11/07/2019
Thứ Năm tuần 14 thường niên
Thánh Bênêđictô, viện phụ.
Lễ nhớ.
* Chào đời quãng
năm 480 tại Noóc-xi-a (Um-ri-a). Sau một thời gian theo học ở Rôma, Bênêđictô
rút lui vào một hang ở Xu-bi-a-cô và bắt đầu sống đời ẩn sĩ, chiêu mộ
các đồ đệ rồi chuyển đến Montê Cátxinô. Tại đây, người lập một đan viện
thời danh, chính người soạn tu luật cho đan viện. Sau này tu luật mang tên người
được phổ biến khắp châu Âu, nên người được mệnh danh là “Tổ phụ của nếp sống
đan tu ở phương Tây”. Người qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547.
Từ cuối thế kỷ 8,
người đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7.
Ngày 24 tháng 10
năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 ra tông thư “sứ giả hòa bình” (Pacis
nuntius), đặt người làm bổn mạng toàn châu Âu.
BÀI ĐỌC I: St 44,
18-21. 23b-29; 45, 1-5
“Để cứu sống anh em mà Thiên
Chúa đã sai em xuống Ai-cập trước anh em”.
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy,
Giuđa lại gần mà nói thật thà với Giuse rằng: “Thưa ngài, xin ngài nghe tôi tớ
của ngài nói đôi lời, xin ngài đừng phẫn nộ với tôi tớ của ngài, vì sau vua
Pharaon ngài là chủ của tôi. Trước đây ngài đã hỏi các tôi tớ ngài rằng: ‘Các
ngươi còn cha, còn đứa em nào nữa chăng?’ Chúng tôi đã trả lời với ngài rằng:
Chúng tôi còn cha già, và một đứa em út sinh ra lúc cha chúng tôi đã già. Anh
áp út đã chết rồi: mẹ nó chỉ còn lại một mình nó, cha chúng tôi thương nó lắm.
Vậy mà ngài đã bảo các tôi tớ ngài: ‘Hãy đem nó tới đây cho ta xem thấy nó’.
Chúng tôi đã thưa với ngài rằng: ‘Đứa nhỏ không thể bỏ cha nó được’. Nhưng ngài
đã nói dứt khoát với các tôi tớ ngài rằng: ‘Nếu em út các ngươi không tới với
các ngươi, thì các ngươi sẽ không thấy mặt ta nữa’. Vậy khi chúng tôi trở về
cùng tôi tớ của ngài là cha chúng tôi, chúng tôi đã thuật lại hết mọi điều ngài
đã nói. Cha chúng tôi bảo rằng: ‘Các con hãy trở lại mua thêm ít lúa thóc nữa’.
Chúng tôi trả lời với người rằng: ‘Chúng con không thể đi được. Nếu em út đi với
chúng con, thì chúng con cùng đi chung với nhau. Nếu em út không đi với chúng
con, thì chúng con không dám đến trước mặt người’. Cha chúng tôi nói: ‘Các con
biết rằng bạn ta chỉ sinh ra cho ta hai đứa con trai, một đứa đã ra đi và các
con đã nói nó phải thú dữ ăn thịt, và cho đến nay chưa thấy nó trở về; các con
lại đem thằng này đi nữa, nếu dọc đường có gì rủi ro xảy đến cho nó, thì các
con đưa cha già đầu bạc sầu não này xuống suối vàng cho rồi'”.
Khi ấy Giuse không thể
cầm lòng nổi trước mặt mọi người đang đứng đấy, nên truyền cho mọi người ra
ngoài, và không còn người nào khác ở đó lúc ông tỏ cho anh em biết mình, ông
khóc lớn tiếng: những người Ai-cập và cả nhà vua đều nghe biết. Giuse nói với
các anh em rằng: “Tôi là Giuse đây, cha còn sống không?” Các anh em sợ hãi quá
nên không dám trả lời. Giuse nói với anh em cách nhân từ rằng: “Hãy đến gần
tôi”. Khi họ đến gần, ông lại nói: “Tôi là Giuse em các anh mà các anh đã bán
sang Ai-cập. Các anh chớ khiếp sợ, và đừng ân hận vì đã bán tôi sang đất này,
vì chưng để cứu sống các anh em mà Thiên Chúa đã sai tôi sang Ai-cập trước anh
em”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 104, 16-17.
18-19. 20-21
Đáp: Các ngươi hãy
nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm (c. 5a).
Xướng:
1) Chúa đã gọi cảnh cơ
hàn về trên đất nước, và rút đi mọi sự nâng đỡ bằng cơm bánh. Ngài đã sai một
người đi trước họ: Giuse đã bị bán để làm nô lệ. – Đáp.
2) Thiên hạ đã lấy xiềng
để trói chân người, và cổ người bị cột bằng xích sắt, cho tới khi ứng nghiệm lời
tiên đoán của người, lời của Chúa đã biện minh cho người. – Đáp.
3) Vua đã sai cởi trói
cho người, Chúa của chư dân cũng đã giải phóng người. Vua đã tôn người làm chủ
của mình, và làm chúa trên toàn diện lãnh thổ. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia!
– Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 10, 7-15
“Các con đã lãnh nhận nhưng
không, thì hãy cho nhưng không”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi rao giảng rằng ‘Nước Trời đã gần đến’.
Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ
phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy
cho nhưng không. Các con chớ mang vàng bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang
bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc, vì thợ
thì đáng được nuôi ăn.
“Khi các con vào thành
hay làng nào, hãy hỏi ở đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra
đi. Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: ‘Bình an cho nhà này’. Nếu nhà ấy xứng
đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy. Nhưng nếu ai không tiếp rước
các con và không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi nhà hay thành ấy và giũ bụi
chân các con lại. Thật, Thầy bảo các con: Trong ngày phán xét, đất Sôđôma và
Gômôra sẽ được xét xử khoan dung hơn thành ấy”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Chỉ thị truyền
giáo
Trong bài Tin Mừng
hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ một số chỉ thị cụ thể liên quan đến
việc thi hành sứ mệnh đã lãnh nhận. Trước hết, về chính việc rao giảng Tin Mừng:
Hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm
cho kẻ chết sống lại, cho người phong cùi được khỏi bệnh và khử trừ ma quỷ. Vì
là người được Chúa ủy thác, nên phải thi hành đúng chỉ thị của Ngài: rao giảng
Nước Trời, cứu vớt những người nghèo khổ, bị bỏ rơi bên lề xã hội.
Liên hệ đến tâm thức
và cách sống của nhà truyền giáo, Chúa Giêsu nói đến tính cách nhưng không của
việc hiến thân, tinh thần vị tha, giao tiếp hiền hòa với những ai đón nghe lời
rao giảng cũng như với những ai từ chối. Ðã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho
nhưng không. Ðừng mang vàng bạc, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giầy
hay cầm gậy. Vì thợ thì có quyền được nuôi ăn. Khi vào nhà nào thì hãy chào
thăm và chúc lành cho nhà đó.
Chúa Giêsu không những
ủy thác việc rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ, Ngài còn muốn đời sống các ông
phù hợp với lời giảng dạy. Nội dung cốt yếu của sứ điệp không do quyết định tự
do hoặc sáng kiến của người rao giảng, mà là do chính Chúa Giêsu ấn định, đó là
Nước Trời. Người được sai đi với tư cách là thừa tác viên phải thi hành đúng
như Chúa đã truyền. Ngài mời gọi họ dấn thân sống đầy đủ mỗi ngày lý tưởng truyền
giáo và lý tưởng của người môn đệ. Ðiều quan trọng phải nhớ là hành trang của
nhà truyền giáo khi theo Chúa Giêsu là lời của Ngài và đời sống nghèo khó của
Ngài. Tất cả những sự khác phải được coi là dư thừa, nhiều khi còn là ngăn trở
cho việc truyền giáo. Kinh nghiệm cho thấy rằng những ai dấn thân sống nghèo
khó và hy sinh cho người khác, sẽ được Chúa cho lại gấp trăm.
Xin Chúa cho chúng ta
luôn ý thức sứ mệnh Chúa đã trao và quảng đại dấn thân để góp phần mở rộng Nước
Chúa nơi trần gian. Xin giải thoát chúng ta khỏi những hành trang vô ích, dư thừa,
cản trở việc rao giảng Tin Mừng, để chúng ta không lạc bước trong khi thi hành
sứ mệnh cao cả đã lãnh nhận.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 14 TN1,
Năm lẻ
Bài đọc: Gen
44:18-21, 23-29, 45:1-5; Mt 10:7-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải thực hiện
thánh ý Thiên Chúa trong các biến cố của cuộc đời.
Trong sự quan phòng
khôn ngoan của Thiên Chúa, chẳng có một biến cố nào ngẫu nhiên xảy ra mà không
có ý định của Thiên Chúa trong đó cho cá nhân, gia đình, và tập thể. Thái độ của
con người là phải tìm ra và làm theo thánh ý của Thiên Chúa để sinh ích lợi cho
mình và cho tha nhân; chứ đừng kêu la, than khóc, hay trách móc Thiên Chúa và
tha nhân về số phận hẩm hiu của mình.
Các Bài Đọc hôm nay vạch
ra cho chúng ta thấy thánh ý của Thiên Chúa trong mọi biến cố lớn hay nhỏ của
cuộc đời. Trong Bài Đọc I, sau khi đã có thời gian để suy gẫm về cuộc đời mình
và các biến cố đã và đang xảy ra cho gia đình, ông Giuse đã tỏ mình ra cho anh
em và nói: “Chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh
em.” Nói rõ hơn, Thiên Chúa đã chuẩn bị cuộc đời Giuse để cứu sống gia đình,
cho dẫu phải ngang qua sự ghen ghét và nhẫn tâm của các anh. Trong Phúc Âm,
chính vì hạnh phúc đời sau của nhân loại mà Chúa Giêsu đã thu thập các môn đệ để
huấn luyện, trao quyền, và sai các ông đi để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước
anh em.
1.1/ Nỗi lòng của cha
già: Vì Giuse muốn gặp em ruột của mình là
Benjamin, nên đã giữ một người anh là Simeon làm con tin ở lại Ai-cập trong
chuyến đi mua thực phẩm lần trước. Ông truyền cho các anh phải đem Benjamin tới
gặp, ông mới tha cho tất cả trở về. Nếu không, đừng bao giờ đến gặp mặt ông nữa.
Khi anh em ông đem
chuyện này để thưa với cha già Jacob, ông tâm sự với các con: “Các con biết rằng
vợ của cha đã sinh cho cha hai đứa. Một đứa đã lìa cha, và cha đã nói: Đúng là
nó đã bị xé xác, và cho đến nay cha chẳng được nhìn lại nó. Nếu các con đem cả
đứa này đi xa cha, và nó gặp tai hoạ, thì các con sẽ làm cho kẻ bạc đầu này phải
đau khổ mà xuống âm phủ.” Jacob vẫn tin Giuse đã bị thú dữ ăn thịt như lời các
con nói với ông.
1.2/ Ông Giuse tỏ mình
cho các anh: Khi nghe những lời tường thuật
về cha già, ông Giuse không thể cầm lòng trước mặt tất cả những người đứng bên
ông, nên ông kêu lên: “Bảo mọi người ra khỏi đây!” Khi không còn người nào ở với
ông, ông Giuse mới tỏ cho anh em nhận ra mình. Ông oà lên khóc và người Ai-cập
nghe được, triều đình Pharao cũng nghe thấy.
+ Phản ứng của các anh
em: Họ bàng hoàng khi nghe những lời ông nói. Họ cảm thấy xấu hổ về những thiệt
hại họ đã gây ra cho ông. Họ không thể thốt lên một lời nào vì quá xấu hổ.
+ Phản ứng của ông
Giuse: Ông nói với anh em: “Hãy lại gần tôi.” Họ lại gần. Ông nói: “Tôi là
Giuse, đứa em mà các anh đã bán sang Ai-cập. Nhưng bây giờ, các anh đừng buồn
phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây: chính là để duy trì sự sống mà
Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em.”
Như một con người, ông
có thể trả thù bằng cách bắt giữ các anh làm nô lệ cho mình; nhưng ông không
làm điều đó, vì ông xác tín mọi việc xảy ra trong đời ông là do sự quan phòng của
Thiên Chúa. Ngài gởi ông qua Ai-cập trước để dọn đường và để bảo vệ sự sống cho
chính ông, cho gia đình, và cho các dân tộc. Nhiều tác giả đã so sánh Chúa
Giêsu cũng mang trong mình sứ vụ như Giuse: Ngài hy sinh chịu mọi đau khổ để
mưu cầu sự sống cho mọi người.
2/ Phúc Âm: Chính để loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã sai các môn đệ của
Ngài đi.
2.1/ Bổn phận các môn đệ:
Chúa chọn các Tông-đồ để huấn luyện các ông
là cho một mục đích. Ngài biết sẽ phải từ bỏ thế gian để trở về với Chúa Cha,
nên Ngài huấn luyện các ông để các ông thay Ngài tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng
cho muôn dân. Mục đích của việc rao giảng Tin Mừng là để con người nhận ra tình
yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn con người tin vào Đức Kitô để được chung hưởng
hạnh phúc với Ngài trên Thiên Đàng.
(1) Việc phải làm: Bổn
phận hàng đầu của các môn đệ được Chúa Giêsu nói rất rõ ràng: “Dọc đường hãy
rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần.” Để muôn dân tin vào lời các môn đệ rao
giảng, Chúa Giêsu cũng ban cho các ông quyền chữa lành các vết thương hồn xác:
“Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong
hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ.” Mục đích của việc chữa lành là để muôn
dân nhận ra quyền năng Thiên Chúa và tin vào Ngài, chứ không phải để kiếm các lợi
lộc vật chất. Ngài truyền cho các ông: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải
cho không như vậy.”
(2) Việc không được
phép làm: Vì Chúa Giêsu biết trước những cám dỗ vật chất có thể làm các môn đệ
xao lãng bổn phận rao giảng Tin Mừng; nên Ngài ngăn cấm các ông:
+ Đừng kiếm vàng bạc
hay tiền giắt lưng: Người môn đệ trung thành của Đức Kitô không bao giờ được
phép tìm kiếm những thứ này; ngày nào người môn đệ tìm kiếm những thứ này, họ
không thể là người môn đệ của Đức Kitô, và lời rao giảng của họ sẽ mất hết hiệu
lực.
+ Đừng tích trữ của cải
mang theo: “Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy.”
Nhiều người cho những lời dạy này không thực tế, vì lên đường mà không có những
vật dụng cần thiết, khi cần đến lấy gì mà dùng. Điều chính yếu Chúa Giêsu muốn
nêu lên ở đây là người môn đệ phải sống một cuộc đời đơn giản. Nếu người môn đệ
có quá nhiều của cải, làm sao ông có thể sẵn sàng lên đường đến những nơi xa
xôi hẻo lánh để rao giảng Tin Mừng? Hơn nữa, Đức Kitô muốn các môn đệ phải tuyệt
đối tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa, “vì thợ thì đáng được nuôi ăn.”
Thiên Chúa sẽ không để những nhà rao giảng Tin Mừng của Ngài phải chết đói dọc
đường.
2.2/ Kiếm người xứng đáng
để ở trọ: Trong sự quan phòng của Thiên
Chúa, Ngài sẽ không ngừng thúc đẩy những tâm hồn có lòng quảng đại để họ lo
chăm sóc đời sống vật chất của các nhà rao giảng. Chính vì điều này mà Đức Kitô
đã dạy các môn đệ: “Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi
xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi.”
(1) Phần thưởng cho những
người tiếp đón các môn đệ Chúa: “Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho
nhà ấy. Nếu nhà ấy xứng đáng, bình an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy
không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em.”
(2) Hình phạt cho những
người không tiếp đón các môn đệ Chúa: “Nếu người ta không đón tiếp và nghe lời
anh em, thì khi ra khỏi nhà hay thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại. Thầy bảo
thật anh em, trong Ngày Phán Xét, đất Sodom và Gomorrah còn được xử khoan hồng
hơn thành đó.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Khi một biến cố xảy
ra trong cuộc đời, chúng ta hãy tìm xem Thiên Chúa đang muốn chúng ta làm gì,
và mau mắn thực hiện thánh ý của Ngài.
– Mọi điều Chúa răn dạy
đều có lý do của nó, vì Chúa không bao giờ làm việc vô ích. Nếu chưa nhận ra lý
do, hãy cầu nguyện để Thánh Thần giúp chúng ta nhận ra thánh ý của Ngài.
– Thiên Chúa cho chúng
ta vào trần gian là cho một mục đích. Chúng ta phải nhận ra thánh ý của Ngài,
và mau mắn chu toàn trước khi trở về với Ngài.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
11/07/2019 – THỨ NĂM TUẦN 14 TN
Th. Bê-nê-đi-tô, viện phụ
Mt 10,6-15
ĐEM TIN MỪNG BIẾU KHÔNG
“Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.
Đừng kiếm vàng bạc hay tiền đồng để giắt lưng.” (Mt 10,8-9)
Suy niệm: Trong cuốn “Chút này làm
tin”, đức cha Nguyễn Thái Hợp thuật lại hành trình gặp Chúa của chị Thu Thủy, một
câu chuyện thật cảm động. Theo chị kể, hành trình Thiên Chúa dắt dìu chị đi từ
một người vô thần đến làm người Ki-tô hữu là một hành trình dài, có bàn tay
Thiên Chúa hướng dẫn. Ngài dùng nhiều người chỉ lối dọc theo đường chị đi. Khởi
đầu, khi đang tuyệt vọng, có người giới thiệu chị đến cầu xin với thánh Giu-se,
dù bấy giờ chị chưa phân biệt thánh Giu-se với Chúa Giê-su; người thì dẫn chị
đi vào nhà thờ lần đầu; người giới thiệu chị vào học khoá giáo lý; người giảng
giải giáo lý cho chị; các học viên cùng khóa tỏ lòng thân thiện với chị… Điều
đáng nói, tất cả mọi người đều giúp chị cách “miễn phí”. Dễ hiểu thôi, bởi họ
đã “được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”. Những chứng nhân này sẵn
sàng “miễn phí” cho mọi thì giờ, miễn sao Đức Kitô được “nối mạng” với hết mọi
người.
Mời Bạn: Lời Chúa đây vẫn còn hiệu
lực cho mỗi Ki-tô hữu hôm nay, để không ai được viện bất cứ lý do gì làm gián
đoạn hành trình gặp Chúa của tha nhân hay miễn chước cho mình sứ mạng “đem Tin
Mừng biếu không” này.
Chia sẻ: Vì sao Ki-tô hữu phải đem Lời Chúa biếu không?
Sống Lời Chúa: Thay vì dùng thì giờ
“chát, tuýt” để tán gẫu vô bổ, bạn dùng thì giờ để nói về Chúa cho người khác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, có gì
nơi con mà không là ân huệ Chúa ban? Mọi sự con có đều là ân huệ Chúa ban cách
nhưng không. Xin cho con biết phân phát ân huệ con lãnh được theo cách thức
không điều kiện như Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
Chúc bình an (11.7.2019 – Thứ
Năm tuần 14 TN)
Suy niệm:
Trước khi sai các Tông Đồ lên đường truyền giáo,
Thầy Giêsu đã dặn dò họ nhiều điều.
Họ được sai đến với ai: với những đồng bào của họ là người Israel.
Sau này họ mới được sai đến với dân ngoại, với mọi dân tộc (Mt 28, 20).
Họ đến để làm gì: rao giảng về Nước Trời gần đến,
chữa bệnh, hoàn sinh kẻ chết, khử trừ ma quỷ ra khỏi lòng người (c. 8).
Họ đến để đem lời chúc bình an cho những ai mở lòng lãnh nhận (c. 12).
Họ không nên mang theo những gì: tiền vàng, bạc hay đồng để giắt lưng,
bao bị để đựng đồ, hai áo để thay đổi, giày dép để bảo vệ đôi chân,
cả chiếc gậy vừa để đi đường xa, vừa đề phòng nguy hiểm (cc. 9-10).
Cách hành xử của họ cũng được Thầy nói rõ.
Họ làm mọi việc mà không đòi bất cứ điều gì để trả công.
“Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (c. 8).
Họ đã nhận được Nước Trời như một món quà,
họ cũng muốn trao đi như một quà tặng.
Điều duy nhất họ mong là được người ta lo cho thức ăn, chỗ ở.
“Vì thợ thì đáng được nuôi ăn” (c. 10).
Khi nghe lời dặn dò của Thầy Giêsu,
chúng ta thấy ngay mẫu người tông đồ mà Thầy mơ ước.
Đó là con người bị cuốn hút bởi những bận tâm về Nước Trời,
nên siêu thoát khỏi mọi vướng bận trần tục.
Nước Trời phong phú và giàu có đủ làm họ mãn nguyện,
nên họ coi nhẹ chuyện ở, chuyện mặc, chuyện ăn.
Chính lối sống đơn sơ giản dị, thậm chí thiếu thốn của họ,
là một lời chứng về những gì trên cao.
Họ cũng phải chấp nhận mình có thể bị từ chối, không được đón tiếp.
Một thành, một làng hay một nhà có thể không chấp nhận Tin Mừng,
và họ phải khiêm tốn tìm đến nơi thuận lợi hơn (c. 14).
Các tông đồ thế kỷ 21 hẳn không thể sống theo nghĩa đen những lời trên
đây,
nhưng cũng không được gạt bỏ tinh thần mà Đức Giêsu vẫn muốn ta giữ mãi.
Nhẹ nhàng, thanh thoát, khó nghèo, phó thác, không tính toán lợi danh,
gieo rắc niềm vui và an bình, chữa lành và giải phóng con người khỏi nô lệ.
Và trên hết là một lòng yêu mến Thiên Chúa nồng nàn,
và một lòng yêu thương cháy bỏng đối với đoàn chiên vất vưởng bơ vơ.
Đó vẫn là hành trang muôn thuở của người tông đồ qua mọi thời đại.
Thời nay người tông đồ được trang bị nhiều phương tiện hiện đại,
với những cơ sở vững vàng, với số vốn ổn định, với tri thức bằng cấp đầy
đủ.
Những điều đó vẫn không khiến chúng ta bỏ rơi tinh thần của Thầy Giêsu.
Bởi lẽ mất tinh thần của Thầy, chúng ta chẳng còn là tông đồ nữa.
Thánh Phanxicô Assisi đã bị đánh động khi đọc đoạn Tin Mừng này.
Và ngài đã muốn đưa Giáo hội trở lại với lối sống nghèo khó.
Rất có thể việc truyền giáo của chúng ta ở châu Á chưa có kết quả
chỉ vì chưa có những tông đồ dám sống triệt để lời dặn dò của Thầy Giêsu.
Mà lời dặn dò của Thầy lại rất hợp với tinh thần của người châu Á.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh
sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng
ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử
thách:
những kẻ đói, không chỉ vì
thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì
thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an,
sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái
nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu
biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG BẢY
Con Đường Tiến Tới
Thành Toàn
Sự quan phòng bao trùm
một cách đặc biệt những tạo vật được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống
như Ngài – tức con người. Con người nhận được “sự tự trị của những hữu thể thụ
tạo” trong ý nghĩa đầy đủ nhất theo diễn tả của Công Đồng Vatican II (MV 36).
Nhưng không chỉ con người mà thôi – vì còn phải kể đến các tạo vật có bản tính
tinh thần thuần túy nữa. Nhưng chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề này sau – vấn đề
liên quan đến thế giới vô hình.
Trong thế giới hữu
hình, đối tượng đặc biệt của sự quan phòng thần linh là con người. Theo ngôn ngữ
của Công Đồng Vatican II, “con người là tạo vật duy nhất trong thế giới được
Thiên Chúa yêu thương vì chính nó” (MV 24). Vì thế, “con người không thể hoàn
thành chính mình nếu không chân thành trao hiến chính mình” (MV 24).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 11/7
Thánh Bênêđictô, viện
phụ
St 44, 18-21.23-29;
Mt 10, 7-15.
LỜI SUY NIỆM: “Dọc đường
hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu,
làm cho kẻ chết sống lại, cho người phung hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ.
Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. Đừng kiếm vàng bạc
hay tiền giắc lưng…Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.”
Đây là những lời căn dặn của Chúa Giêsu cho bất cứ ai khi lãnh nhận sứ mạng rao
giảng Tin Mừng của Chúa đến với muôn dân, nó luôn là tiếng chuông cảnh tỉnh; nhất
là đối với những ai đã được nhận lãnh những ơn đặc biệt một cách nhưng không từ
Thiên Chúa, đừng biến nó trở thành những mũ triều thiên cho mình, hay là biến
nó thành chiếc xẻng để đào; nhưng cần có tinh thần yêu thương phục vụ và phó
thác vào sự quan phòng của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúng con đang được lãnh nhận: Lời Chúa, các Bí Tích và lời
Giáo huấn một cách nhưng không từ những người Chúa đã sai đến với chúng con.
Xin cho mỗi người trong chúng con không được quên nghĩa vụ cấp dưỡng hợp lý cho
những người của Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
11-07: Thánh BÊNÊĐITÔ
Tu Viện Trưởng (480
– 547)
Thánh Bênêditô, tổ phụ
các dòng tu bên tây phương, sinh khoảng năm 480 tại Nursia. Hai nguồn chính về
cuộc đời thánh Bênêđitô là cuốn Dialogne (đối thoại) của thánh Grêgôriô Cả và
cuốn qui luật của chính thánh nhân. Cuốn Dialogne thâu thập các phép lạ được
coi là do thánh nhân thực hiện. Giá trị của các phép lạ này tùy theo thẩm quan
và theo cách thức phê phán của mỗi người, nhưng cung ứng cho chúng ta những sự
kiện quí giá. Cha mẹ Ngài có lẽ thuộc vào hàng quí tộc ở miền quê. Ngài lớn lên
tại gia đình. Năm 14 tuổi, Ngài được gửi tới Roma để bổ túc việc học hành. Các
độc giả ngày nay có thể ngạc nhiên khi thấy có chị vú nuôi Cyrilla của Ngài đi
theo.
Sự suy đồi của Roma
làm cho người thiếu niên nhà quê này khiếp sợ. Dầu có vú nuôi đi theo, thánh
nhân trốn khỏi kinh thành hai hay ba năm sau đó. Ngài biết rằng: Thiên Chúa muốn
gọi mình sống đời tu trì. Cùng với vài người đạo đức, Ngài lưu lại ít lâu ở
Enfide, cách Roma 35 dặm. Sau đó một mình lên đường, Ngài tìm sống đời ẩn dật
tu trì. Tại Subianô, Ngài gặp một ẩn sĩ tên là Rômanô, vị ẩn sĩ hỏi: – Bạn ơi,
bạn đi đâu vậy ?
– Tôi trốn thế gian và
đi tìm cô tịch.
Rômanô khen ngợi ý định
đạo đức của thánh nhân, khuyên Ngài hãy kiên trì và ban cho những lời khuyên nhủ
quí báu. Thầy cho Ngài một bộ áo nhà tu, là một tấm da cừu và chỉ cho Ngài một
cái hang. Nhận bộ áo nhà tu, Bênêditô lần mò tới cái hang ở giữa triền dốc
Montê Calvô. Ngài đã giam mình ở đó 3 năm, thinh lặng cầu nguyện và ăn chay hãm
mình. Thực phẩm Ngài dùng là rễ cây và ít mẩu bánh thầy Romanô gởi tới bằng một
cái thúng cột giây thả xuống.
Quỉ dữ tức giận vì các
nhân đức của thầy dòng trẻ tuổi. Chúng dùng nhiều chước cám dỗ để lôi kéo Ngài
bỏ sa mạc trở về thế gian. Ngài thường làm dấu thánh giá để xua đuổi các cơn
cám dỗ. Một lần kia bị cám dỗ nghịch với đức trong sạch, Ngài liền cởi áo và
lăn mình vào bụi gai đến chảy máu ra. Từ đó tư tưởng xấu hoàn toàn bị đè nén và
không còn khuấy khuất Ngài nữa.
Tuy nhiên, các mục đồng
đã khám phá ra Ngài và danh thơm nhân đức của Ngài đã lan rộng. Một tu viện gần
đó mời Ngài về làm bề trên. Nhưng khi muốn chỉnh đốn những lạm dụng và muốn áp
dụng một qui luật, Ngài đã bị một số thầy dòng bực tức khó chịu. Họ còn đi đến
quyết định hãm hại người khác nữa. Đến bữa ăn thánh Bênêditô làm dấu thánh giá
trên chén rượu như thói quen, chén liền vỡ tan. Ngài nói với họ: – Xin Chúa tha
thứ cho các anh. Tại sao các anh làm như vậy ? Tôi đã chẳng nói với các anh rằng:
chúng ta không thể sống chung được với nhau là gì ? Vậy các anh hãy đi tìm một
bề trên khác hợp ý các anh hơn.
Rồi thánh nhân tìm lại
cô tịch để sống thân mật một mình với Thiên Chúa. Dầu vậy danh tiếng của thánh
nhân lan rộng tới Roma. Ngài không thể sống cô độc một mình được nữa. Nhiều người
tìm đến xin làm môn đệ Ngài. Tiếp nhận họ, Ngài đã phải thiết lập 12 tu viện nhỏ.
Có những gia đình quí phái mang con đến gởi thánh nhân. Chúng ta phải kể đến
trong số này hai thiếu niên Placidê và Maurô là những người sau này đã trở nên
các vị thánh.
Nhân đức các phép lạ của
thày dòng cao cả này đã gây nên nỗi ghen tức và cả đến việc vu oan nữa. Thánh
Grêgôriô cho chúng ta biết rằng: vì bị một linh mục ghen ghét xua đuổi,
Bênêditô phải dời bỏ Subianô. Thi sĩ Marcô lại nói rằng: Ngài đã được Chúa gọi
đến Cassinô. Dầu sự thực có thế nào đi nữa, thì vào khoảng giữa năm 520 và 530,
thánh Bênêditô cùng với vài người bạn đã rời bỏ Subiacô tới Cassinô. Trên núi
Cassinô có một ngôi đền cổ và một cánh rừng dâng kính thần Apollô. Ngài rao giảng
Tin Mừng cho dân cư vùng này và phá rừng khai hoang. Sau khi triệt hạ ngôi đền
cổ, Ngài đã thiết lập hai nhà nguyện kính thánh Gioan tẩy giả và thánh Martinô.
Đó là nguồn gốc của tu viện nổi danh Montê Cassinô.
Thánh Bênêditô đã sống
tại đây cho tới hết đời. Cũng tại đây, Ngài đã trước tác một bộ luật dòng ảnh
hưởng rất lớn trong đời sống tu trì của Giáo hội. Theo luật sống này, một ngày
của tu sĩ được phân phối cho ba hoạt động chính là cầu nguyện, học hành và lao
động.
Mọi hoạt động của
thánh nhân đều nhằm thi ân. Người ta còn kể lại nhiều phép lạ Ngài đã thực hiện.
Chẳng hạn như Ngài chữa cho nhiều người phong hủi, trừ quỉ và làm cho nhiều người
chết sống lại, Ngài còn được ơn thấu suốt bí mật tâm hồn và bí mật về tương
lai. Chúng ta ghi lại giai thoại về cuộc tiếp xúc giữa thánh nhân với vua
Totila. Nhà vua muốn kiểm chứng tin đồn rằng: thánh nhân biết được những điều
bí mật. Ông cho biết mình sẽ đến thăm thánh nhân. Nhưng thay vì đích thân đến,
ông lại sai một viên chức tên là Riggon, ăn mặc như nhà vua và có đoàn tùy tùng
đông đảo. Thánh nhân vẫn ngồi khi thấy ông tới và nói với ông: – Con ơi ! Cởi
áo ra đi. Nó không phải là của con,
Đến luợt Tôtila, ông đến
thăm người của Chúa, ông quỳ mọp dưới chân thánh nhân, nhưng đã ngạc nhiên khi
nghe Ngài nói: – Hãy giảm bớt những bất công đi, bởi vì ông đã gây quá nhiều sự
dữ. Ong sẽ tiến vào Roma, cai trị trong chín năm. Năm thứ 10 ông sẽ từ trần.
Lời tiên báo của thánh
nhân đã được thể hiện đầy đủ. Ngài còn cho biết rằng tu viện Monte Cassinô sẽ bị
tàn phá. Lời tiên báo này cũng đã xảy ra. Năm 590, tu viện bị người Combarde cướp
phá. Năm 1943, bọn đồng minh tàn phá dữ dội tu viện.
Thánh nhân tiếp tục
làm nhiều phép lạ, do lòng bác ái thúc đẩy. Vào cuối đời, Ngài được thị kiến,
thấy địa cầu chói sáng và linh hồn của thánh Germain được các thiên thần đưa về
trời.
Ngài cũng đã thấy linh
hồn của em mình là thánh nữ Scolastica về trời như vậy. Bốn mươi ngày sau cái
chết của người em gái thánh nhân cho biết về cái chết của em mình. Sau khi đào
mộ cho mình, thứ bảy ngày 21 tháng 3 năm 543 Ngài từ trần như lời loan báo trước.
(daminhvn.net)
11 Tháng Bảy
Một Quy Luật Ðơn Sơ
Hôm nay Giáo hội
tôn kính nhớ thánh Bênêđictô, bổn mạng của toàn thể Châu Âu.
Vào cuối thế kỷ thứ
5, đế quốc La Mã bị lung lay vì cuộc xâm lăng của những người mà thế giới Kitô
tại Âu Châu gọi là dân man di.
Một người thanh
niên thuộc dòng dõi quý tộc tại miền trung nước Italia muốn trốn thoát khỏi cuộc
loạn nhiễu nhương ấy, cho nên đã leo lên ngọn núi Subiaco để dìm mình trong cuộc
sống ẩn dật. Chính giữa nơi thanh tịnh thoát tục ấy mà chàng đã nghe được tiếng
Chúa phán trong tâm hồn: có nhiều giá trị của đế quốc La Mã cần phải được bảo tồn.
Càng ra sức làm việc để đem lại sự thống nhất và văn minh cho các dân xâm lược ấy.
Lấy những thôi thúc
ấy làm lý tưởng cho cuộc sống, Bênêđictô, người thanh niên quý tộc ấy đã quy tụ
xung quanh mình một số người đồng chí hướng và thiết lập tu viện đầu tiên tại
Montecassino.
Chàng đã nói với
Mauro, Placido và những người môn đệ đầu tiên như sau: “Chúng ta giam mình
trong bốn bức tường kiên cố không phải là để xa cách những người khác, nhưng là
để tiếp nhận từ trên cao ánh sáng của Chúa và thông đạt cho thế giới, để học hỏi
một cách sâu xa hơn nền văn minh vừa Kitô giáo vừa nhân bản và làm cho nền văn
minh ấy chiếu sáng giữa những người anh em của chúng ta. Tôn chỉ của chúng ta
là thập giá và cái cày, bởi vì một dân tộc chỉ có thể phát sinh và lớn lên với
sự cầu nguyện, nghiên cứu học hỏi và lao động”.
Những điểm chính
trong quy luật của chúng ta là: Hát bảy lần một ngày để ca tụng Chúa và làm cho
màn đêm tăm tối cũng được ấm cúng với lời ca tụng này. Thứ đến, mỗi ngày bỏ ra
nhiều giờ để lao động ngoài đồng áng, học hỏi những sự trên trời và dịch lại những
tác phẩm cổ điển. Sau cùng, phục vụ nhau như những người anh em của nhau, nhất
là tại bàn ăn, là nơi vừa nghe đọc sách vừa thưởng thức chút rượu.
Vị thánh đã đưa ra
chút quy luật đơn sơ trên đây đã được chọn làm bổn mạng của toàn thể Âu Châu, bởi
vì nền văn minh của Kitô giáo hiện nay, nền văn minh nhân bản của thế giới ngày
nay đã phát sinh từ chính lý tưởng cao quý ấy: sống chung trong yêu thương để
ca tụng Chúa và phục vụ con người.
Giữa cơn khủng hoảng của
đời sống tu trì như người ta đang chứng kiến hiện nay tại hầu hết các nước Tây
phương, người ta lại thấy một dấu hiệu đầy hy vọng: các tu viện sống đời chiêm
niệm vẫn tiếp tục thu hút thanh niên thiếu nữ. Giữa một thế giới dư dật, nhưng
trống rỗng, hơn bao giờ hết, người ta càng ngày càng cảm thấy có nhu cầu phải cầu
nguyện, phải sống kết hợp với Chúa.
Ðời sống tu trì, dù bất
cứ dưới hình thức nào đi nữa, cũng không là một lẩn trốn đầy sợ hãi trước thế
gian… Người tu sĩ đích thực xa lánh thế gian, chứ không xa lánh con người. Người
tu sĩ đích thực xa lánh sự sa đọa của thế gian, để rồi lại kiến tạo một xã hội
nhân bản hơn, dễ thở hơn, dễ sống hơn.
Ðó không chỉ là sứ mệnh
của người được Chúa chọn cho cuộc sống chiêm niệm và cầu nguyện, mà cũng là sứ
mệnh của mọi người Kitô. Người tín hữu Kitô luôn được mời gọi để thoát tục, để
đi ngược lại tinh thần của thế tục, để tiêu diệt nơi mình những sức mạnh của sự
dữ để ra sức kiến tạo một thế giới đáng sống hơn. Sống giữa thế giới, nhưng
không thuộc về thế gian: đó là thế đứng của người Kitô. Ơn gọi và sứ mệnh của họ
là kiến tạo Nước Chúa nghĩa là xây dựng những giá trị vĩnh cửu ngay trên chính
những cái chóng qua ở đời này.
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét