13/07/2019
Thứ Bảy tuần 14 thường niên
BÀI ĐỌC I: St 49,
29-33; 50, 15-24 (Hr 49, 29-33; 50, 15-25)
“Thiên Chúa sẽ thăm viếng anh
em, và dẫn anh em ra khỏi đất này”.
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy,
Giacóp trối lại cho các con rằng: “Cha sắp về sum họp cùng dân cha. Các con hãy
chôn xác cha gần mồ cha ông, trong hang đôi ngoài cánh đồng của Êphron, người
Hêthê, ngang thung lũng Mambrê trong đất Canaan, mà Abraham đã mua của Êphron,
người Hêthê, để làm nghĩa trang. Nơi đó đã mai táng Abraham và bạn ông là Sara,
nơi đó cũng đã mai táng Isaac và bạn ông là bà Rébecca, nơi đó cũng đã mai táng
bà Lia”. Trối cho các con xong, Giacóp rút chân lên giường và trút hơi thở, trở
về sum họp với dân người.
Khi Giacóp đã qua đời,
anh em của Giuse lo sợ và nói với nhau rằng: “Có khi Giuse còn nhớ sự sỉ nhục
đã phải chịu mà trả đũa lại điều ác mà chúng ta đã làm chăng?” Họ liền sai người
đến nói với Giuse rằng: “Trước khi chết, cha ngài đã trối lại cho chúng tôi là
hãy lấy lời cha mà nói với người rằng: ‘Cha xin con hãy quên tội ác và lỗi lầm
của các anh con đã làm cho con’. Chúng tôi cũng xin ngài tha thứ tội ác của các
tôi tớ Thiên Chúa của cha ngài”. Nghe vậy, Giuse bật khóc lên. Các anh em của
Giuse đến sấp mình xuống đất mà nói rằng: “Chúng tôi là tôi tớ của ngài”. Giuse
đáp rằng: “Anh em đừng sợ! Nào chúng ta có thể chống lại thánh ý Chúa sao? Các
anh đã lo nghĩ sự dữ cho tôi, nhưng Thiên Chúa đã đổi nó ra sự lành để tôi được
vinh hiển như anh em thấy hôm nay và để cứu sống nhiều dân tộc. Anh em đừng sợ,
chính tôi sẽ nuôi dưỡng anh em và con cái anh em”. Ông đã an ủi và lấy lời êm dịu
hiền lành mà nói với anh em.
Giuse và gia quyến cha
của ông đã cư ngụ trong nước Ai-cập, và ông sống được một trăm mười tuổi. Ông
đã được thấy con cái của Ephraim đến ba đời. Con cái của Makir, là con của
Manassê cũng đã sinh ra trên đầu gối Giuse. Các việc ấy đã qua đi, Giuse đã nói
cùng anh em: “Sau khi tôi chết, Thiên Chúa sẽ thăm viếng anh em, và dẫn anh em
ra khỏi đất này và đưa đến đất mà Người đã thề hứa ban cho Abraham, Isaac và
Giacóp”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 104, 1-2.
3-4. 6-7
Đáp: Các bạn khiêm
cung, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh (Tv 68, 33).
Xướng:
1) Hãy ca tụng Chúa,
hãy hoan hô danh Người, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca,
đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. – Đáp.
2) Hãy tự hào vì danh
thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và
quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. – Đáp.
3) Hỡi miêu duệ
Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn.
Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa
cầu. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia!
– Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các
điều lạ lùng của Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 10, 24-33
“Các con đừng sợ những kẻ giết
được thân xác”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: “Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ
mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ
đã gọi chủ nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng
sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì
kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy
nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
“Các con đừng sợ kẻ giết
được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Đấng có thể
ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng
tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến.
Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các
con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
“Vậy ai tuyên xưng Thầy
trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự
trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt
Cha Thầy là Đấng ngự trên trời”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Ðừng sợ người
đời
Mahatma Gandhi, nhà
tranh đấu bất bạo động cho quyền con người và nền độc lập của Ấn Ðộ, đã có lần
nhắn nhủ các môn sinh như sau: "Sự thật và tình thương sẽ chiến thắng. Hãy
suy nghĩ điều đó và hành động theo sự thật và tình thương. Ðừng bao giờ dùng bạo
lực đáp trả bạo lực, vì làm như thế là bắt chước lối sống man rợ của những người
dùng bạo lực. Khi dùng bạo lực, những người đó cho thấy nỗi thất vọng và trạng
thái thú hóa của họ. Chúng ta hãy sống như con người. Những người dùng bạo lực
có thể đánh đập và giết chết thân xác chúng ta, nhưng không thể giết được tinh
thần và quyền lợi của chúng ta, họ không thể giết được sự thật. Sự thật và tình
thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ kỹ và hãy sống theo sự thật và tình thương,
bởi vì nếu sống theo bạo lực và hận thù, thì thế giới sẽ trở thành mù
lòa".
Ðã từng vào tù ra
khám, đã từng bị đánh đập hành hung, con người đã nói những lời trên đây chưa một
lần tỏ ra sợ sệt. Ngày 30/01/1948, ông ngã gục vì nhát gươm của một người quá
khích. Cái chết của ông là một cụ thể hóa của chính chủ trương bất bạo động mà
ông đã đề ra.
Sẵn sàng chết để làm
chứng cho sự thật và tình thương với niềm tin vào sự bất tử của linh hồn con
người, Mahatma Gandhi dù chưa phải là Kitô hữu, nhưng đã sống theo lời Chúa dạy
trong Tin Mừng hôm nay, đó là sống hiên ngang, không sợ hãi trước các cường lực
sự dữ, không sợ hãi những người chỉ giết được thân xác, nhưng không làm gì được
linh hồn; sống trung thực với phẩm giá của con cái Chúa, không để mình rơi vào
tình trạng hóa thú và nô lệ cho bạo lực: "Các con đừng sợ những kẻ giết được
thân xác, mà không giết được linh hồn".
Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta nhìn vào thực tế cuộc sống và tỏ ra thái độ phù hợp với người có lòng
tin. Từ chuyện phải vất vả kiếm sống đến chuyện tương lai của con cái và những
khó khăn trong việc sống đạo, chúng ta được mời gọi để múc lấy ánh sáng của Tin
Mừng và chiếu dọi vào những thực tế ấy. Là người Kitô hữu, tôi phải sống những
thực tại ấy thế nào? Lý tưởng của tôi là tìm mọi cách để có nhiều của cải vật
chất hay là tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính trước?
"Môn đệ không hơn
Thầy, tôi tớ không hơn chủ". Chúa Giêsu đã đi con đường của nghèo khó,
thua thiệt, bách hại, thập giá, tha thứ và tha thứ cho đến cùng. Nhưng Chúa
Giêsu không chỉ đề ra cho chúng ta một lý tưởng, một con đường để đi theo, Ngài
chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta kết
hiệp với Ngài, chúng ta sẽ được sức mạnh của Ngài để thắng vượt mọi gian nan thử
thách. Chúng ta cũng tin rằng bên kia những hao mòn và chết chóc trong thân
xác, tâm hồn chúng ta sẽ được mãi mãi kết hiệp với Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 14 TN1,
Năm lẻ
Bài đọc: Gen
49:29-33, 50:15-24; Mt 10:24-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự thật sẽ
toàn thắng.
Thế gian là bãi chiến
trường giữa sự thật và sự gian tà, giữa sự thiện và sự ác, giữa Thiên Chúa và
ma quỉ, và giữa con cái ánh sáng và con cái của bóng tối. Thế gian dùng những
thủ đọan và áp lực để gây đau khổ cho con cái của ánh sáng, làm cho họ sợ hãi và
không dám sống cho sự thật. Thiên Chúa đòi con cái của Ngài đừng sợ hãi, hãy chấp
nhận đau khổ và làm chứng cho sự thật. Ngài sẽ cho họ sức mạnh để thắng vượt
gian khổ và chiến thắng khải hoàn.
Các Bài Đọc hôm nay tập
trung trong cuộc giao tranh này và những lời dạy quí hóa của Chúa Giêsu cho các
môn đệ. Trong Bài Đọc I, vì tổ-phụ Jacob đã trung thành sống theo những gì Chúa
răn dạy, nên Ngài đã bảo vệ ông cho đến lúc nhắm mắt lìa đời. Noi gương cha,
Giuse cũng làm những gì Chúa và cha căn dặn, ông sẵn sàng tha thứ cho các anh
em và cấp dưỡng cho gia đình họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải
có 3 thái độ tối quan trọng để có thể rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Ngài:
sẵn sàng chấp nhận đau khổ, không sợ hãi, và tuyệt đối tin tưởng vào sự quan
phòng của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I:
1.1/ Thiên Chúa luôn bảo
vệ các tôi trung của Ngài: Sau khi đã đoàn tụ
và sống bên con được ít lâu, ông Jacob biết sắp đến giờ ông phải từ biệt các
con để ra đi. Ông cho gọi các con tới và truyền cho họ rằng: “Cha sắp được về
sum họp với tổ tiên. Hãy chôn cất cha bên cạnh cha ông của cha, trong cái hang ở
cánh đồng của ông Ephron, người Hittite, trong cái hang ở cánh đồng Machpelah,
đối diện với Mamre, tại đất Canaan … Ở đó đã chôn ông Abraham và vợ ông là bà
Sarah; ông Isaac và vợ ông là bà Rebekah; ở đó cha đã chôn bà Leah.” Khi truyền
lệnh cho các con trai ông xong, thì ông Jacob rút chân lên giường; ông tắt thở
và được về sum họp với tổ tiên.
Thiên Chúa đã hứa với
Jacob trước khi xuống Ai-cập: Ngài sẽ bảo vệ ông và sẽ cho Giuse vuốt mắt ông
trước khi lìa đời. Điều này đã hiện thực. Trong thị kiến cái thang, Thiên Chúa
hứa với ông: “Này Ta ở với ngươi; ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta sẽ giữ gìn ngươi,
và Ta sẽ đưa ngươi về đất này, vì Ta sẽ không bỏ ngươi cho đến khi Ta hoàn
thành điều Ta đã phán với ngươi” (Gen 32:15). Ước nguyện của Jacob trước khi chết
cũng thành hiện thực: Các con ông đem xác ông về chôn trong phần mộ của tổ tiên
tại Hebron, vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
1.2/ Các anh vẫn không
tin Giuse có thể tha thứ cho họ:
(1) Phản ứng của các
anh: Các anh ông Giuse thấy cha mình đã chết thì bảo nhau: “Không khéo Giuse
còn hận chúng ta và trả lại cho chúng ta tất cả điều ác chúng ta đã gây ra cho
nó!” Vì thế, họ sai người đến nói với ông: “Cha của chú trước khi chết đã truyền
rằng: Các con hãy nói thế này với Giuse: “Thôi! Xin con tha tội tha lỗi cho các
anh con, vì họ đã gây ra điều ác cho con.” Bây giờ xin chú tha tội cho các kẻ
làm tôi Thiên Chúa của cha chú!” Sau đó, các anh ông đích thân đến cúi rạp xuống
trước mặt ông và nói: “Này chúng tôi là nô lệ của chú.”
(2) Phản ứng của
Giuse: Ông Giuse muốn các anh nhận ra sự quan phòng của Thiên Chúa, nên ông nói
với họ: “Đừng sợ! Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa! Các anh đã định làm điều ác
cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xảy
ra hôm nay, là cứu sống một dân đông đảo. Bây giờ các anh đừng sợ, tôi sẽ cấp
dưỡng cho các anh và con cái các anh.” Ông an ủi và chuyện trò thân mật với họ.
Thiên Chúa có mắt,
Ngài không bỏ các tôi tớ trung thành tin tưởng vào Ngài. Ông Giuse nói với các
anh em: “Tôi sắp chết, nhưng thế nào Thiên Chúa cũng sẽ viếng thăm anh em và
đưa anh em từ đất này lên đất mà Người đã thề hứa với ông Abraham, ông Isaac và
ông Jacob.”
2/ Phúc Âm: Không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ.
2.1/ Ba thái độ phải có của
người môn đệ Đức Kitô: Để trở thành môn đệ
trung thành của Đức Kitô, một người phải có ba thái độ sau:
(1) Sẵn sàng chấp nhận
gian khổ: “Nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.” Người môn đệ Đức Kitô
chắc chắn sẽ bị người đời bắt bớ, vì họ đã từng bắt bớ và giết Ngài. Chúa Giêsu
muốn các môn đệ Ngài phải nhớ rõ điều này: “Trò không hơn thầy, đầy tớ không
hơn chủ. Trò được như thầy, đầy tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà
người ta còn gọi là Beel-zebul, huống chi là người nhà.”
Trong khi rao giảng
hay làm việc tông đồ, người môn đệ chắc chắn sẽ gặp những người phê bình, chống
đối, đe dọa và bắt bớ. Lý do đơn giản là người môn đệ nói những điều người đời
không muốn nghe, và sự thật thì hay mất lòng. Một vài ví dụ dẫn chứng: người
môn đệ nói phải tuyệt đối trung thành trong ơn gọi gia đình đang khi khán giả
ngồi dưới đã từng ly dị; người môn đệ dạy phải hy sinh để báo hiếu cha mẹ đang
khi khán giả gởi cha mẹ vào các viện dưỡng lão; người môn đệ dạy phải sinh con
cái cho nhiều đang khi khán giả không muốn sinh thêm con.
(2) Không được sợ hãi
người đời: Nếu người môn đệ sợ làm người đời mất lòng, sợ bị phê bình hay bị chống
đối, người môn đệ sẽ không dám nói sự thật mà ông được kêu gọi để rao giảng;
ngược lại, ông sẽ tìm cách nói những gì mà khán giả thích, cho dẫu những điều
này không phải là những gì Chúa dạy. Đó là lý do Chúa Giêsu răn dạy các môn đệ:
“Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ
lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc
đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên
mái nhà rao giảng.”
Khi làm chứng cho sự
thật, các môn đệ sẽ phải trả giá đắt, có thể phải hy sinh cả tính mạng như trường
hợp của các thánh tử đạo; nhưng các ngài sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho sự thật,
vì các ngài tin Thiên Chúa sẽ trả lại thân xác vinh quang, và cho linh hồn các
ngài được sống đời đời.
(3) Phải tin tưởng nơi
sự quan phòng của Thiên Chúa: Để dạy các môn đệ điều này, Chúa Giêsu đưa ra hai
ví dụ: Thứ nhất, chim sẻ: Ngài nói: “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải
không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Vậy anh
em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.” Thứ hai, tóc trên đầu:
Ngài nói: “Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi.” Tóc trên đầu
con người quá nhiều và rụng xuống hàng ngày. Nếu một sợi tóc vô nghĩa rơi xuống
hàng ngày như vậy còn được Thiên Chúa quan tâm tới, huống hồ là số phận của những
người môn đệ Chúa.
Trong sự quan phòng của
Thiên Chúa, đau khổ là phương tiện Thiên Chúa dùng để thử thách niềm tin yêu của
con người dành cho Ngài. Nếu con người sợ hãi và trốn tránh đau khổ, con người
không chứng minh niềm tin yêu của họ dành cho Ngài.
2.2/ Phần thưởng cho những
môn đệ sống trung thành và làm chứng cho sự thật: Chúa Giêsu nói rõ ràng với các môn đệ: “Phàm ai tuyên bố
nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt
Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” Ngược lại, “Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì
Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” Người nào
không dám tuyên xưng danh Thầy mình, không dám nói những sự thật Thầy dạy, người
ấy không phải là môn đệ Đức Kitô. Trong Ngày Chung Thẩm, Đức Kitô cũng không nhận
những người như thế trước mặt Cha của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Đau khổ là khí cụ
Thiên Chúa dùng để thử thách con người, chúng ta đừng sợ hãi cũng đừng trốn
tránh đau khổ đến độ không dám tuyên xưng danh Chúa và làm chứng cho sư thật.
– Chúng ta hãy tuyệt đối
tin tưởng nơi tình yêu của Thiên Chúa quan phòng, để luôn can đảm sống như những
người con Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, và làm ích cho mọi người.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
13/07/2019 – THỨ BẢY TUẦN 14 TN
Th. Hen-ri-cô
Mt 10,24-33
“ĐỪNG SỢ!” VÀ “HÃY SỢ!”
“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được
linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả
ngục.” (Mt 10,24-33)
Suy niệm: Lời Chúa hôm nay dạy chúng
ta “đừng sợ”: đừng sợ bị khinh khi, đừng sợ những bách hại, đừng sợ cái chết vì
chính Đức Ki-tô cũng trải qua những điều đó. Nhưng đồng thời, Ngài cũng dạy
chúng ta biết sợ: “Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.”
Các ki-tô hữu đầu tiên đã để lại cho chúng ta một niềm tin mẫu mực và tuyệt đối
vào Đấng Phục Sinh: không sợ hãi trước những kỳ thị, bách hại và kể cả cái chết.
Và bao thế hệ ki-tô hữu nối tiếp, trong đó có cả cha ông chúng ta cũng đã tin
và để lại cho chúng ta những tấm gương can đảm của những người không sợ chết
nhưng lại biết sợ tội lỗi là cái còn tệ hại hơn cả cái chết.
Mời Bạn: Chúng ta lắng lo nhiều
chuyện nhưng lắm khi chỉ là “lo bò trắng răng”: sợ bệnh tật, đói khát, sợ tai nạn,
thất nghiệp, sợ chết v.v… là những thứ “giết được thân xác chứ không giết được
linh hồn.” Chính cuộc sống hưởng thụ ích kỷ, chiều theo đam mê, dục vọng mới là
những điều đáng sợ. Bạn có đủ can đảm và vững tin vào Lời Chúa để vượt qua nỗi
sợ hãi và cám dỗ đó không?
Chia sẻ: Bạn thường sợ điều gì trong cuộc sống? Nỗi sợ đó có ảnh
hưởng gì đến lòng tin của bạn không? Bạn vượt qua nó bằng cách nào?
Sống Lời Chúa: Khi lo lắng sợ hãi, bạn
hãy nhớ Lời Chúa “đừng sợ”; khi bị cám dỗ, đừng quên Lời Ngài: “Hãy sợ”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin
giúp con biết “đừng sợ” những người “chỉ giết được thân xác”, nhưng xin giúp
con “biết sợ” tội để con luôn bước đi trong đường lối của Ngài.
(5 Phút Lời Chúa)
Anh em đừng sợ (13.7.2019 – Thứ
Bảy tuần 14 TN)
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng lo (c.19).
Hôm nay ba lần Ngài nhắc chúng ta đừng sợ kẻ bách hại (cc. 26. 28.31).
Cuộc sống con người bị trói buộc bởi những nỗi sợ,
có lý và vô lý, đến từ bên ngoài hay từ bên trong trái tim.
Càng văn minh con người càng có nhiều nỗi sợ mới.
Nỗi sợ làm người ta mất tự do, mất bình an, mất vui…
“Đừng sợ” là điệp khúc trấn an được Đức Giêsu nhắc lại nhiều lần.
Đừng sợ, Simon, khi Thầy gọi anh đi theo (Lc 5, 10).
Đừng sợ khi Thầy đi trên mặt nước mà đến (Mt 14, 27).
Đừng sợ sau khi thấy Thầy được biến hình (Mt 17, 7).
Đừng sợ, Giairô, dù con gái ông đã chết (Mc 5, 36).
Đừng sợ, hỡi các phụ nữ, khi gặp Thầy phục sinh (Mt 28, 10).
Nỗi sợ có vẻ gắn liền với phận người mong manh.
Nhưng Đức Giêsu muốn giải phóng chúng ta khỏi mọi nỗi sợ.
Có người môn đệ sợ bị mất mạng, đến nỗi không dám rao giảng,
không dám tuyên nhận Thầy trước mặt người đời.
Đức Giêsu mời các môn đệ nói công khai giữa ban ngày, trên mái nhà,
điều mình nghe Thầy thì thầm trong đêm khuya (c. 27).
Họ không được giữ riêng cho mình điều đã lãnh nhận.
Đừng sợ cái giá phải trả cho việc rao giảng, làm chứng cho Thầy,
vì có điều gì còn quý hơn cả sự sống thân xác nữa (c. 28).
Trong Vườn Dầu, Đức Giêsu cũng sợ chết, vì Ngài còn quá trẻ.
Nhưng Ngài đã không để cho nỗi sợ thắng mình,
khi dám nói tiếng xin vâng, buông đời mình trong tay Cha.
Cha lo cho cả những sinh vật bé nhỏ, tưởng như vô giá trị.
Chim sẻ là thức ăn rẻ tiền nhất vào thời Đức Giêsu.
Tiền lương một ngày mua được ba chục con chim sẻ.
“Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha” (c. 29).
Cả đến sợi tóc của trên đầu chúng ta cũng được Thiên Chúa đếm (c. 30).
Dù một sợi cũng được Thiên Chúa giữ gìn (Lc 21, 18).
Chính vì thế người Kitô hữu được giải phóng khỏi những nỗi sợ đeo đẳng.
Họ chẳng còn sợ ai, ngoài Thiên Chúa.
Vấn đề không phải là trở nên vô cảm, không biết sợ là gì.
Nhưng là biết sợ ai.
“Mày cùng chịu một án phạt mà không biết sợ Thiên Chúa ư?”
Anh trộm lành đã nói với người kia như vậy (Lc 23, 40).
Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những nỗi sợ vu vơ,
để chúng ta được tự do, biết lo điều phải lo, biết sợ điều phải sợ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính
con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập
giá,
xin cho con dám liều theo
Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối
của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự
quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim
con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui
bất diệt
của người một lòng theo
Chúa.
Lm.
Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG BẢY
Sự Tự Do Của Con
Người Diễn Tả Sự Khôn Ngoan Của Thiên Chúa
Ở đây, khi đối diện với
kế hoạch sáng tạo từ đời đời của Thiên Chúa, chúng ta đứng trước một mầu nhiệm
lạ lùng và khôn dò. Mầu nhiệm đó chính là mối quan hệ mật thiết giữa các hành động
của Thiên Chúa và những quyết định của con người.
Chúng ta biết rằng sự
tự do chọn lựa là khả năng tự nhiên của một tạo vật có lý trí. Kinh nghiệm cũng
cho chúng ta biết rằng tự do của con người là cái có thực – ngay cả khi nó bị
làm cho thương tổn và suy yếu đi bởi tội lỗi. Về mối quan hệ giữa sự tự do của
con người với hành động của Thiên Chúa, chúng ta nên nhìn trong ánh sáng của những
gì mà Thánh Tô-ma Aquinô đã nói về sự quan phòng thần linh. Thánh Tô-ma mô tả sự
tự do của con người như biểu hiện của sự khôn ngoan Thiên Chúa – sự khôn ngoan
xếp đặt và hướng dẫn mọi sự đạt đến mục tiêu của chúng (cf. Tổng Luận Thần Học
I,22,1). Tất cả những gì được Thiên Chúa tạo thành đều nhận sự hướng dẫn này,
và trở thành đối tượng của sự quan phòng thần linh (vs. 2).
Qua con người – được tạo
thành theo hình ảnh Thiên Chúa – tất cả thế giới tạo vật hữu hình tiến tới gần
Thiên Chúa và tìm thấy con đường đưa dẫn chúng đến sự thành toàn cuối cùng.
Quan niệm này được diễn tả bởi nhiều người khác nữa, trong đó có Thánh I-rê-nê
và được phản ảnh bởi giáo huấn của Công Đồng Vatican II về tác động phát triển
thế giới của con người (MV 7). Nói tắt, sự phát triển hay sự tiến bộ đích thực
mà con người được mời gọi thực hiện trong thế giới không được phép chỉ hạn định
trong phương diện kỹ thuật, mà phải bao gồm phương diện đạo đức nữa. Đây là điều
kiện thiết yếu để xây dựng Nước Thiên Chúa trong thế giới thụ tạo này (MV các số
35,43,57,62).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 13/7
Thánh Henricô
St 49,
29-33.50,15-26a; Mt 10, 24-33.
LỜI SUY NIỆM: “Trò không lớn
hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá rồi.
Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-de-bun, huống chi là người nhà.”
Đây là những lời Chúa Giêsu đang nâng đỡ cho những ai đang là môn đệ của Chúa;
người môn đệ của Chúa Giêsu luôn mang trên mình những tư tưởng và việc làm bằng
những: hy sinh, phục vụ vì yêu thương tha thứ không phân loại, không gạt bỏ,
không vì danh và lợi, cho riêng mình hay cho nhóm của mình và cũng không ngại
trước những chê trách của thế gian.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng thập giá và đi trên con đường Khổ Nạn để bước vào
vinh quang Phục Sinh. Xin cho chúng con đi theo dấu chân Chúa, để chúng con
ngày sau cũng được tham dự vào vinh quang cùng Chúa trong Nước Trời.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 13-7: Thánh
HENRI
(973 – 1024)
Thánh Henri sinh năm
972. Cha Ngài là Henri bá tước xứ Bavière. Mẹ Ngài là Gisèle, con gái của
Conrad, vua miền Bourgogne. Để bảo đảm cho việc giáo dục con cái, Ngài được mẹ
giao phó cho các thầy dòng ở Mildeshim, miền Saxe, rồi sau đó cho thánh
Wolfgang, giám mục Ratisbonne.
Nhưng thật rủi ro,
trong một năm, Henri đã chịu hai cái tang cha và thầy.
Thánh Wolfgang từ trần
ngày 30 tháng 10 năm 994 và vua Henri từ trần ngày 28 tháng 12 năm 994. Tuy
nhiên ở bên kia thế giới các Ngài dường như không ngừng săn sóc Henri. Một truyền
thuyết kể rằng: Henri đã mơ thấy thánh Wolfgang hiện ra viết trên tường nhà thờ
hai chữ “còn sáu”. Tỉnh dậy, Henri nghĩ rằng mình chỉ còn sống được sáu ngày nữa.
Ngài vội vã bố thí rộng rãi để chuẩn bị ra trước tòa Chúa. Nhưng rồi hạn định
đã qua Henri vẫn sống. Vị bá tước nghĩ rằng Ngài còn sáu tháng để làm việc
lành. Sáu tháng trôi qua Ngài vẫn sống. Lần này Ngài nghĩ thời hạn kéo dài 6
năm và cố gắng sống hoàn hảo hơn nữa. Sau 6 năm trong trường nhân đức ấy, Henri
bỗng được chọn làm hoàng đế nước Đức -Roma.
Trước khi lên ngai
hoàng đế, Henri đã kế vị người cha từ trần, lên làm bá tước miền Bavière. Các
lãnh Chúa thân thiết với Ngài. Dân chúng cũng cảm mến Ngài sâu xa. Họ ao ước bá
tước trẻ của mình lập gia đình. Nhưng Ngài đã hứa với Chúa sẽ sống độc thân. Vì
vâng lời mẹ và dưới áp lực của các lãnh Chúa. Ngài nhận cưới Cunégonda, một thiếu
nữ trong số 11 người con của công tước miền Luxembourg.
Nàng có sắc đẹp mặn mà
và nhiều đức tính làm cho mọi người mến phục. Sau các lễ nghi cưới hỏi, lúc về
chốn riêng tư, Henri mở lời với người bạn đời: – Em yêu, anh không muốn em không
hay biết rằng anh đã thề với Chúa sẽ hiến dâng hồn xác phụng sự Ngài, và vì
tình yêu Chúa Giêsu Kitô, anh muốn tiếp tục hoàn toàn.
Và Cunégonde vui sướng
trả lời: – Chúa công của em, lời khấn hứa, em cũng đã hứa rồi. Thật hạnh phúc,
chúng ta có thể trung thành với những ước nguyện của chúng ta.
Đó là đám cưới tinh
tuyền của Henri và Cunégonde. Hoàng đế Henri lên ngôi và được Đức Giám mục
thành Mayence xức dầu phong vương năm 1002. Mấy hôm sau hoàng hậu Cunégonde
cũng được truy phong và đội triều thiên ở giáo đường Paderbonne. Với tính tình
vui vẻ, bình dân và đầy lòng bác ái, hoàng đế rất được dân chúng mến chuộng.
Nhưng đế quốc Đức – Roma lúc ấy đang thời suy vong và tình hình rất phức tạp.
Vì thế việc đầu tiên của hoàng đế là lo giải hoà các cuộc tranh chấp. Trước hết,
Ngài nhường quyền bá tước miền Bavière chi Henri, người Luxembourg.
Tuy nhiên có thể nói rằng:
suốt đời hoàng đế, Ngài luôn phải lo vãn hồi trật tự trong đế quốc. Ngay khi
lên ngôi hoàng đế, Ngài mang quân sang chinh phục đất Ý, là nơi Arduin tự phong
làm vua, tách rời khỏi đế quốc. Dẹp tan đối phương ở biên giới, gần núi Alpes,
Ngài đã được dân chúng tưng bừng đón rước. Đức Tổng Giám mục Milanô phong vương
cho Ngài tại Pavie. Trở về nước Ngài lại phải đối phó với Boleslaw, xứ Balan. Mấy
năm sau, Boleslaw bị quân nhà vua đánh tan và Jarômia lên quản trị xứ Balan.
Bất đắc dĩ, vua Henri
mới phải dùng đến binh lực, nhưng Ngài luôn tỏ ra nhân từ. Chẳng hạn Hermann vì
muốn tiếm ngôi, đã đốt phá thành Strabourg. Trước lời khuyên nên trả thù thành phố
dung dưỡng Hermann, hoàng đế trả lời: – Thiên Chúa trao quyền tối thượng cho
ta, không phải là mang đến quanh ta những sát nhân và cướp bóc, nhất là không
phải để cho ta phải thiệt mất linh hồn.
Lời này đến tai
Hermann và ông ta hối cải.
Hoàng đế Henri bảo vệ
Đức giáo hoàng Bênêditô chống lại đức giáo hoàng giả. Nhờ Ngài. Đức giáo hoàng
nghĩ tới một Giáo hội trần thế, đã trao cho Ngài một trái cầu bằng vàng có cắm
thánh giá để biểu trưng quyền hạn trao phó của Ngài, lo cho vương quyền Chúa
Kitô phổ biến khắp muôn dân. Trở lại quốc gia, Ngài vội lo dẹp loạn ở
Lombardie. Rồi với nhiệt tình, Ngài đã viếng tu viện Cluny. Ơ đó cầu nguyện lâu
ngày và tặng cho tu viện món quà của Đức giáo hoàng.
Hoàng đế sống trong
cung điện như trong tu viện và chỉ nghĩ tới hòa bình và đức ái. Ngài góp phần cải
hóa dân Hungarie bằng việc gả em gái mình cho vua thánh Stêphanô. Để gây thuận
hòa giữa các dân tộc, Ngài thực hiện cuộc gặp gỡ vua Robert nước Pháp. Đối với
Giáo hội, Ngài lo trùng tu các thánh đường, giúp đỡ các giám mục. Đặc biệt hơn
cả, Ngài đã thành lập giáo phận Banberg và chính tại nhà thờ chính tòa giáo phận
này Ngài sẽ được mai táng.
Trên ngôi hoàng đế,
Ngài luôn trung thành với lý tưởng. Giữa muôn công việc bề bộn, Ngài luôn dành
thời gian cho việc cầu nguyện. Tương truyền rằng ao ước lớn lao nhất của Ngài
là được sống trong tu viện. Lần kia, Ngài tới thăm tu viện thánh Vanne ở
Verdun. Ngài đã xin với chân phước Richasd, tu viện trưởng nhận Ngài làm tu sĩ.
Đức Đan viện phụ nói rằng: chỗ an toàn của vị hoàng đế là ở trên ngai tòa hơn
là ở trong tu viện. Khi thấy vị hoàng đế khẩn nài, Đức Đan viện phụ hỏi: – Ngài
có sẵn sàng thực hiện đức vâng lời cho đến chết không ?
Hoàng đế Henri cương
quyết trả lời: – Con sẵn sàng.
Đức Đan viện phụ liền
nhận Ngài như một tu sĩ của dòng và nhân danh đức vâng lời, truyền cho Ngài cai
quản đế quốc để hiến thân tìm vinh quang Chúa và ông cứu rỗi cho thần dân.
Ngày 15 tháng 7 năm
1024 hoàng đế Henri từ trần, khi đã dùng trọn sức lực để xây dựng một đế quốc
theo tinh thần Kitô giáo.
(daminhvn.net)
13 Tháng Bảy
Niềm Vui Và Kho Tàng
Theo một bảng thống
kê thì hằng năm tại Hoa Kỳ, có khoảng 60 triệu toa bác sĩ cho mua thuốc Valium.
Valium hiện nay được xem là loại thuốc an thần công hiệu nhất.
Nói chung, xem chừng
như văn minh càng tiến bộ, con người càng bất an. Niềm vui đích thực trong tâm
hồn dường như đã vỗ cánh bay xa.
Nhưng an bình và
vui tươi là vấn đề sống còn của con người. Ðạt được tất cả, có tất cả nhưng
không có niềm vui trong tâm hồn, thì sống như thế chẳng khác nào như một thây
chết.
Người Ai Cập thời cổ
tin rằng khi chết con người phải trình diện trước thần Osires để trả lời cho
hai câu hỏi: “Ngươi có tìm thấy niềm vui không? Ngươi có mang lại niềm vui cho
người khác không?”. Số phận đời đời của họ tùy thuộc vào cách họ trả lời cho
hai câu hỏi ấy.
Số phận đời đời của
con người, tương quan của con người với Thiên Chúa tùy thuộc ở niềm vui của họ
trong cuộc sống này.
Một ngày kia, người
ta hỏi nhạc sĩ Franz Joseph Haydn tại sao nhạc tôn giáo của ông lúc nào cũng
vui tươi? Nhà nhạc sĩ tài ba của thế kỷ thứ 18 đã trả lời như sau: “Tôi không
thể làm khác hơn được. Tôi viết nhạc theo những cảm xúc của tôi. Khi tôi nghĩ về
Chúa, trái tim tôi tràn ngập niềm vui đến nỗi các nốt nhạc như nhảy múa trước
ngòi bút của tôi”. Người tín hữu Kitô, theo định nghĩa, không thể không là người
của niềm vui. Họ phải vui mừng bởi vì Thiên Chúa chính là gia nghiệp của họ, bởi
vì tâm hồn của họ luôn có Chúa.
Trong quyển sách có tựa
đề “Những sự thuộc về Chúa Thánh Thần”, Ðức Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Ðức
Kitô đến để mang lại niềm vui: niềm vui cho con cái, niềm vui cho cha mẹ, niềm
vui cho gia đình và bạn hữu, niềm vui cho công nhân và trí thức, niềm vui cho
người bệnh tật, già cả, niềm vui cho toàn nhân loại. Theo đúng nghĩa, niềm vui
là trọng tâm của sứ điệp Kitô và ý lực của Phúc Âm. Chúng ta hãy là sứ giả của
niềm vui”.
Nhưng niềm vui không
phải là một kho tàng có sẵn: nó đòi hỏi phải được kiến tạo. Người ta kiến tạo
niềm vui bằng cách làm cho người khác được vui. Càng chia sẻ, càng trao ban, niềm
vui càng lớn mạnh.
Mỗi ngày chúng ta van
xin người khác không biết bao nhiêu lần: xin vui lòng. Chúng ta xin người “vui
lòng”, nhưng chúng ta lại không muốn làm cho lòng mình vui lên. Nếu chúng ta muốn
người khác “vui lòng” để ban ân huệ cho chúng ta, thì có lẽ chúng ta phải làm
cho lòng mình vui lên bằng bộ mặt vui tươi hớn hở của chúng ta, bằng những chia
sẻ vui tươi của chúng ta, bằng những nụ cười vui tươi của chúng ta, bằng những
chịu đựng vui tươi của chúng ta.
(Lẽ Sống)




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét