giêrusalem, hãy cởi
áo tang chế và sầu khổ của ngươi, hãy mặc lấy sự huy hoàng và vinh quang đời đời
của Chúa mà Chúa ban cho ngươi. Chúa sẽ mặc cho ngươi áo công lý, và đặt vương
miện vĩnh cửu trên đầu ngươi. Vì chưng, Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng của Chúa trong
ngươi cho mọi kẻ trần gian. Vì Thiên Chúa sẽ đời đời gọi tên ngươi là Hoà bình
trong công lý và Vinh dự trong hiếu nghĩa.
Hỡi Giêrusalem, hãy chỗi
dậy, đứng nơi cao, và nhìn về hướng đông. Hãy nhìn con cái ngươi từ đông sang
tây họp lại theo lệnh của Đấng Thánh, họ hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ. Họ bị
quân thù dẫn đi xa ngươi, nhưng Chúa đã đem họ về cho ngươi trong vinh dự như
các hoàng tử. Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa, lấp
đầy những hố sâu, để trái đất được bằng phẳng, hầu Israel vững vàng bước đi cao
rao vinh quang Thiên Chúa.
Theo lệnh Chúa, những
cánh rừng, những cây có hương thơm, đã cho Israel núp bóng, vì Chúa sẽ hân hoan
lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Israel đến ánh vinh quang.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 125, 1-2ab.
2cd-3. 4-5. 6
Đáp: Chúa đã đối xử
đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan(c. 3).
Xướng:
1)Khi Chúa đem những
người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng
chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Đáp.
2) Bấy giờ dân thiên hạ
nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng
với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Đáp.
3) Lạy Chúa, xin hãy đổi
số phận chúng con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt
trong hân hoan. - Đáp.
4) Thiên hạ vừa đi vừa
khóc, tay mang thóc đi gieo. Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. -
Đáp.
BÀI ĐỌC II: Pl 1, 4-6.
8-11
"Anh em hãy ăn ở trong sạch
và không đáng trách, cho đến ngày của Đức Kitô".
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, luôn
luôn trong mọi lời cầu nguyện của tôi, tôi hân hoan khẩn cầu cho tất cả anh em,
vì anh em đã thông phần vào việc rao giảng Phúc Âm từ ngày đầu cho tới nay. Tôi
tin tưởng rằng Đấng đã khởi đầu việc lành đó trong anh em, cũng sẽ hoàn tất cho
đến ngày của Đức Giêsu Kitô.
Thiên Chúa làm chứng
cho tôi rằng: tôi yêu mến tất cả anh em với tâm tình của Đức Giêsu Kitô. Điều
tôi cầu nguyện bây giờ là lòng bác ái của anh em ngày càng gia tăng trong sự
thông biết và am hiểu, để anh em xác định những điều quan trọng hơn, để anh em
được trong sạch và không đáng trách cho đến ngày của Đức Kitô, anh em được Đức
Giêsu Kitô ban cho dư đầy hoa quả công chính, hầu tôn vinh và ngợi khen Thiên
Chúa.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 3, 4. 6
Alleluia, alleluia!
- Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 3, 1-6
"Mọi người sẽ thấy ơn cứu
độ của Thiên Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Đời hoàng đế Tibêriô
năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến
xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania
làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế; có lời Chúa đã kêu gọi
Gioan, con Giacaria, trong hoang địa.
Ông liền đi khắp miền
sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách
Tiên tri Isaia rằng: "Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa,
hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi;
con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng.
Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Đó là lời Chúa.
Suy Niệm: Chúng Ta Hãy Dọn Ðường
Chúa nhật 1 mùa vọng đã loan báo ngày Chúa đến. Người sẽ trở lại khi thời
gian đã mãn. Người sẽ đến trong vinh quang và lấy vinh quang biến đổi chúng ta
nên con cái của sự trường sinh bất tử. Bài đọc sách Barúc hôm nay còn nói đến
việc ấy. Nhưng chủ yếu của lời Chúa này là việc dọn đường Chúa đến. Chúng ta sẽ
được nghe tiếng nói của Gioan Tẩy Giả. Ông được Phụng vụ mùa Vọng nhắc nhiều,
vì ông là tiên tri cuối cùng của Cực Ước, và sứ mạng của ông là hoàn tất việc Cứu
Ước chuẩn bị ngày Chúa đến.
Hơn nữa, ông còn là người giới thiệu và trỏ cho mọi người thấy Ðấng Cứu
Thế đã đến. Tiếng nói của ông vì thế có khả năng giúp đỡ chúng ta dọn đường
Chúa đến và nhận ra Người. Nhưng phải nói như thư Phaolô còn trực tiếp hơn nữa
vì nhắm thẳng vào ngày Chúa trở lại trong vinh quang. Chúng ta xin ơn Chúa soi
sáng để biết hiểu và thi hành Lời Chúa hôm nay.
1. Ðây Là Ngày Thiên Chúa làm Nên
Trước hết, chúng ta hãy mở sách Barúc. Ðó là một tác phẩm rất ngắn, chỉ
gồm tất cả năm chương. Tác giả tự coi như là "Thư ký" của tiên tri
Giêrêmia, nên văn phẩm của ông được tính vào ngay sau phần "Ai ca" của
sách Giêrêmia. Tác giả còn giới thiệu bản văn của mình như là một bức thư gửi từ
Babylon trong buổi lưu đày về con cái Israen còn ở lại Giêrusalem, để họ thống
hối ăn năn, suy nghĩ lại về đường lối ăn ở, hầu nhận được Lời Hứa cứu độ và giải
thoát. Bài đọc hôm nay loan báo Tin Mừng cứu độ này.
Nhưng dần dần khoa chú giải Kinh Thánh đã nhận ra sự thật không đơn sơ
như thế. Sách Barúc là một tác phẩm của một cây viết vô danh. Nói đúng hơn, đó
là văn phẩm hỗn hợp đã do một người đạo đức nào đó ở giữa thế kỷ thứ hai ghép
thành. Tác giả đã lấy nhiều bản văn khác nhau để làm nổi bật một lời kinh thú tội
thống hối, đọc trong một buổi lễ xá tội nào đó. Tuy nhiên ý tưởng và lời văn ở
mọi chương đều đạo đức sâu xa và trình bày rất khôn khéo. Chương thứ năm cũng là
chương cuối cùng trong sách Barúc mà chúng ta đọc hôm nay, chứng tỏ điều ấy.
Vậy, muốn hiểu, chúng ta phải đọc đoạn văn tiên tri này trong bối cảnh
"giả định" của tác giả. Tức là ở đây chúng ta có những lời Chúa muốn
an ủi dân Người khi họ thống hối ăn năn. Người loan báo cho họ về ngày vinh
quang sau lưu đày, ngày cứu độ sau đau thương, ngày ân thưởng sau cuộc đời lao
nhọc. Ðối với chúng ta, đó là ngày Chúa lại đến.
Ngày ấy, chính Thiên Chúa sẽ làm ra chứ không phải ai khác. Người sẽ lấy
vinh quang bất diệt của Người choàng lên Giêrusalem, tức là trên chúng ta và tất
cả tạo vật, sự vinh quang ấy cũng là sự công chính thánh thiện mà Thiên Chúa sẽ
ban cho nhân loại được cứu độ khiến tên của Giêrusalem mới tức là của nhân loại
mới, sẽ là Hòa bình và vinh quang, Hòa bình vì có sự công bằng của Chúa, và
vinh quang nhờ có lòng thương xót của Người. Tất cả những điều này nói lên rằng
chính Chúa là tác giả của thời đại sau này. Chính Người sẽ làm ra cảnh trời mới,
đất mới. Những nét đẹp, nét tốt của thời đại mai sau hoàn toàn là của Chúa. Do
đó Nước Trời sẽ đến không bao giờ thay đổi và suy vi nữa, vì tất cả sẽ được bao
bọc trong vinh quang thánh thiện đời đời của Thiên Chúa.
Tự nhiên chúng ta muốn hỏi: như vậy, loài người chúng ta không đóng góp
gì được vào ngày Chúa đến sao? Chắc chắn có phần nào đó mà chúng ta sẽ nói sau.
Nhưng cũng chắc chắn, phần đóng góp của chúng ta sẽ không đáng kể sánh với ơn
ban của Chúa. Có thể nói trời với đất xa nhau bao nhiêu thì phần trao ban của
Chúa còn vượt xa phần lãnh nhận của chúng ta bấy nhiêu và hơn nữa. Chúng ta hãy
cứ nói như Barúc: ngày vinh quang sau này của chúng ta khi Chúa Kitô hiện đến
hoàn toàn là công trình của Chúa. Người đem vinh quang thánh thiện đến biến đổi
chúng ta và tất cả nên thành trì "hòa bình của công bình và vinh quang của
thương xót".
Thành trì ấy được đứng lên mỏm cao để thấy con cái khắp nơi, nhân loại
khắp xứ tuôn về. Khi xưa, tội lỗi đã làm chúng phiêu bạt ra đi tiều tụy, bây giờ
Thiên Chúa công chính thánh thiện đưa tất cả về vinh quang như trên một ngai
vua.
Không những thế, Thiên Chúa còn cho bạt núi, lấp sông để đường đi của
con cái Chúa được vững chắc trong vinh quang. Ðang khi ấy cỏ cây bên đường sẽ rợp
bóng, tỏa hương và ánh sáng quang vinh phổ... xuống... Ðoàn người trở về với
Chúa, đi về nhà Cha, tuôn về gặp Chúa thật là ngoạn mục và sung sướng...
Chúng ta có thể bảo đây là những lời thơ. Nhưng cũng là những lời ấp úng
trước một cảnh tượng chưa thể nào tưởng tượng được. Trong ngày ấy, Chúa sẽ
thánh hóa dân Người, sẽ quy tụ dân Người lại, sẽ làm cho cảnh vật thiên nhiên
được chia sẻ sự vui mừng tự do của con cái Thiên Chúa. Bằng ấy ý tưởng đúc nên
bài sách Barúc hôm nay. Những ý tưởng ấy nằm trong nhiều trang Thánh Kinh Cựu Ước
và Tân Ước. Ðó là nội dung Lời Hứa ngàn đời của Chúa về thời đại người viếng
thăm, về ngày Chúa trở lại với Dân Người.
Và Lời Hứa của Người bền vững trung kiên. Ðã bao lần Chúa thi hành trong
lịch sử Do Thái. Nhưng đó mới chỉ là những lần tập dượt cho ngày Ðức Giêsu Kitô
Giáng Sinh làm người. Và Hội Thánh từ ngày được Ngài sáng lập không mang nhiều
màu sắc của Giêrusalem trong bài sách Barúc đó sao? Nhưng Giêrusalem đích thực
mà sách này muốn loan báo là Giêrusalem thiên quốc, là Hội Thánh sau này trên
Trời, là Dân Chúa trong vinh quang của Ngày Chúa đến. Chúng ta đang vọng ngày
đó, đang chờ Chúa Kitô trở lại. Chúng ta sung sướng hân hoan nghĩ về Ngày Chúa
sẽ làm ra, không phải để mơ mộng, nhưng để cầu xin Chúa ban cho mình được tham
dự ngày vinh quang ấy và nhất là để chuẩn bị. Và muốn làm công việc này, chúng
ta hãy nghe Lời Tin Mừng trong sách Luca.
2. Chúng Ta Hãy Dọn Ðường
Tác giả khai mạc cuộc đời hoạt động của Gioan Tẩy Giả một cách rất long
trọng. Ðã đành ông muốn viết sử có đầu có đuôi và một cách khoa học. Ông phải đặt
các biến cố vào lịch sử có các niên hiệu chắc chắn. Nhưng vì sao khi kể việc Ðức
Giêsu ra giảng đạo, ông không viết một cách long trọng như vậy? Thực ra trong
những chương đầu tiên của tác phẩm Tin Mừng mang tên ông, tác giả Luca thuật những
chuyện về Gioan chen lẫn với những chuyện về Ðức Giêsu. Ông viết về Gioan để
làm nổi bật Ðức Giêsu thế nên không phải vì Gioan mà ông viết bản văn long trọng
chúng ta đọc hôm nay. Bản văn này có ý giới thiệu Ðức Giêsu. Nó là tiền đề đưa
vào những câu chuyện về Ðức Giêsu, giống như Gioan chỉ là tiền hô của Ngài.
Vậy chính vì Ðức Giêsu mà chúng ta có bản văn long trọng hôm nay. Tác giả
Luca muốn cho chúng ta thấy cuộc đời hoạt động của Ngài đã được khai mạc cách
trọng thể nhờ việc Gioan bắt đầu rao giảng phép rửa thống hối. Luca đặt việc
này vào khung cảnh Lịch sử đạo đời để chúng ta có sẵn khung cảnh lịch sử này mà
hiểu biết về các hoạt động của Ðức Giêsu, vì khi Gioan bắt đầu rao giảng, thì Ðức
Giêsu cũng đã sẵn sàng xuất hiện.
Bấy giờ là năm thứ 15 triều hoàng đế Tibêrô cai trị Ðế quốc La Mã, rộng
lớn như cả thế giới. Ở đất Do thái, về đời có Philatô trấn nhiệm xứ Giuđê và
Hêrôđê làm quận vương xứ Galilê. Về đạo có thượng tế Hanna và Caipha. Chúng ta
có thể thắc mắc vì sao lại có hai thương tế, điều chẳng bao giờ thấy trong lịch
sử Dân Chúa. Nói đúng ra, bấy giờ là thời thượng tế Caipha; nhưng thực quyền lại
nằm trong tay nhạc phụ là Hanna. Ông này cũng là Thượng tế. Ông đã từ chức nhượng
lại cho con rể, nhưng thực tế vẫn nắm quyền, ít ra về vấn đề ảnh hưởng. Do đó,
không phải vô lý mà tác giả Luca đã viết: Bấy giờ là thời thượng tế Hanna và
Caipha. Ông đã viết sự thật và là sự thật đau đớn!
Cũng như ông đã hữu ý khi nói đến những nhà cầm quyền đời lúc bấy giờ.
Ông kể tên Philatô và Hêrôđê cai trị hai vùng đất của Dân Chúa; và ông cũng nói
đến Philíp và Lysania, trấn nhiệm hai phần đất kề cận mà dân cư lại là kẻ ngoại.
Phải chăng tác giả Luca đã không muốn nói rằng: môi trường hoạt động của Chúa
Giêsu sẽ là cả Dân Chúa và cả Dân ngoại? Người sẽ mang ơn cứu độ đến cho mọi
người chẳng kỳ là Do Thái hay Hy Lạp.
Vậy sau khi đã kể hai tọa độ không gian và thời gian, tác giả bắt đầu viết
sử. Người ta thấy Gioan nhận được lời Chúa. Kiểu nói này làm chứng ông lãnh được
sứ mạng tiên tri từ trời cao. Ông không làm việc tự ý. Khi ông đang ở trong sa
mạc thì được gọi; tức là sứ mạng đã được trao cho ông đang lúc ông sống cho
Chúa và tận hiến đời mình cho Người.
Tác giả Luca nói rằng ông đến giảng ở miền sông Giođan, trong khi Ðức
Giêsu sẽ không hoạt động ở đây. Phải chăng Luca không muốn phân biệt hoạt động
của hai Ðấng, khi viết như vậy? Ý muốn phân biệt thật rõ khi tác giả nói: phép
Rửa của Gioan chỉ để được tha thứ tội khiên, chứ chưa tha thứ tức thời đâu. Ðó
là công việc chuẩn bị, dọn đường theo lời sách Isaia: tiếng của Người hô trong
sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi.
Những lời này có khác với những lời mà Barúc đã công bố không? Nhà tiên
tri ngày xưa nói rằng: chính Chúa san phẳng đường lối cho dân được cứu độ. Còn ở
đây, dường như đó lại là việc của chúng ta. Sự thật, lời sách Isaia không phải
chỉ có bấy nhiêu. Luca đã có lý để tiếp tục trích dẫn. Bốn câu nữa đã được thêm
vào hai câu trên. Và những câu này cho thấy việc lấp đầy hạ thấp để đường đi được
phẳng lỳ sẽ là công trình của Chúa; nhưng Người đã làm gì khi người ta có thái
độ thống hối ăn năn. Chính Chúa đã làm ra đường lối cứu độ, nhưng con người phải
tỏ thiện chí muốn lãnh nhận. Và đường lối phẳng lỳ mà Chúa làm ra đòi lấp đầy hạ
thấp tức là Chúa vẫn nâng cao những người phận nhỏ và hạ xuống những phường tự
cao tự đại. Ðề tài này luôn được Luca yêu thích. Có lẽ chính nó đã khiến Luca
trích hết lời sách Isaia, đang khi Mátthêu và Marcô đã dừng lại ở hai câu đầu.
Nhưng điều quan trọng hơn cả mà Luca muốn nhấn mạnh để kết thúc đoạn văn
hôm nay, là việc mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Không những
ông nhấn mạnh tư tưởng "mọi người" tức là tính cách phổ cập của ơn Ðức
Giêsu dành cho hết thảy chúng ta; Nhưng ông cũng muốn nhắc đó là công trình của
Thiên Chúa chứ không phải của chúng ta. Và như vậy Luca cũng như Barúc muốn nói
với chúng ta hãy trông đợi ngày Chúa đến như là ơn cao cả. Người sẽ làm cho những
ai có thái độ thống hối ăn năn và khiêm nhường khó nghèo. Tác giả Tân Ước chỉ
khác nhà tiên tri Cựu Ước ở chỗ trỏ cho chúng ta thấy Ngày ấy đã đến trong lịch
sử rõ rệt, nơi Ðức Giêsu Kitô. Nhưng ngay trong đoạn văn này, Luca còn mượn lời
của Gioan để bảo chúng ta phải chờ đợi nữa, vì tuy Ðức Giêsu đã đến, nhưng chưa
phải mọi người đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta còn phải vọng đến
ngày ấy nữa. Và chúng ta phải nghe lời thư Phaolô để dọn đường cho Chúa.
3 .Và Tiếp Tục Cho Ðến Hoàn Thành
Trong đoạn thư này, Phaolô nói rằng luôn luôn Người cầu nguyện cho giá
dân Philíp một cách vui sướng.
Chúng ta hãy chú trọng đến sự hân hoan toát ra từ những lời thư này.
Phaolô không có gì phải lo cho giáo dân Philip cả. Từ ngày nhận được Tin Mừng đến
nay, họ vẫn tốt, không những họ đã thông phần vào việc rao giảng Tin Mừng khi họ
đón nhận ơn Chúa kêu gọi; mà họ còn phấn đấu sống Tin Mưng ấy và giúp đỡ Phaolô
cũng như các giảng viên Tin Mừng. Nghĩ đến họ, Phaolô như rộn lòng trìu mến
lên. Giống như Thiên Chúa và Chúa Giêsu Kitô luôn rộn lòng yêu mến cứu chuộc
chúng ta.
Vậy Phaolô luôn cầu nguyện cho giáo dân Philip, không phải vì họ đang gặp
những khó khăn nào, mà chỉ vì Người vui sướng thấy giáo đoàn đó tốt lành, cần
được cầu nguyện để "một công trình thiện hảo như vậy sẽ tiếp tục cho đến
hoàn thành trong ngày của Ðức Giêsu Kitô". Tức là dù nếp sống đạo đã tốt
lành đến đâu, cũng vẫn còn phải tiến bộ để được kiện toàn trong Ngày Chúa trở lại.
Chính vì vậy mà Phaolô phải cầu nguyện cho giáo dân Philip được lòng mến dẫy
tràn nhiều hơn mãi mãi về trí tri và thông hiểu để biết biện phân ra điều ưu hảo
mà ăn ở cho vô phương trách cứ, hầu dư đầy hoa quả công chính nhờ Ðức Giêsu
Kitô.
Những lời súc tích này rõ ràng có tính cách khuyên nhủ và dạy dỗ, Ðó là
cả một chương trình sống đạo phải đi đôi với việc cầu nguyện cho mình được ơn cứu
độ trong ngày Chúa đến. Ðành rằng đời sống mai sau là việc Chúa làm mà chúng ta
phải cầu xin để Người ban cho chúng ta. Nhưng Người đã khởi sự ban khi cho
chúng ta được đón nhận Tin Mừng. Bây giờ hằng ngày cho đến khi Chúa trở lại
chúng ta phải cầu nguyện để luôn được thêm lòng mến, lòng tin, để biết ăn ở một
cách ưu hảo hầu sau này sẽ vô phương trách cứ và dư đầy hoa quả thánh thiện.
Chúng ta không thể làm được những việc ấy nếu không khiêm nhường và cố gắng.
Thánh lễ này là nơi để chúng ta khiêm nhường đón nhận ơn Chúa. Chúng ta
phải thấy mình còn tội lỗi và yếu ớt. Chính Mình Máu Thánh Chúa sẽ vừa tẩy sạch
tâm hồn và củng cố sự sống. Nhờ Chúa Giêsu Kitô chúng ta có thể bước đi trên đường,
tuy nhiều gồ ghề nhưng có thể vẫn cảm thấy phẳng lì khi chúng ta nhiều lòng mến
trông đợi ngày Chúa đến.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 2 Mùa Vọng, Năm
C
Bài đọc: Bar
5:1-9; Phi 1:4-6, 8-11; Lk 3:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời con người.
Tình thương và uy quyền
của Thiên Chúa vẫn ấp ủ và bảo vệ con người; nhưng để cảm nhận được, con người
cần có con mắt đức tin và trái tim đầy tình yêu. Nhiều người nghĩ họ có thể đi
tìm vinh quang cho cuộc đời mà không cần biết đến Thiên Chúa; nhưng thực tế đã chứng
minh đó chỉ là vinh quang nhất thời, giả tạo, và không mang lại niềm vui cũng
như bình an đích thực cho con người.
Các Bài Đọc hôm nay muốn
nêu bật tầm quan trọng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống con người và
sự cần thiết phải sửa dọn tâm hồn để có thể lãnh nhận Ngài. Trong Bài Đọc I,
tiên-tri Baruch nhận ra sự khờ dại của toàn thể con cái Israel khi họ từ bỏ
Thiên Chúa để chạy theo các thần ngoại bang và vinh quang giả tạo của trần thế.
Hậu quả là mất nước, Đền Thánh bị phá hủy, và vua quan cũng như dân chúng phải
chịu lưu đày cực khổ. Tiên-tri cũng nhận ra tình thương và uy quyền của Thiên
Chúa: nếu toàn dân chịu xám hối và ăn năn trở lại, Thiên Chúa sẽ hủy bỏ tang phục
mà họ đang mặc trên mình. Ngài sẽ mặc cho họ áo choàng công chính, đội triều
thiên vinh quang, và chiếu dọi ánh vinh quang vĩnh cửu của Ngài trên họ. Trong
Bài Đọc II, Phaolô, sau khi đã có kinh nghiệm về hạnh phúc của một người được
Thiên Chúa hoàn toàn chiếm hữu, đã chia sẻ niềm vui và cầu nguyện cho các tín hữu
cũng sẽ được hưởng niềm vui và hạnh phúc như ông; nhưng họ phải hoàn toàn đặt
trọn niềm tin yêu nơi Đức Giêsu Kitô và cố gắng sống tinh tuyền thánh thiện
trong khi chờ đợi ngày Ngài đến. Trong Phúc Âm, Gioan Tiền Hô được Thiên Chúa
trao sứ vụ dọn đường cho Đấng Thiên Sai tới bằng việc kêu gọi con người sửa dọn
tâm hồn và thay đổi cuộc sống. Khi Đấng Thiên Sai xuất hiện, chỉ những người đã
chuẩn bị tâm hồn sẽ được "nhìn thấy" ơn cứu độ của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của
ngươi.
1.1/ Thiên Chúa là Đấng
giải thoát con cái Israel: Tác giả của Sách
tiên-tri Baruch được nhiều học giả cho là thư ký của tiên-tri Jeremiah. Sách
này có thể được viết trong Thời Lưu Đày hay sau đó, khi tác giả có cơ hội suy
nghĩ nhiều về tình thương của Thiên Chúa dành cho con cái Israel, dù họ đã bất
trung phản bội Ngài.
(1) Thiên Chúa sửa phạt
rồi lại xót thương: Tác giả nhìn lại lịch sử Israel và cảm nhận được uy quyền của
Thiên Chúa. Ngài điều khiển các thế lực chính trị để sửa phạt và bắt con cái
Israel đi lưu đày trước khi cho họ trở về. Mục đích của việc sửa phạt là để mở
mắt cho họ nhìn thấy tình thương và uy quyền của Ngài dành cho họ. Sách Baruch
có nhiều tư tưởng tương tự với Sách tiên-tri Jeremiah, một trong những điều
tương tự là tác giả ví Jerusalem như một người vợ mất chồng là Thiên Chúa, và mất
con cái là tất cả dân chúng bị lưu đày. Sự khổ nhục này bị các Dân Ngoại chê
trách làm cho niềm đau càng quặn thắt hơn.
Trình thuật hôm nay
nói về việc Thiên Chúa sẽ đổi ngược số phận hoàn toàn của bà mẹ Jerusalem trong
ngày Ngài ra tay cứu độ. Ngài sẽ cho toàn thể địa cầu nhìn thấy vinh quang của
Jerusalem: "Hỡi Jerusalem, hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục,
và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi;
hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa,
và đội lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng.
Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của ngươi."
Hai bài học quí giá
Ngài dạy cho con cái Israel: Thứ nhất, "vinh quang phát xuất từ lòng kính
sợ Thiên Chúa." Tất cả các vinh quang ngoài Thiên Chúa chỉ tạm thời và gây
ra mọi nỗi ô nhục cho họ. Thứ hai, "bình an xây dựng trên công
chính." Nếu họ không tuân hành những Lề Luật Thiên Chúa dạy và đối xử công
bằng với mọi người, chiến tranh sẽ lan tràn và nhân loại không bao giờ được
bình an.
(2) Con cái Israel được
trở về vinh quang từ nơi lưu đày: Có hai áp dụng cho lời tiên tri này. Thứ nhất,
là cuộc hồi hương của con cái Israel vào năm 538 BC theo chiếu chỉ của hoàng-đế
Ba-tư là Cyrus. Cuộc trở về này tuy vui mừng, nhưng không vinh quang huy hoàng
như trình thuật diễn tả hôm nay: "Xưa chúng bị quân thù áp giải, phải rời
ngươi, không xe không ngựa. Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với ngươi,
chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng." Thứ hai,
tác giả có lẽ muốn nói tới vinh quang của Israel trong ngày Đấng Thiên Sai ngự
đến.
1.2/ Israel phải chuẩn bị
để đón Đấng Thiên Sai: Để những điều này xảy
ra, con cái Israel phải chuẩn bị tâm hồn, ăn năn xám hối về những lỗi lầm họ đã
xúc phạm tới Thiên Chúa, và đặt trọn vẹn niềm tin yêu nơi Ngài. Tác giả viết:
"Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời,
phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Israel tiến bước an toàn dưới
ánh vinh quang của Thiên Chúa."
Khi Đức Chúa lãnh đạo
dân Người trở về, Israel sẽ được thịnh vượng và bình an: "Theo lệnh của
Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại quế trầm sẽ toả bóng che rợp Israel, vì Thiên
Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với
lòng từ bi và sự công chính của Người."
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi con người.
2.1/ Thiên Chúa khởi sự mọi
điều nơi con người: Lá thư gởi cho các tín hữu
Philip được viết từ nơi lao tù. Đây là cộng đoàn có thể nói rất được yêu mến bởi
thánh Phaolô. Hai điều ngài muốn chia sẻ với họ: Thứ nhất, Thiên Chúa là Đấng bắt
đầu hành trình đức tin nơi con người, khi Ngài ban cho con người hiểu được những
gì thánh Phaolô rao giảng về Đức Kitô để họ tin vào Ngài. Không những thế Ngài
còn nuôi dưỡng và nâng đỡ đức tin của các tín hữu để họ có thể trung thành cho
đến hơi thở cuối cùng. Thánh Phaolô xác tín với họ điều này: "Tôi tin chắc
rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng
sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Giêsu Kitô quang
lâm." Nói cách khác, từ khởi sự cho đến hoàn thành niềm tin của con người
đều do bởi ơn thánh của Thiên Chúa. Thứ hai, Thiên Chúa cho con người tham gia
vào công cuộc rao giảng Tin Mừng. Theo kinh ngiệm của Phaolô, sứ vụ rao giảng
Tin Mừng không phải là một bổn phận; nhưng là một ân huệ Thiên Chúa ban cho các
tín hữu được cộng tác với Ngài trong việc làm cho Nước Chúa trị đến.
2.2/ Đời sống công chính
là hiệu quả ơn thánh của Thiên Chúa và sự cộng tác của con người: Thánh Phaolô cầu xin 2 điều cho các tín hữu Philipphê:
(1) Thiên Chúa ban
lòng mến: Tình yêu của Đức Kitô là động lực thúc đẩy thánh Phaolô và các tín hữu
làm mọi sự, ngài nói: "Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu
quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Giêsu Kitô. Điều tôi khẩn khoản nài
xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, cùng với kiến thức và tất cả
mọi thấu hiểu."
Lòng mến là điều kiện
tiên quyết thúc đẩy việc học hỏi: khi yêu ai hay thích điều gì, con người sẽ
tìm mọi cơ hội để tìm hiểu, để biết về điều đó hay người đó hơn. Nếu không có sự
thúc đẩy của tình yêu, con người sẽ không bận tâm để tìm hiểu. Càng tìm hiểu
bao nhiêu, con người càng có kiến thức nhiều. Khi các tín hữu càng yêu mến Đức
Kitô, họ sẽ ra sức tìm hiểu để biết Ngài, và càng hiểu về Đức Kitô bao nhiêu, họ
càng thấu hiểu những gì liên quan tới Ngài. Điều này sẽ giúp cho con người nhận
ra những sai lầm giả trá của thế gian.
(2) Các tín hữu sống
thánh thiện: Đức tin không bao giờ ở mức độ thuần tri thức, nhưng thúc đẩy con
người tới chỗ hành động. Lại một lần nữa, thánh Phaolô chứng tỏ ơn cứu độ đến với
con người không chỉ bởi niềm tin, nhưng còn tùy thuộc vào việc làm để chứng tỏ
niềm tin của các tín hữu. Hai điều các tín hữu phải làm trong khi chờ đợi ngày
Đức Kitô quang lâm là phải giữ mình sạch tội, và phải cố gắng để càng ngày càng
trở nên tinh tuyền thánh thiện hơn. Chỉ như thế, các tín hữu mới có thể
"đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giêsu Kitô, để
tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa."
3/ Phúc Âm: Tất cả phải chuẩn bị đường cho Đức Kitô đến.
3.1/ Tình hình chính trị
và tôn giáo trong thời Đức Kitô nhập thể: Phần
đầu của trình thuật hôm nay, thánh Luca muốn nhấn mạnh đến tính cách lịch sử của
biến cố Đức Kitô Nhập Thể trong hậu trường của thế giới:
- Tình hình thế giới:
Toàn vùng Cận Đông thời đó đều nằm dưới sự cai trị của đế quốc Rôma, năm thứ mười
lăm dưới triều hoàng đế Tiberius.
- Tình hình nước
Palestine: Khi Herode Cả chết, ông chia vương quốc thành 3 miền cho 3 con của
ông cai trị: Herode Antipas làm tiểu vương miền Galilee, người em là Philíp làm
tiểu vương miền Ituraea và Trachonitis, Herode Archelaus điều khiển miền Judah,
cùng với Pontius Pilate làm tổng trấn miền Judah.
- Tình hình tôn giáo:
Hannah là thượng tế về hưu, nhưng có thế lực rất mạnh. Caiaphas, con rể của
Hannah là thượng tế đương quyền; nhưng bị lệ thuộc rất nhiều vào Hannah.
Sống dưới sự đô hộ của
đế quốc Rôma, trong thời kỳ đất nước bị chia ba, lại thêm bè phái trong hàng
ngũ lãnh đạo tôn giáo; con dân Israel mong đợi Đấng Thiên Sai tới để giải phóng
họ khỏi những thế lực này.
3.2/ Sứ vụ của Gioan Tẩy
Giả: Trong thời kỳ khó khăn như vậy, Thiên
Chúa vẫn nhớ tới con người, Ngài sai Gioan Tẩy Giả tới để mang Tin Mừng cho con
người, như trong trình thuật hôm nay: "Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông
Zachariah là ông Gioan trong hoang địa. Ông liền đi khắp vùng ven sông Jordan,
rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội."
Bổn phận của Gioan Tẩy
Giả được sai tới là để chuẩn bị tâm hồn cho mọi người đón nhận Thiên Chúa. Sứ vụ
của ông đã được loan báo trước trong sách ngôn sứ Isaiah: "Có tiếng người
hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để
Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp,
khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng."
Không phải ai cũng có
khả năng đón nhận món quà vô giá Thiên Chúa gởi đến là Người Con Một của Ngài.
Để có thể nhận ra và đón nhận Ngài, con người phải chuẩn bị tâm hồn cùng với ơn
thánh của Thiên Chúa. Điều Gioan khuyên dân chúng đây không phải là những chuẩn
bị bề ngoài, mà là tâm hồn bên trong. Con người phải loại trừ những kiêu căng,
ích kỷ, mọi thứ tham lam... trước khi họ có thể nhận ra ơn cứu độ của Thiên
Chúa."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa có uy quyền
làm mọi sự cho con người. Để được vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trong cuộc
đời, chúng ta cần phải biết kính sợ và tin tưởng hoàn toàn nơi Ngài.
- Để có thể đón nhận
Thiên Chúa, con người cần biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng: tránh xa tội lỗi,
luyện tập nhân đức để càng ngày càng trở nên tinh tuyền thánh thiện.
- Ơn cứu độ không chỉ
dành cho một dân tộc hay một số người; nhưng mở rộng đến cho mọi dân tộc và mọi
người. Chúng ta được mời gọi để cộng tác với Thiên Chúa trong việc mang ơn cứu
độ đến cho mọi người.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
09/12/18 CHÚA NHẬT TUẦN 2 MV – C
Lc 3,1-6
Lc 3,1-6
DỌN ĐƯỜNG CỨU ĐỘ
“Hãy dọn sẵn con đường cho
Đức Chúa... Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” (Lc 3,4-6)
Suy niệm: Đức
Giê-su Ki-tô hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa cách đây đã hơn 2.000
năm, thế nhưng không vì thế mà chúng ta đương nhiên được giải cứu, nói như
thánh Âu-tinh: “Khi tạo dựng nên con Chúa
không cần có con, nhưng khi cứu độ con, Chúa cần con cộng tác.” Vì thế mà mùa Vọng là thời gian thuận
tiện để chúng ta nhìn lại sự cộng tác của mình trong chương trình cứu độ của
Thiên Chúa. Để có thể đón nhận ơn cứu độ, mỗi người chúng ta phải điều chỉnh lại
cách ăn nết ở của mình. Con đường cứu độ cứu độ là chính Đức Giê-su Ki-tô.
Nhưng nếu chúng ta không mở cửa tâm hồn mình, uốn nắn lại con đường là lối sống
của mình để “nối mạng liên thông” với Đức Ki-tô thì ơn cứu độ không thể nào đến
với chúng ta được.
Mời Bạn: Lắm
khi chúng ta bị mê hoặc lạc lối trong “mê cung” của tiền bạc, thú vui, quyền lực,
danh vọng. Để thoát ra khỏi “khu rừng rậm” cám dỗ ấy, phải biết loại bỏ lòng
đam mê, ham muốn chúng và chỉ nhắm tới Chúa là lẽ sống duy nhất và vĩnh cửu của
mình mà thôi.
Chia sẻ: Không
thể theo Chúa nửa vời mà mong đạt tới sự sống đời đời được. Bạn có cảm nghiệm
gì về tính triệt để này của Tin Mừng Chúa Ki-tô?
Sống Lời Chúa: Sống
tinh thần mùa vọng bằng cách sống giản dị, không xa xỉ hoang phí, tự nguyện giảm
bớt những chi tiêu không thật sự cần thiết để dành cho hoạt động bác ái.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã cho chúng con có dịp nhìn lại
cuộc sống của mình. Xin cho chúng con luôn kiên vững trên con đường mang tên
Giê-su, để chúng con hiểu biết chân lý và đạt được sự sống đời đời. Amen.
(5 phút lời Chúa)
Có lời Thiên Chúa phán
Sám hối là dọn con đường của lòng mình và mời mọi người
cùng dọn các con đường thành đại lộ. Ðiều đó chẳng dễ dàng chút nào, và thường
gây đau đớn.
Suy niệm:
Mỗi lần mùa Vọng đến,
ta lại gặp Gioan.
Một cuộc sinh ra kỳ lạ,
một lối sống khác thường.
Hoang địa là nơi vắng
người, trơ trụi, thiếu sự sống.
Nhưng chính ở đó mà
Gioan đã lớn lên và trưởng thành,
trong sự gặp gỡ thâm
trầm với Thiên Chúa.
Càng lúc ông càng ý thức
về sứ mạng của mình,
nhưng ông đã kiên nhẫn
chờ đợi nhiều năm tháng,
cho đến ngày ông nghe
thấy Thiên Chúa ngỏ lời với ông.
Lời của Ngài đưa ông
ra khỏi hoang địa
để đến với mọi vùng
ven sông Giođan mà gặp con người.
Lời Chúa ông nghe trở
thành Lời Chúa ông công bố.
Tiếng Chúa gọi ông trở
thành tiếng ông mời gọi mọi người.
Gioan là vị ngôn sứ
cho dân tộc ông
sau gần năm thế kỷ vắng
bóng ngôn sứ.
Ông sống trong dòng lịch
sử của đạo lẫn đời:
một hoàng đế Tibêriô,
hai thượng tế Khanna và Caipha,
một Philatô tham lam, tàn
bạo, tổng trấn vùng Giuđê,
một Hêrôđê, tiểu vương
vùng Galilê, kẻ sẽ giết ông sau này.
Gioan đón nhận toàn bộ
dòng lịch sử ấy.
Lịch sử dân tộc là nơi
diễn ra lịch sử cứu độ.
Gioan biết mình là Tiền
Hô cho Ðấng Cứu Thế,
và ông cố làm tròn sứ
mạng của mình trước lịch sử.
Gioan mời dân chúng
sám hối.
Không thể tiếp tục sống
như xưa nữa.
Ðã đến lúc phải đổi đời,
đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ.
Ông kêu gọi cả nước
hãy sửa sang đường sá,
để đón lấy Vua Mêsia,
đấng ông không dám cởi dây giày.
Ðường quan trọng là đường
vào cõi lòng.
Có bao lối nghĩ quanh
co, bao tính toán lệch lạc.
Có những lũng sâu tăm
tối, thiếu vắng ánh sáng tình yêu.
Có những núi đồi ngạo
nghễ của tự kiêu, tự mãn.
Có những chỗ mấp mô, lồi
lõm giữa người với người.
Phải sửa cho thẳng, lấp
cho đầy, uốn cho ngay.
Phải san cho phẳng, bạt
cho thấp...
Sám hối là dọn con đường
của lòng mình
và mời mọi người cùng
dọn các con đường thành đại lộ.
Ðiều đó chẳng dễ dàng
chút nào, và thường gây đau đớn.
Vấn đề không phải chỉ
là đi xưng tội qua loa,
nhưng là dẹp bỏ những
chướng ngại trong tâm hồn,
để Chúa có thể dễ dàng
đến và ở lại.
Gioan đã là ngôn sứ
chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu.
Chúng ta phải là ngôn
sứ chuẩn bị cho Ngài đến lần cuối.
Làm ngôn sứ cho dân tộc
mình, cho thời đại mình:
đó là ơn gọi của mọi
Kitô hữu chẳng trừ ai.
Cần cất tiếng hô bằng
lời nói và bằng cuộc sống.
Ơn cứu độ đã đến từ
hai mươi thế kỷ nay,
nhưng vẫn thiếu những
con đường phẳng phiu, ngay thẳng,
để Thiên Chúa có thể đến
gặp con người.
Xin Thánh Thần giúp
chúng ta xây dựng những con đường mới
trên những nẻo đường
quen thuộc của nhân loại.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải
là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con
không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Ðấng
vô tội
mà lại đứng chung với
các tội nhân,
chờ Gioan ban phép
Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn
đồng hành
với phận người mỏng
dòn yếu đuối chúng con;
xin cho chúng con
biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống
của mình,
tỉnh táo để khỏi
rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi
tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho
chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những
hành động cụ thể,
và chấp nhận những
cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên
ban cho chúng con
niềm vui của
Giakêu,
hạnh phúc vì được tự
do và được yêu mến.
Lm Antôn Nguyễn
Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
9 THÁNG MƯỜI HAI
Linh Hồn Tôi Nhảy
Mừng Trong Chúa
Nỗi chờ mong của Đức Nữ
Trinh, Đấng “được sủng ái giữa các người phụ nữ” (Lc 1,42), đúc kết tất cả niềm
hy vọng mà Dân Thiên Chúa đã đặt vào các lời hứa được trao cho các tổ phụ. Và
xuyên qua dân Israel, niềm hy vọng của toàn thể nhân loại được kết đọng lại
trong nỗi chờ mong vĩ đại này.
Chúng ta cũng hãy trân
trọng thái độ chờ mong trong đức tin của Đức Maria, một đức tin cắm rễ sâu
trong lịch sử dân tộc và trong niềm hy vọng của toàn thể loài người. Chúng ta
hãy nắm vững ý nghĩa của nó khi chúng ta hành trình qua các thế kỷ. Đó là một
con đường được thiết lập vững chắc trên niềm hy vọng cứu độ đến từ chỉ một mình
Thiên Chúa.
Đức Maria được chúc
phúc bởi vì Mẹ tin vào sự hoàn thành những lời Chúa nói cùng Mẹ (Lc 1,45). Mẹ
biết rằng Thiên Chúa sẽ không bỏ lời hứa của Người. Mẹ ‘vui mừng’ và đồng thời
Mẹ ‘được chúc phúc’ bởi Thiên Chúa. Hai tình trạng hiện hữu ấy không thể tách rời
– vì cái trước là hệ quả của cái sau.
Lời chúc phúc, được
Thiên Chúa nói lên, luôn luôn là nguồn sự sống và do đó cũng là nguồn đem lại
niềm vui. Trong toàn bộ Thánh Kinh, niềm vui đến xuyên qua việc trao ban và
thông truyền sự sống, cả thể lý lẫn thiêng liêng. Hễ ai được Thiên Chúa ‘chúc
phúc’ bằng sự sống của Ngài, thì người ấy cũng ‘mừng vui’.
Đức Maria vui mừng chờ
mong món quà sự sống. Nhưng chính sự sống ấy cứu độ Mẹ và làm cho Mẹ mừng vui.
Vì sự sống ấy là chính Con Thiên Chúa.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa Nhật II Mùa Vọng;
Br 5, 1-9; Pl 1,
4-6.8-11; Lc 3,1-6.
LỜI SUY NIỆM: “Có lời Thiên
Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa. Ông liền đi khắp
vùng ven sông Gio-đan, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối,
để được ơn tha tội” (Lc 3,2b-3).
Hôm nay chúng ta cũng được như Gioan Tẩy Giả là được Chúa Giêsu phán: Anh
em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc
16,15). Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng, mùa trông đợi niềm hạnh phúc. Muốn
được đạt điều này. Trước tiên chúng ta phải sống với niềm tin và hy vọng như
tiên tri Simêon, “ông những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, trong âm thầm và cầu
nguyện. Ông vững tin điều linh báo của Thánh Thần là ông sẽ không thấy cái chết
trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. Ông đã mong chờ từng ngày, và cuối
cùng chính tay ông đã được bồng ẵm Đấng Cứu Thế. Với cách sống âm thầm và cầu
nguyện của chúng ta, với ơn Chúa Thánh Thần sẽ giúp cho nhiều người sống chúng
quanh chúng ta sẽ nhận biết Chúa và cùng chung hưởng niềm vui hạnh phúc như
chúng ta.
Mạnh Phương
09 Tháng Mười Hai
Thế Nào Là Cầu Nguyện?
Một chàng thanh
niên nọ khao khát sống đời tận hiến và cầu nguyện, đến nỗi anh đã xa lánh tất cả
mọi người và mọi sự, để đến gõ cửa một đan viện nọ... Anh được vị tu viện trưởng
chấp nhận tức khắc.
Trong những ngày đầu,
anh quan sát cách sống của các tu sĩ: Sau những giờ cầu nguyện lâu dài, tất cả
mọi người đều bắt tay vào công việc: người thì cày cuốc, người thì gặt hái, người
thì miệt mài trong công tác dịch thuật. Thấy thế, chàng thanh niên đâm ra thất
vọng. Anh đến trình bày ý nghĩ của mình với đan viện phụ như sau: "Thưa
cha bề trên, con cứ tưởng ở đây chúng ta chỉ có một sinh hoạt duy nhất đó là cầu
nguyện. Ðằng này, con lại thấy các thầy phải vất vả lo cho những nhu cầu vật chất
quá nhiều". Vị tu viện trưởng mỉm cười gật đầu và nói với anh: "Có lẽ
con có lý... Nếu con cảm thấy việc làm tay chân không cần thiết, thì con cứ vào
phòng đóng cửa lại và tiếp tục cầu nguyện".
Nghe thế, chàng
thanh niên hớn hở trở về phòng đóng cửa lại và cầu nguyện. Chỉ sau vài giờ cầu
nguyện, anh cảm thấy mệt mỏi, bụng anh cũng cảm thấy cồn cào vì đã đến giờ ăn
trưa. Nhưng chờ mãi mà vẫn không thấy ai đến gọi anh vào nhà cơm, người thanh
niên mới đến hỏi vị đan viện phụ: "Thưa bề trên, hình như hôm nay các thầy
không dùng bữa?". Cha bề trên mỉm cười đáp: "Các thầy đã ăn cả rồi".
"Thế sao không ai đến gọi con đi ăn cả?", người thanh niên hỏi. Cha bề
trên mới trả lời: "Sáng nay con đã chẳng đến nói với cha là chúng ta chỉ
có một sinh hoạt duy nhất là cầu nguyện đó sao? Cha nghĩ rằng các thầy khác lao
động nhiều cho nên cần phải có ăn uống, ngủ nghỉ. Còn con, con muốn sống như
các thiên thần, nghĩa là không làm việc, không ăn uống mà chỉ biết suốt ngày cầu
nguyện, cho nên cha đã dặn các thầy là đừng đến gọi con dùng bữa".
Nghe thế, người
thanh niên chợt hiểu được thế nào là sống tận hiến, thế nào là cầu nguyện. Con
người không chỉ cầu nguyện bằng nhữg giây phút ưu biệt dành cho Chúa, mà còn bằng
cả những sinh hoạt từng ngày như làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ, giải trí... Cầu
nguyện chính là tìm thấy Thánh ý Chúa và Nước Ngài trong cuộc sống mỗi ngày.
Mùa Vọng là mùa thức tỉnh.
Chúng ta cảm thấy được
thôi thúc để dành nhiều thì giờ cho việc cầu nguyện hơn. Thánh Kinh nói: Thiên
Chúa đã tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, ngày thứ 7, Ngài nghỉ ngơi: đó cũng là
hình ảnh của đời người. Cuộc sống là một chuỗi làm việc xen lẫn với nghỉ ngơi.
Có một thì giờ cho tất cả mọi sự, có một thì giờ để ngủ nghỉ... Có những giây
phút ưu biệt trong ngày dành cho việc cầu nguyện, có những thời gian ưu biệt
trong năm dành cho việc cầu nguyện. Thời gian ưu biệt ấy không có mục đích nào
khác hơn là để giúp cho con người được tỉnh thức hơn, được sẵn sàng hơn, được
tươi mát hơn để gặp gỡ Chúa trong từng phút giây của cuộc sống, trong mọi sinh
hoạt hằng ngày.
Cuộc sống cần có tổ chức,
cần có những ngăn kéo, nhưng những ngăn kéo ấy phải được thông thương với nhau.
Ngăn kéo của sự cầu nguyện phải được liên kết với ngăn kéo của những sinh hoạt
hằng ngày. Ngăn kéo của những sinh hoạt hằng ngày phải được nối liền với ngăn
kéo của sự cầu nguyện.
Tổ chức cuộc sống như
thế tức là biến tất cả cuộc sống thành một lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện triền
miên ấy có những phách mạnh dành cho những giây phút thân mật chuyện vãn với
Chúa, nhưng những phách mạnh ấy chỉ được làm nổi bật nhờ những âm thầm gặp gỡ
Ngài trong từng sinh hoạt, trong từng biến cố của cuộc sống.
(Lẽ Sống)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét