05/07/2019
Thứ sáu đầu tháng, tuần 13 thường niên
BÀI ĐỌC I: St 23, 1-4.
19; 24, 1-8. 62-67
“Isaac yêu thương Rêbecca, cho
nên ông tìm được niềm an ủi, vì thương nhớ mẹ đã qua đời”.
Trích sách Sáng Thế.
Bà Sara được một trăm
hai mươi bảy tuổi thì qua đời tại thành Cariatharbê, tức là Hêbron, trong đất Canaan.
Ông Abra-ham đến khóc lóc thương tiếc bạn mình. Khi lo việc chôn cất, Abraham
chỗi dậy nói với các con ông Hét rằng: “Tôi là ngoại bang, là khách lạ giữa
quý ông, xin quý ông nhượng cho tôi một phần mộ để chôn xác người nhà tôi qua đời”.
Rồi Abraham chôn cất bà Sara vợ ông trong Hang Đôi ngoài đồng ruộng, đối diện với
Mambrê, tức Hêbron, trong đất Canaan.
Khi ấy, Abraham đã già
nua, và Chúa đã chúc lành cho ông trong mọi sự. Abraham nói với người đầy tớ lớn
tuổi nhất trong nhà, cũng là người quản lý mọi của cải của ông rằng: “Ngươi
hãy đặt tay vào dưới bắp vế ta mà thề trước mặt Chúa là Thiên Chúa trời đất, sẽ
không cưới cho con ta một người vợ thuộc dân Canaan mà ta đang ở chung với họ
đây. Ngươi hãy đi về quê họ hàng ta, mà cưới vợ cho con ta là Isaac”. Người đầy
tớ thưa lại: “Nếu người phụ nữ không muốn theo tôi về xứ này, thì tôi có phải
đem con trai ông về quê quán của ông chăng?” Abraham trả lời rằng: “Ngươi hãy
cẩn thận chớ bao giờ dẫn con ta về đó: Chúa là Thiên Chúa, đã đưa ta ra khỏi
nhà cha ta và quê quán ta, đã phán và thề hứa cùng ta rằng: ‘Ta sẽ ban đất này
cho dòng dõi ngươi’. Thiên Chúa sẽ sai thiên thần đi trước mặt ngươi, và ngươi
cưới cho con trai ta một người vợ trong xứ đó. Nếu người phụ nữ không chịu theo
ngươi về, thì ngươi không còn mắc lời đoan thề mà ta bảo người đây. Chỉ có một
điều là đừng dẫn con trai ta về nơi đó”.
Khi ấy, Isaac đi bách
bộ trên đường dẫn đến cái giếng gọi là “Đấng Hằng Sống và Trông Thấy”, vì ông
cư ngụ tại mạn nam. Lúc gần tối, Isaac đi ra ngoài cánh đồng để suy ngắm. Khi
ngước mắt lên nhìn, thấy những con lạc đà đang trở về từ đàng xa. Rêbecca cũng
ngước mắt nhìn thấy Isaac, nàng liền nhảy xuống khỏi lạc đà, và hỏi người đầy tớ
rằng: “Người đang đi trong cánh đồng để ra đón chúng ta là ai vậy?” Người đầy
tớ đáp: “Người đó là chủ tôi đấy”. Nàng vội vàng lấy khăn che mặt. Người đầy tớ
lại kể lại cho Isaac hay mọi việc mình đã làm. Isaac đưa Rêbecca vào nhà xếp của
Sara mẹ ông, ông lấy nàng làm vợ và yêu thương nàng lắm, cho nên ông tìm được
niềm an ủi bớt thương nhớ mẹ đã qua đời. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 105, 1-2.
3-4a. 4b-5
Đáp: Hãy ca tụng
Chúa, bởi Người nhân hậu (c. 1a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Hãy ca tụng Chúa, bởi
Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói cho hết được những
hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người? – Đáp.
2) Phúc cho ai tuân giữ
những điều huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ
chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. – Đáp.
3) Xin mang ơn cứu độ
đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa
chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia
nghiệp của Ngài. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia!
– Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 9, 9-13
“Người lành mạnh không cần đến
thầy thuốc: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải là hy lễ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi
ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo
ông: “Hãy theo Ta”. Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra là khi Người ngồi
dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng
Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với
các môn đệ Người rằng: “Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu
thuế và tội lỗi như thế?” Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: “Người lành mạnh
không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời
này có ý nghĩa gì: ‘Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải là hy lễ’. Vì Ta không
đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Bữa Tiệc
Thân Hữu
Trong hầu hết các nền
văn hóa hiện hữu trên thế giới, bữa ăn là một thời điểm, một nghi lễ đặc biệt
trong đời sống con người. Con người thường chia giờ giấc trong ngày theo các bữa
ăn. Bữa ăn là giờ duy nhất trong ngày, trong đó mọi thành phần trong gia đình
có mặt bên nhau, do đó bàn ăn thường là biểu trương của hiệp nhất. Vì là giờ hiệp
nhất, nên bữa ăn cũng là giờ linh thiêng trong cuộc sống. Người ta vẫn nói:
"Trời đánh tránh bữa ăn". Bữa ăn là dấu chỉ của hiệp nhất, cho nên thời
xa xưa, thỏa ước giữa các bộ lạc cũng được ký trong bữa tiệc. Ngồi đồng bàn với
nhau có nghĩa là chấp nhận chia sẻ với nhau, chấp nhận tình thân hữu của nhau.
Bài Tin Mừng hôm nay
cho thấy được ý nghĩa nổi bật của bữa ăn trong cuộc đời Chúa Giêsu. Phúc Âm thường
ghi lại những lần Chúa Giêsu ngồi đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi, những
người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngồi đồng bàn với người nào là muốn chia sẻ, muốn
nói lên tình thân thiện của người đó. Qua những lần ngồi đồng bàn với tất cả mọi
hạng người, Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta bộ mặt của một Thiên Chúa nhân hậu
luôn hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, một Thiên Chúa chia sẻ cuộc sống
của con người và muốn đi vào kết hiệp thâm sâu với con người.
Chúng ta sẽ không ngạc
nhiên khi thấy Chúa Giêsu thường mượn hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời:
"Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới". Nước Trời giống như một
tiệc vui. Tôn giáo mà Chúa Giêsu loan báo không phải là những nghi lễ hay những
luật lệ cứng nhắc, mà là tôn giáo của tình yêu. Trích dẫn lời Tiên Tri Ôsê:
"Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải lễ tế", Chúa Giêsu đả phá những
tôn giáo chỉ xây dựng trên những nghi lễ trống rỗng, mà quên đi cái lõi của tôn
giáo là tình thương.
Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta nhìn lại cách sống đạo của chúng ta. Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu để
lại cho chúng ta là bữa tiệc dấu chứng tình yêu của Ngài. Tham dự vào bữa tiệc ấy
là tham dự vào tinh thần yêu thương chia sẻ với Ngài. Nếu không có tinh thần
yêu thương, thì tất cả những kinh kệ, những hành động phụng vụ chỉ là trống rỗng
vô ích. Của lễ đẹp lòng Chúa nhất phải chăng không là những hành động yêu
thương, chia sẻ, tha thứ đó sao? Lúc đó bàn thờ của chúng ta không chỉ nằm
trong bốn bức tường nhà thờ, mà còn phải là gia đình, công sở, phố chợ. Nơi nào
có hành động yêu thương, tha thứ, chia sẻ, thì nơi đó có Chúa hiện diện, có
bình an, có Nước Trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần
13 TN1, Năm Lẻ
Bài đọc: Gen
23:1-4, 19, 24:1-8, 62-67; Mt 9:9-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kẻ đau yếu mới cần đến thầy
thuốc.
Là những người lãnh đạo như người mục tử coi sóc đoàn chiên hay cha mẹ chăm sóc
con cái, chúng ta không những phải nhận ra bệnh tình của đoàn chiên hay con
cái, mà còn phải biết phương thuốc hiệu nghiệm để chữa lành. Các bài đọc hôm
nay cho chúng ta những mẫu gương của cha mẹ và người mục tử tốt lành.
Trong bài đọc I, tổ phụ Abraham biết con mình rất buồn khi mất mẹ, ông lo lắng
để tìm một người bạn đời tốt lành cho con để cậu có thể quên đi người mẹ, và bắt
đầu xây dựng gia đình riêng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu là người mục tử tốt lành
đi tìm con chiên lạc. Ngài tìm được Matthew và đưa ông về; nhưng các Pharisees
lại phê bình Ngài đồng bàn với những người tội lỗi. Chúa Giêsu thẳng thắn trả lời
họ: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cậu yêu thương cô và khuây khoả được nỗi buồn mất mẹ.
1.1/ Bà Sarah từ giã cuộc
đời: Không có gì buồn hơn nỗi buồn mất người
mẹ yêu quí đã hết lòng chăm sóc cho Isaac, nhất là cậu lại là người con duy nhất
bà có trong lúc tuổi già. Tất cả tình thương của bà Sarah đều dành cho cậu. Sau
khi đã chôn cất vợ, Abraham biết đã đến lúc ông phải kiếm một người vợ tốt lành
cho con, để cậu vơi đi nỗi buồn mất mẹ.
1.2/ Niềm tin của Abraham
vào Thiên Chúa trong việc cưới vợ cho Isaac: Abraham
phải đương đầu với 3 khó khăn lớn:
(1) Abraham không thể tự mình về quê tìm vợ cho con vì đã quá cao niên.
(2) Abraham không muốn cưới những người con gái xứ Canaan làm vợ cho con mình.
Giống như truyền thống Việt-nam, Abraham muốn cưới vợ cùng làng xóm cho con. Lý
do, chuyện trăm năm là chuyện cả cuộc đời. Những người cùng làng là những người
Abraham và người quản lý đã biết rõ cha mẹ và họ hàng của họ. Những người con
gái xứ Canaan, Abraham không biết một tí nào về họ cả. Vì thế, Abraham bảo người
lão bộc sống lâu năm nhất trong nhà ông, và cũng là người quản lý mọi tài sản của
ông: “Chú hãy đặt tay dưới đùi tôi, và tôi xin chú nhân danh Đức Chúa là Chúa
trời đất, mà thề rằng chú sẽ không cưới cho con trai tôi một người vợ trong số
con gái xứ Canaan, nơi tôi đang sống. Nhưng chú sẽ về quê tôi, đến với họ hàng
tôi, mà cưới vợ cho con tôi là Isaac.”
(3) Abraham không muốn cho con mình về quê, nhưng phải ở lại Canaan để thừa hưởng
miền Đất Hứa mà Thiên Chúa dành cho ông. Người lão bộc thưa với ông: “Có thể
người đàn bà ấy không chịu đi theo tôi về đất này; vậy tôi có phải đưa cậu con
trai ông về đất mà từ đó ông đã ra đi không?” Ông Abraham bảo người ấy: “Coi chừng,
đừng có đưa con trai tôi về đó! Đức Chúa là Chúa Trời, Đấng đã đưa tôi ra khỏi
nhà cha tôi, khỏi quê hương tôi, Đấng đã phán với tôi và thề với tôi rằng: “Ta
sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất này,” chính Người sẽ sai sứ thần Người đi trước mặt
chú, để từ nơi đó chú cưới vợ về cho con tôi.”
Abraham biết để thỏa mãn cả hai điều kiện không phải là điều dễ dàng; vì thế,
Abraham nói với người lão bộc: “Nếu người đàn bà không chịu đi theo chú, thì
chú không còn buộc phải giữ lời thề với tôi nữa. Nhưng dù sao, cũng đừng đưa
con tôi về đó.” Abraham tin tưởng Thiên Chúa sẽ xe định một người vợ tốt lành
cho Isaac. Trong suốt cuộc đời ông, Thiên Chúa luôn giữ lời hứa. Ngài đã chúc
lành cho Abraham trong mọi sự.
1.3/ Issac tiếp nhận
Rebekah và quên đi nỗi buồn mất mẹ. Cuộc hôn
nhân của Isaac và Rebekah quả thật do sự quan phòng của Thiên Chúa. Để hiểu điều
này, chúng ta phải đọc cả chương 24. Trình thuật hôm nay chỉ kể vắn tắt người
lão bộc đã tìm được Rebekah và thuyết phục cô từ giã cha mẹ để lên đường qua đất
Canaan gặp Isaac. Cậu Isaac đưa cô Rebekah vào lều của bà Sarah mẹ cậu; cậu lấy
cô làm vợ, cậu yêu thương cô và khuây khoả được nỗi buồn mất mẹ.
2/ Phúc Âm: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.”
2.1/ Lòng thương xót có sức
cải hóa người tội lỗi: Trong Cựu Ước, các
ngôn sứ rất khó chịu với những người tội lỗi và họ thường tuyên bố án phạt dành
cho tội nhân. Tuy nhiên, cũng không thiếu những sứ điệp về tình thương tha thứ
của Thiên Chúa. Sách ngôn sứ Jonah là một bằng chứng hùng hồn. Ngôn sứ Jonah
không muốn rao giảng cho dân thành Nineveh; nhưng Thiên Chúa bắt ông phải làm
chuyện đó, và Ngài cho ông biết lý do: “Ngươi, ngươi thương hại cây thầu dầu mà
ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên; trong một đêm nó đã
sinh ra, rồi trong một đêm lại chết đi. Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại
Nineveh, thành phố lớn, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân
biệt được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật hay sao?”
(Jon:4:10-11). Trong ngôn sứ Ezekiel chúng ta cũng thấy rõ ràng sứ điệp về lòng
thương xót của Thiên Chúa: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó
ăn năn sám hối và được sống” (Eze 33:11).
Chúa Giêsu là người đầu tiên rao giảng và diễn tả lòng thương xót của Thiên
Chúa dành cho người tội lỗi. Trong trình thuật hôm nay, Matthew bị đánh động bởi
lòng nhân từ của Chúa Giêsu sâu đậm đến nỗi ông đứng dậy, lập tức bỏ mọi sự và
đi theo Người. Lý do, chưa có một người Do-thái nào đối xử với ông như một nhân
vị con người, trừ Chúa Giêsu. Đa số đều buộc tội và ngăn cấm không cho ông được
bước chân vào Đền Thờ. Điều tương tự cũng xảy ra cho Zacchaeus, thủ lãnh của
người thu thuế (Luc 19:5), hay cho Người Phụ Nữ Ngoại Tình (Joh 8:1-11). Những
người tội lỗi nhiều thường dễ khiêm nhường nhận ra tội lỗi của họ để ăn năn hối
cải hơn những người tự nhận mình là công chính.
2.2/ Tất cả mọi người đều
cần đến lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa: vì tất cả mọi người đều có tội. Những Pharisees là những
người cũng cần lòng thương xót của Thiên Chúa, vì họ cũng là những tội nhân,
nhưng vì sự cứng lòng và kiêu hãnh là những lý do ngăn cản họ nhận ra tội lỗi của
họ và từ chối lòng thương xót của Thiên Chúa. Hơn nữa, họ tức giận khi Chúa
Giêsu và các môn đệ vào nhà Matthew và cùng đồng bàn ăn uống với ông, nên họ chất
vấn các môn đệ Người rằng: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và
quân tội lỗi như vậy?”
Tiếp đến, Chúa Giêsu đưa ra sự kiện mà chúng quá rõ ràng với tất cả những ai có
trí khôn lành mạnh: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.”
Chẳng ai đang khỏe mạnh mà lại tốn tiền đi bác sĩ; chỉ những ai đau yếu hay thấy
có những triệu chứng báo động mới cần đến bác sĩ. Chúa Giêsu không đến để kêu gọi
người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi. Chúa Giêsu là nhà chữa bệnh tinh
thần mà tất cả con người đều cần chạy tới để được Ngài chữa
lành.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Là những nhà lãnh đạo, chúng ta phải sáng suốt để định bệnh cho những người
Thiên Chúa đã trao cho chúng ta, đồng thời cũng phải biết phương thuốc hiệu
nghiệm để chữa lành.
– Chúng ta đừng bao giờ phê bình hay ngăn cản những người tội lỗi đến cùng
Thiên Chúa. Mọi người đều là tội nhân và đều cần tình thương tha thứ của Ngài.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
05/07/2019 – THỨ SÁU TUẦN 13 TN
Th. An-tôn Ma-ri-a Da-ca-ri-a, linh mục
Mt 9,9-13
GIÊ-SU THẬT ĐÁNG MẾN!
Khi Đức Giê-su đang dùng bữa tại nhà Mát-thêu, có nhiều người
thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. Thấy vậy, những
người Pha-ri-sêu nói với các môn đệ Người rằng: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với
bọn thu thuế và quân tội lỗi như vậy?” (Mt 9,11)
Suy niệm: Giê-su, Chúa của chúng ta
thật khác lạ; khác lạ trong cách chọn lựa và cách sống của Ngài. Sự khác lạ đó
làm cho người ta phải ngạc nhiên: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế
và quân tội lỗi như vậy?” Thật vậy, khi thâu nạp môn đệ, Chúa Giê-su lại chọn
Mát-thêu, một người thu thuế, lớp người vốn bị coi là tội lỗi trong xã hội Do
Thái. Chúa cũng chọn sống theo một cung cách gần gũi với người tội lỗi như thế,
gần gũi hài hòa đến độ, chính họ, “các người thu thuế và các người tội lỗi đều
lui tới với Đức Giê-su” (Lc 15,1). Cách nghĩ của Ngài cũng thật lạ so với những
cách suy nghĩ thông thường của người đời: Ngài đến để kêu gọi người tội lỗi và
chết cho họ. Và thật lạ, cung cách đó đã chinh phục Mát-thêu, để ông trở thành
môn đệ loan báo Tin Mừng, và cung cách đó đã chinh phục cả thế giới!
Mời Bạn: Chúa Giê-su thật đáng yêu
và kính phục! Ngài đầy “chí khí” khi đồng bàn với người tội lỗi và Ngài yêu
thương họ. Hôm nay, Ngài cũng dành cái “chí khí” ấy cho bạn và tôi, Ngài vẫn
réo gọi gọi bạn và tôi, đứng dậy đi theo Ngài.
Sống Lời Chúa: Dâng lời tạ ơn vì Chúa đã
kêu gọi chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
Chúa thật đáng mến, vì Chúa chọn chúng con làm bạn của Chúa, dù chúng con bất xứng.
Chúa chọn chúng con, dù người đời muốn loại trừ chúng con, nhưng Chúa, Chúa muốn
gần gũi bảo vệ chúng con. Xin cho chúng con đáp lại bằng việc dấn thân loan báo
Tin Mừng.
(5 Phút Lời Chúa)
Đứng dậy đi theo (05.7.2019 – Thứ
Sáu tuần 13 TN)
Suy niệm:
Thầy Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên khi họ đang làm việc.
Người thì đang quăng lưới ngoài khơi,
kẻ thì đang vá lưới trong thuyền (Mt 4, 18-22).
Khi Thầy gọi Mátthêu, anh cũng đang làm việc ở trạm thu thuế.
Anh đang ngồi, vững vàng trong nghề nghiệp của mình,
dù nghề của anh thường bị coi là nghề rất xấu.
Thầy Giêsu như tình cờ đi ngang qua bàn làm việc của anh.
Ngài chỉ nói một câu rất ngắn: “Anh hãy theo tôi!”
Mátthêu không đáp lại, nhưng anh trả lời bằng hành động.
Từ vị thế đang ngồi, anh bỏ dở công việc để đứng lên và theo Thầy.
Từ vị thế vững vàng, anh bắt đầu bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.
Từ vị thế của tội nhân, anh trở thành người môn đệ thân thiết.
Mátthêu nằm trong danh sách nhóm Mười Hai (Mt 10, 3).
Thầy Giêsu không sợ mất tiếng khi nhận anh vào nhóm.
Nhóm của Thầy không chỉ gồm những người thánh thiện,
nhưng có cả những tội nhân giàu lòng hoán cải.
Mátthêu có đóng góp gì cho nhóm Mười Hai không?
Nghề thu thuế với giấy bút có giúp gì cho các ngư phủ ít học không?
Trong nhóm Mười Hai, Mátthêu có chỗ đứng đặc biệt,
người thu thuế trở nên Tác giả sách Tin Mừng.
Mátthêu làm nghề bị đồng bào của ông khinh miệt,
vì nghề này dễ dẫn người ta đến chỗ lạm thu, bỏ tiền vào túi riêng.
Nghề này còn là một sỉ nhục vì cộng tác với ngoại bang bóc lột dân,
đụng chạm đến đồng tiền ô uế và tiếp xúc với dân ngoại.
Khi trở nên môn đệ của Thầy, Mátthêu đã trở nên người phục vụ đồng bào.
Ông dùng khả năng của mình mà viết sách Tin Mừng.
Đây là Tin Mừng lớn mà ông loan báo: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia.
Không phải chờ gì nữa, Đấng Mêsia đã đến rồi!
Ngài làm trọn những lời đã được loan báo trong Cựu Ước.
Mátthêu đã tìm ra ngôn ngữ để nói với Dân Chúa, sao cho họ hiểu được.
Ông đã trình bày dung mạo Đức Giêsu cho người cùng thời với ông.
Chúng ta cũng phải có khả năng giới thiệu Đức Giêsu cho người thời nay,
nghĩa là biết, hiểu và nói được ngôn ngữ của thế giới,
để thế giới nghe và hiểu được.
Chúng ta vẫn phải tiếp tục viết các sách Tin Mừng cho thời đại hôm nay,
phù hợp với não trạng và tâm thức của họ, với nền văn hóa đương đại.
Đâu là khuôn mặt Đấng Cứu độ mà con người hôm nay ngóng chờ?
Con người thời nay khỏe mạnh về nhiều mặt,
nhưng vẫn là người đau ốm cần đến thầy thuốc (c. 12).
Họ mong mình được giải phóng khỏi điều gì?
Đức Giêsu Kitô có thể đáp ứng được những khao khát đó không?
Lời rao giảng và cuộc sống của chúng ta phải cho thấy
Đức Giêsu có thể chữa lành và đem lại một thế giới hạnh phúc.
Ước gì chúng ta có lòng nhân và sự bao dung như Đức Giêsu,
dám đồng bàn với con người hôm nay để dẫn họ đến bàn tiệc thiên quốc.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả
năng bản thân
hay vào những phương tiện trần
thế.
Xin cho chúng con làm được
những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm
đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
5 THÁNG BẢY
Tính Tự Trị Của Các
Vật Thụ Tạo
Mặc dù cách diễn tả của
Thánh Kinh gán quyền cai quản mọi loài trực tiếp cho Thiên Chúa, chúng ta vẫn
có thể nhận ra rõ ràng sự khác biệt giữa hành động của Thiên Chúa – Đấng Tạo
Hóa – và hoạt động của các thụ tạo. Đó là sự khác biệt giữa nguyên nhân đệ nhất
và các nguyên nhân đệ nhị. Đây là vấn đề rất thường được đặt ra bởi con người
thời nay: Thế giới thụ tạo có được sự tự trị và sự tự do đến mức nào? Đâu là
vai trò của con người trong việc phát minh, sáng tạo và xây dựng thế giới?
Theo đức tin Công
Giáo, sự khôn ngoan của Đấng Tạo Hóa làm cho sự quan phòng của Ngài có thể hiện
diện trong thế giới – trong khi thế giới thụ tạo vẫn có được một sự tự trị nào
đó theo quyền của mình. Công Đồng Vatican II đã đề cập đến mầu nhiệm này. Một
đàng, Thiên Chúa giữ gìn mọi sự và làm cho mọi sự có thể là chính chúng: “Chính
vì được tạo dựng mà mọi vật đều có sự vững chãi, chân thực, tốt lành cùng những
định luật và trật tự riêng” (MV 36). Đàng khác, nhờ cách thế mà Thiên Chúa cai
quản thế giới, các tạo vật – nhất là con người – có thể có được sự tự trị nào
đó “theo ý muốn của Đấng Sáng Tạo” (MV 36).
Sự quan phòng của
Thiên Chúa được diễn tả một cách chính xác trong “tính tự trị của các loài thụ
tạo”, trong đó cả sức mạnh lẫn sự ân cần của Thiên Chúa đều được thể hiện. Chúng
ta nhận ra rằng – đối với con người – sự quan phòng của Thiên Chúa sẽ vẫn luôn
luôn còn là một sự khôn ngoan nhiệm mầu bao trùm hết thảy mọi sự (“từ chân trời
này đến chân trời kia”). Sự quan phòng ấy được nhận ra nơi mọi sự với đầy sức
sáng tạo và với trật tự rõ ràng của nó. Tuy nhiên, nó vẫn còn chừa lại nguyên
đó vai trò của con người trong việc xây dựng và phát triển thế giới. Đó chính
là sự khôn ngoan của Thiên Chúa chúng ta.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 05/7
Thánh Antôn Maria
Giacaria, linh mục
St 23, 1-4.19; Mt
9, 9-13.
LỜI SUY NIỆM: “Sao Thầy các
anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?”
Sau khi Chúa kêu gọi ông Mátthêu người thu thuế trở thành môn đệ của Người, Người
đã ngồi dùng bữa với những người bạn cũ của Mátthêu, đã làm cho những người
Pharisêu khó chịu và muốn lên án Người. Bởi vì quan niệm của họ khi tiếp xúc với
người tội lỗi họ sẽ trở thành tội nhân. Nhưng với Chúa Giêsu Người đến với người
tội lỗi như vị thầy thuốc đến với bệnh nhân để chữa lành. Còn về phía bệnh nhân
phải biết mình đang cần sự chăm sóc của Thầy thuốc.
Lạy Chúa Giêsu, vừa rồi Đức Thánh Cha Phanxicô có nhắc chúng con: “Chúa dạy
chúng ta phải phân biệt tội lỗi với kẻ có tội; không được hạ mình giàn xếp với
tội lỗi. Xin cho chúng con nhận ra mình là tội nhân cần được sự săn sóc, viếng
thăm và Chúa đụng tới; để hồn xác chúng con được sống bình an và mạnh khỏe.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
05-07: Thánh ANTÔN MARIA GIACARIA
Linh mục (1502 –
1539)
Thánh Antôn Maria
Giacaria sinh năm 1502 tại Grêmôna, cha Ngài mất sớm, mẹ Ngài, người góa phụ trẻ
18 tuổi không còn biết tới hạnh phúc nào hơn trên trần gian là đào tạo tâm hồn
người con nhỏ của mình. Thấy con thích làm việc hơn là chơi giỡn và biết kiên
trì hy sinh hãm mình, bà rất mừng rỡ, chính bà cũng phát huy tình bác ái đối với
người nghèo khổ, làm gương cho con.
Thành Grêmôna nơi
Antôn sinh trưởng vừa mới hết chiến tranh. Sau cuộc chiếm đóng của người Pháp,
dân thành lại phải chiến đấu với Ludorse Sforza. Tình cảnh thật khốn khổ. Ngày
kia trên đường về học, cậu bé Antôn đã cởi tấm áo thêu của mình cho người nghèo
mặc. Thấy vậy, người mẹ đã âu yếm ôm con vào lòng. Từ đó Antôn xin cho con được
ăn mặc bình thường, có khi còn nhịn phần ăn cho người nghèo nữa.
Thân mẫu Antôn đã chọn
cho Ngài những bậc thầy nổi danh về văn chương Hy lạp và Latinh. Vào tuổi 15,
Antôn đã theo môn triết học ở Pavie, rồi lại theo đuổi y học ở Padua. Ở đại học
người ta chế nhạo nếp sống nghèo khó của Ngài. Tốt nghiệp phải cấp bằng tiến sĩ
ưu hạng, Ngài được rất nhiều khách hàng tín nhiệm. Nhưng đây lại là thời
Luthênô nổi dậy. Antôn bỏ nghề thuốc để theo môn thần học.
Antôn Giacaria bắt đầu
tụ tập trẻ em lại, Ngài nói cho chúng nghe về các chân lý cao trọng. Cha mẹ
chúng cũng thường tới nghe dạy. Họ nói: – Nào chúng mình đến nghe thiên thần của
Chúa.
Tay cầm thánh giá,
thánh nhân rảo qua khắp các đường phố nói về ơn cứu chuộc và việc thống hối.
Nơi nào bị chế nhạo, bị xỉ nhục, Ngài càng năng lui tới hơn.
Năm 1528, lúc được 36
tuổi, Antôn được thụ phong linh mục. Ngài đến ở Milan, thăm viếng các người đau
khổ trong các nhà thương, nhà tù, nơi các xóm nghèo. Các nghĩa cử Ngài làm đã
mang lại cho Ngài danh hiệu “người cha dân tộc”. Ngài ngồi tòa hàng giờ để phục
sinh các linh hồn. Ngài chống lại phái thệ phản và đối đầu với bất cứ ai muốn tấn
công đức tin tinh tuyền. Cha Antôn có hai người bạn tông đồ là Mariggia và
Ferrari. Đức giáo hoàng truyền cho các Ngài lập một hội dòng mới, các tu sĩ
dòng thánh Phaolô. Các Ngài được trao cho việc coi sóc thánh đường thánh
Barnabê, nên người ta gọi các Ngài là các cha Barnabê.
Thánh Antôn Maria
Giacaria thường nói với các môn sinh: – “Đặc tính của những tâm hồn đại lượng
là phục vụ không mong phần thưởng, chiến đấu không chờ lương bổng. Hãy tiến tới
không ngừng và hướng tới sự hoàn thiện cao cả hơn. Hãy nói với Chúa Giêsu bị
đóng đinh về tất cả những gì bạn thấy và lãnh ý Người, cho mình và cho người
khác”.
Ngài dạy họ phải quen
với những phỉ báng khinh miệt nhưng không làm như vậy được nếu không hướng trọn
ý tưởng về với Chúa, và nếu kinh nguyện chưa nên của ăn nuôi sống linh hồn. Các
linh mục và cả hàng giáo sĩ đã bắt đầu. Chiều về anh em họp nhau lại để thú tội.
Thánh nhân còn dẫn anh em rảo qua đường phố bằng cách vác Thánh giá mà rao giảng.
Họ còn tự động cột giây vào cổ, làm những việc nặng nhọc trong khi một số khác
đi ăn xin cho người nghèo.
Thấy vậy, nhiều người
thống hối và cải thiện đời sống. Thánh Antôn còn cổ động lòng sùng kính Thánh
Thể khuyên năng rước lễ hơn. Thời đó người ta chỉ rước lễ một hai lần trong
năm. Trước sự đổi mới này, nhiều người coi sự nhiệt thành của Ngài là cuồng tín
dị đoan. Thánh nhân vẫn an lòng và cảm nghiệm điều Ngài thường nói: – Bạn sẽ được
thấp nhập vào Chúa đến độ không còn lo tưởng đến những sự trên thế gian này nữa.
Năm 1530, Ngài giúp nữ
công tước Torelli thành lập một hội dòng nữ. Đức giáo hoàng Phaolô III đã chuẩn
y hội dòng này và đặt tên là “Dòng chị em các thiên thần”.
Năm 1536, cha Antôn
Giacaria từ chức bề trên nhà dòng mà Ngài đã giữ từ đầu để đi truyền giáo. Ngài
rao giảng Phúc âm và giải hòa các cuộc tranh chấp. Công việc thật bề bộn, không
thể lường trước được, dầu vậy thánh nhân vẫn trung thành với tác vụ, các cuộc
tĩnh tâm và thư tín.
Tuy nhiên lần này, tại
Guastalla, thánh nhân đã kiệt sức. Xa các môn sinh, Ngài lui về với thân mẫu.
Bà khóc lóc khi thấy con. Nhưng Antôn nói:- Mẹ ơi ! Mẹ đừng khóc nữa. Chẳng bao
lâu rồi mẹ cũng được vui mừng với con trong vinh quang bất tận mà bây giờ con
đang tiến vào.
Ba giờ chiều ngày 5
tháng 7 năm 1593, linh mục trẻ 36 tuổi Antôn Maria Giacaria thở hơi cuối cùng
trong tay mẹ hiền.
(daminhvn.net)
05 Tháng Bảy
Con Người Tự Do
Ðại thi hào
Rabindranath Tagore của Ấn Ðộ có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Khi còn trẻ, tôi cảm
thấy tràn đầy năng lực… Một buổi sáng nọ, tôi ra khỏi nhà và hô lớn: “Tôi sẵn
sàng phục vụ bất cứ ai muốn”. Thế là tôi hăm hở lên đường và trong tư thế sẵn
sàng phục vụ bất cứ ai chờ đợi. Từ đằng xa, đức vua và đoàn tùy tùng tiến đến.
Vừa nghe tiếng tôi, ngài đã dừng lại và nói với tôi: “Ta đưa ngươi vào cung hầu
hạ ta và bù lại, ta sẽ ban cho ngươi quyền hành”. Ngẫm nghĩ, không biết dùng
quyền hành để làm gì, tôi đành lặng lẽ bỏ đi…
Tôi tiếp tục ra đi
và hô lớn: “Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn”. Chiều hôm đó, có một cụ già
ngỏ ý thuê tôi và để đền bù, cụ cho tôi những đồng bạc mà âm thanh vang lên như
bản nhạc. Nhưng tôi cảm thấy không cần tiền bạc, cho nên đành tiếp tục ra đi.
Tôi tiếp tục ra đi
và tiến gần đến một căn nhà xinh đẹp. Một em bé gái xinh đẹp chào tôi và đề nghị
với tôi: “Tôi thuê anh và bù lại, tôi sẽ tặng cho anh nụ cười của tôi”. Tôi cảm
thấy do dự. Một nụ cười sẽ kéo dài bao lâu? Chỉ trong chớp nhoáng, cô bé đã biến
vào bóng tối…
Khi tôi rời bỏ căn
nhà xinh đẹp, thì trời cũng đã tối. Tôi ngã người trên thảm cỏ và ngủ thiếp.
Sáng ngày hôm sau, tôi thức giấc trong sự mệt mỏi. Khi mặt trời vừa lên, tôi đi
lần ra bãi biển. Một cậu bé đang chơi đùa trên cát. Vừa thấy tôi, nó ngẩng đầu
lên, mỉm cười như thể đã từng quen biết với tôi. Một lúc sau, nó nói với tôi:
“Tôi sẵn sàng thuê anh và bù lại, tôi không có gì để cho anh cả”. Tôi đón nhận
ngay giao kèo của cậu bé. Và chúng tôi bắt đầu chơi đùa với nhau trên bãi cát.
Những người qua lại ngỏ ý muốn thuê tôi, nhưng tôi từ chối, bởi vì từ ngày hôm
đó, tôi mới thực sự cảm thấy mình là một con người tự do.
Không gì quý bằng độc
lập tự do: không chừng câu khẩu hiệu quen thuộc này ứng dụng một cách rất xác
thực vào đời sống Ðức Tin của chúng ta… Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là Ðấng
Cứu Thoát, bởi vì Ngài đến để giải phóng chúng ta, Ngài đến để làm cho chúng ta
được tự do. Và tự do mà Ngài mang lại cho chúng ta là gì nếu không phải là tự
do khỏi tội lỗi, tự do khỏi đam mê, tự do khỏi ích kỷ, tự do khỏi danh vọng, tiền
bạc và tất cả những gì ràng buộc con người…
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét