14/07/2019
Chúa Nhật 15 Thường Niên năm C
(phần II)
Phụng Vụ Lời
Chúa: Chúa Nhật 15 Thường niên năm C
Đnl 30,10-14;
Cl 1,15-20; Lc 10,25-37
THỰC THI LUẬT CHÚA
“Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10,37)
Trong Cựu Ước, thông
qua ông Môsê, Thiên Chúa luôn nhắc nhở dân Chúa hãy ghi nhớ và thực thi tất cả
những mệnh lệnh của Ngài, như là điều kiện để được Thiên Chúa chúc phúc (x. Đnl
28,1-5; 30,9-10; Lv 25,18; 26,3-10). Qua thời Tân Ước, Chúa Giêsu dạy những ai
nghe lời Người và đem ra thực hành thì giống như người khôn xây nhà trên đá (x.
Mt 7,24); đó là bảo đảm cho người ta được sự sống đời đời (x. Lc 10,25-37).
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1:
Đoạn sách Đệ Nhị Luật
nằm trong diễn từ thứ ba, diễn từ cuối cùng của ông Môsê cho dân Israel, trong
đó ông nhắc lại điều cơ bản là hãy nghe và tuân giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ
của Đức Chúa như được ghi trong sách luật.
Trước hết, để có thể
nghe và thực hành mệnh lệnh của Đức Chúa thì điều cần thiết là hết lòng hết dạ
trở về với Người. Sự trở về với Đức Chúa là đòi hỏi quan trọng vì biết bao lần
dân Israel đã phản bội Đức Chúa mà chạy theo các thần ngoại bang, chạy theo
thói thờ ngẫu tượng của dân ngoại. Hơn nữa, sự trở về phải “hết lòng hết dạ”,
nghĩa là một sự trở về với tất cả tâm hồn, để toàn tâm toàn ý hướng về Đức Chúa
thì mới có thể trung thành trong việc giữ các giới răn và thánh ý chỉ của Người.
Thêm vào đó, ông Môsê
nhắc dân Israel rằng mệnh lệnh của Đức Chúa không ở cao trên trời hay ở xa bên
kia biển đến nỗi không ai có thể chạm đến, vì lệnh truyền đó đã được ban cho
dân Chúa qua trung gian ông Môsê. Vì thế, mệnh lệnh của Đức Chúa “không vượt
quá sức lực hay ngoài tầm tay của anh em” (Đnl 30,11). Đức Chúa biết rõ khả
năng và sự giới hạn của con người nên những mệnh lệnh của Người cũng được thích
nghi cho phù hợp để không vượt quá sức lực hay khả năng của con người.
Cuối cùng, dân Israel
cần ghi nhớ rằng lời Đức Chúa “ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng
anh em để anh em đem ra thực hành” (Đnl 30,14). Thật vậy, khi truyền lời kinh
Shema cho dân Chúa, ông Môsê đã nhắc họ rằng “Những lời này tôi truyền cho anh
em hôm nay, anh em phải ghi tạc vào lòng” (Đnl 6,6) và có trách nhiệm truyền lại
cho thế hệ con cháu (x. Đnl 6,7-9). Lời Chúa mà họ vẫn đọc trên môi miệng và
ghi nhớ trong lòng, thì giờ đây Môsê nhắc họ hãy biết đem ra thực hành chứ
không chỉ đọc hay nghe suông.
2. Bài đọc 2:
Bài thánh thi trong
thư Côlôsê cho thấy vai trò của Đức Kitô trong tương quan với Chúa Cha, với
công trình sáng tạo và cứu độ nhân loại. Các mối tương quan này cho thấy vai
trò quan trọng và địa vị đứng đầu của Đức Kitô.
Thứ nhất là mối tương
quan giữa Đức Kitô và Thiên Chúa. Đức Kitô là hình ảnh của Thiên Chúa (x. Cl
1,15), “là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên
Chúa” (Hr 1,3a). Đức Kitô vừa hiện hữu từ đời đời với Thiên Chúa, vừa xuất hiện
hữu hình trong thời gian để qua Người mà con người nhận biết Thiên Chúa là Đấng
vô hình (x. Ga 14,9-10). Như thế, Đức Kitô có cùng một bản thể như Thiên Chúa,
là một ngôi vị Thiên Chúa; đồng thời, Người lại được “sinh ra trước mọi loài thụ
tạo”, nghĩa là có địa vị đứng đầu, trổi vượt hơn mọi loài thụ tạo.
Thứ hai là mối tương
quan giữa Chúa Kitô và công trình sáng tạo (x. Cl 1,16-17). Tất cả công trình
sáng tạo, dù là trên trời hay dưới đất, hữu hình hay vô hình, đều do Thiên Chúa
tạo dựng nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô. Quả vậy, Đức Kitô là khởi điểm và cũng
là đích điểm của muôn vật, “vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại
và quy hướng về Người” (Rm 11,36). Muôn vật nhờ Đức Kitô mà được tạo thành thế
nào thì cũng nhờ Người mà được sống và hiện hữu như vậy (x. 1 Cr 8,6). Như thế,
tất cả công trình sáng tạo có mối tương quan mật thiết với Đức Kitô vì tất cả đều
được sáng tạo nhờ Người như là nguyên lý, qua Người như là nguyên nhân tác
thành và quy về Người như là cùng đích.
Thứ ba là mối tương
quan giữa Đức Kitô và công trình cứu chuộc (x. Cl 1,18-20). Đức Kitô không chỉ
là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo mà còn là trưởng tử trong số những
người từ cõi chết sống lại. Thật vậy, nhờ cái chết của Đức Kitô trên thập giá,
Thiên Chúa ban ơn hoà giải và bình an cho muôn vật muôn loài; đồng thời, qua sự
phục sinh của Đức Kitô, Thiên Chúa cho thấy đích điểm của công trình cứu chuộc
là được thông phần sự sống vĩnh cửu mà Đức Kitô đã khơi nguồn. Khi nhập thể làm
người, chịu chết và phục sinh, Đức Kitô mang nơi mình tất cả sự viên mãn của ơn
cứu độ để tất cả những ai tin vào Người thì thuộc về Hội Thánh và được thông phần
vào ơn cứu độ là chính sự sống viên mãn của Người.
3. Bài Tin Mừng:
Chúa Giêsu đề cao giá
trị của luật yêu thương trong Cựu Ước; đồng thời, Người cũng đưa ra cách áp dụng
mới mẻ của giới răn yêu thương đó. Nhân hai câu hỏi của nhà thông luật, Chúa
Giêsu cho thấy một cách hiểu và sống giới răn yêu thương hoàn toàn mới mẻ.
Trước câu hỏi thứ nhất
của người thông luật về việc làm thế nào để được sự sống đời đời, Chúa Giêsu
cho thấy tầm quan trọng của giới luật yêu thương trong Cựu Ước: yêu thương
Thiên Chúa với tất cả khả năng về trí khôn, sức lực và tâm hồn (Lc 10,27a; x.
Đnl 6,5) và yêu thương người thân cận như chính mình (Lc 10,27b; Lv 19,18). Người
thông luật hiểu rõ những giới răn này. Điều ông cần là “cứ làm như vậy” thì “sẽ
được sống”. Hiểu biết là một chuyện, sống lại là một chuyện khác. Hiểu biết giới
răn yêu thương là chưa đủ; cần phải thực hành yêu thương thì mới xứng đáng với
phần thưởng là sự sống đời đời.
Thêm vào đó, nhân câu
hỏi thứ hai của người người thông luật, “ai là người thân cận của tôi”, Chúa
Giêsu dẫn ông đến một chân trời mới của tình thương đồng loại. Thật vậy, câu chuyện
người Samari tốt lành sẵn sàng giúp đỡ người bị nạn đang trong tình trạng nguy
cấp, bất chấp mọi hiểm nguy và thiệt thòi của bản thân, giúp nhà thông luật hiểu
ai là người thân cận. Theo đó, người thân cận không chỉ giới hạn trong cái nhìn
của người Do Thái là người thân, bạn bè, hàng xóm hay đồng hương, mà mở rộng ra
tất cả mọi người, nhất là những ai đang cần được yêu thương, giúp đỡ. Người
thân cận không chỉ mang tính thụ động, “ai là người thân cận của tôi”, mà phải
mang tính chủ động, “tôi tỏ ra là người thân cận với ai”. Chúa Giêsu không chỉ
giúp nhà thông luật có một cái nhìn mới mẻ về người thân cận, mà còn muốn ông
“hãy đi và làm như vậy”.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Đoạn sách Đệ Nhị Luật
nhắc lại điều căn cốt đối với dân Israel xưa và mỗi tín hữu hôm nay là hãy để ý
nghe và thực hành lời Chúa. Lời Chúa mời gọi con người hoán cải mà hết lòng hết
dạ trở về với Người. Lời đó không cao xa, không vượt quá sức lực mà ở trong tầm
tay của từng người. Lời đó ở thật gần, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời Chúa
vẫn tiếp tục nói với chúng ta hằng ngày, hằng giờ qua Sách Thánh, qua giáo huấn
của Giáo Hội, qua các dấu chỉ trên thế giới. Điều quan trọng là chúng ta lưu
tâm để có thể lắng nghe và trung thành tuân giữ.
2/ Đức Kitô được tác
giả thư Côlôsê trình bày vừa như là khởi điểm vì muôn vật đều nhờ Người mà có,
trong người mà tồn tại; đồng thời, Người cũng là đích điểm vì muôn loài qui hướng
về Người như là cùng đích của ơn cứu độ. Nhờ cái chết, Người hoà giải nhân loại
với Thiên Chúa và nhờ sự phục sinh của Người, Thiên Chúa ban cho nhân loại sự sống
vĩnh cửu. Đối với mỗi Kitô hữu, Đức Kitô chính là lẽ sống và là sự thành toàn của
cuộc sống đời này và vinh quang phục sinh mai sau. Có Đức Kitô là có tất cả. Mất
Người là mất mọi sự. Trong Đức Kitô, người ta sống có ý nghĩa khi được thông hiệp
với sự sống của Người; ngoài Đức Kitô, tất cả trở nên vô nghĩa.
3/ Chúa Giêsu giúp nhà
thông luật hiểu rằng thực thi luật yêu thương: Yêu thương Thiên Chúa hết lòng
và yêu thương người thân cận như chính mình là điều kiện để được sự sống đời đời.
Đồng thời, Chúa Giêsu còn mở ra cho nhà thông luật một giới hạn mới về người
thân cận, theo đó, bất cứ ai cũng có thể là người thân cận của ta. Chính khi biết
chủ động thực thi lòng thương xót với bất kỳ ai, nhất là những người đang cần đến
ta, là ta đang xem họ như người thân cận. Giới hạn của yêu thương chính là yêu
thương không giới hạn. Tình thương thúc đẩy ta đối xử với bất kỳ ai đang gặp
khó khăn, hoạn nạn, nghèo khổ, thiếu thốn như người thân cận của mình.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ tế: Anh chị
em thân mến! Thờ kính Chúa trên hết mọi sự và yêu thương người như chính mình
là điều răn căn bản của đạo Chúa và là đường đưa chúng ta đến sự sống đời đời.
Với quyết tâm chu toàn lề luật, cộng đoàn chúng ta cùng tha thiết cầu xin Chúa
giúp mỗi người biết sống yêu thương như Chúa truyền dạy.
1. Hội Thánh được mời
gọi tiếp nối sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi
thành phần trong Hội Thánh luôn lắng nghe và nhận ra sự hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần qua những dấu chỉ thời đại, để tích cực dấn thân phục vụ những nhu cầu
chính đáng của con người.
2. Nhờ máu Đức Kitô đổ
ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình cho mọi thụ tạo trên trời dưới đất.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia biết tôn trọng sự thật
và luôn hành động theo công lý, để chung xây một thế giới hòa bình và đảm bảo
cuộc sống hạnh phúc cho mọi người.
3. Người thông luật hỏi
Chúa Giêsu: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời.” Chúng ta cùng cầu nguyện
cho mọi kitô hữu luôn khao khát cuộc sống vĩnh cửu, biết gắn bó mật thiết với
Chúa Kitô, sống theo lời Người truyền dạy, và ngày càng thêm xác tín Người
chính “là đường, là sự thật và là sự sống.”
4. Chúa Giêsu nói với
người thông luật “Ông cũng hãy đi và làm như vậy.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho
mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết tích cực dấn thân trong các hoạt động
tông đồ bác ái, luôn nhạy bén trước nhu cầu của người chung quanh và có nhiều
sáng kiến để chia sẻ giúp đỡ họ.
Chủ tế: Lạy
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và
xin ban Thánh Thần, để Ngài khơi lên ngọn lửa kính Chúa yêu người trong lòng
chúng con, giúp chúng con luôn trung thành tuân giữ mọi điều răn của Chúa.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
SCĐ Chúa Nhật XV TN
C
Chủ đề :
Luật trong lòng
Người Samaria
nhân hậu (Lc 10,25-37)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (Đnl
30,10-14) : Luật quan trọng nhất của Thiên Chúa là luật ghi khắc trong
lòng mỗi người.
– Tin Mừng (Lc 10,25-37) :
Người Samaria tốt lành đã hành động theo luật yêu thương xuất phát cách hân
thành từ tấm lòng của anh.
I. Dẫn vào
Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Hôm nay chúng ta sẽ
nghe dụ ngôn về người Samaria nhân hậu. Qua hình ảnh người Samaria này, Chúa muốn
chúng ta hãy quân tâm giúp đỡ chăm sóc người khác. Còn thầy tư tế và thầy lêvi
thì xem ra chẳng làm gì nên tội, nhưng thực ra tội của họ chính là tội thiếu
sót : họ đã không làm điều lẽ ra họ phải làm.
Trước khi cùng nhau
dâng Thánh lễ, chúng ta hãy xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, những tội
trong lời nói, việc làm và cả những tội thiếu sót.
II. Gợi ý sám
hối
– Chúng ta rất ít quan
tâm đến người khác.
– Nhiều việc lành
chúng ta có thể làm nhưng chúng ta đã bỏ qua không làm.
– Chúng ta thường thờ ơ
dửng dưng trước những người nghèo khổ bệnh tật.
III. Lời Chúa
1.
Bài đọc I (Đnl 30,10-14)
Để khuyến khích dân do
thái thực thi những lệnh truyền của Thiên Chúa, ông Môsê lưu ý họ rằng :
Những lệnh truyền của Thiên Chúa không quá khó khăn cũng không vượt quá sức con
người, nhưng có thể thực hiện được vì chúng không ở trên trời hay ở bên kia biển
cả mà ở sát bên con người, nơi miệng con người và trong lòng con người.
2.
Đáp ca (Tv 68)
Tv này là lời kêu xin
của người đang gặp cảnh khổ, mong được Thiên Chúa cứu giúp.
Những lời này có thể
áp dụng cho nạn nhân trong bài Tin Mừng bị kẻ cướp hành hạ đến nửa sống nửa chết
và bỏ nằm trên đường.
3.
Tin Mừng (Lc 10,25-37)
4.
“Ai là người thân cận
của tôi ?” Câu hỏi này của vị Luật sĩ phản ảnh phần nào chiều hướng suy
nghĩ của ông :
– Ông muốn tìm một câu
định nghĩa về “người thân cận”. Người do thái thời đó hiểu “người thân cận” chỉ
là những đồng bào do thái với mình.
– Ông muốn nghe một
câu trả lời có tính lý thuyết.
2.
Dụ ngôn người Samari
phản ảnh chiều hướng suy nghĩ của Chúa Giêsu :
– Định nghĩa về “người
thân cận” không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận (câu 37)
– Người thân cận là bất
cứ ai (không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, quan điểm…). Hình như hai nhân vật
chính trong dụ ngôn này một người là do thái một người là Samari.
– Thay vì tìm hiểu ai
là người thân cận, tốt hơn nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những kẻ
đang cần mình giúp đỡ (câu 36)
4.
Bài đọc II (Cl 1,15-20) (Chủ đề phụ)
Tín hữu Côlossê tuy đã
tin vào Chúa Giêsu Kitô nhưng chưa an tâm, một mặt họ vẫn giữ lại những tập tục
do thái giáo (như cắt bì, giữ luật ngày Sabát…), mặt khác họ tin thêm một số thần
khác, làm thêm một số việc mê tín dị đoan. Họ nghĩ rằng như thế thì “chắc ăn”
hơn.
Để bài trừ cách sống đạo
“thập cẩm” này, thánh Phaolô đề cao vai trò tối thượng duy nhất của Chúa
Giêsu :
– Ngài là hình ảnh hữu
hình của Thiên Chúa vô hình
– Ngài là trưởng tử mọi
thọ tạo
– Mọi thọ tạo đều được
tạo thành trong Ngài
– Ngài còn là đầu của
Hội Thánh
– Thiên Chúa đã đặt tất
cả mọi sự viên mãn trong Ngài
Tóm lại, Chúa Giêsu
Kitô là Đấng cứu độ duy nhất. Bởi vậy, muốn được cứu độ thì chỉ cần tin vào một
mình Chúa Giêsu Kitô, không cần nhờ bất cứ tôn giáo hay thần thánh nào khác.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Các
vai trong dụ ngôn
Thầy tư tế và thầy
Lêvi là những người chỉ quan tâm đến bản thân mình : khi gặp một tình huống
đặc biệt, họ nghĩ đến bản thân họ trước (không dừng lại chăm sóc người bị nạn
vì sợ trễ giờ, vì sợ ô uế nếu đụng vào xác chết).
Người Samaria là người
biết nghĩ đến người khác : khi gặp người bị nạn, anh chỉ biết tìm cách
giúp đỡ nạn nhân, không ngại mất giờ, mất công và mất tiền.
Thầy tư tế và thầy
lêvi chú ý giữ luật ghi trên sách vở (luật quy định về thanh sạch và ô uế) ;
Người Samaria giữ luật trong tim (luật yêu thương)
Thầy tư tế và thấy lêvi
không phạm tội nào về lời nói hay việc làm, nhưng phạm tội thiếu sót vì đã bỏ
qua không làm điều mình phải làm.
* 2. Người
chăm sóc
Người Samaria là một
người chăm sóc (carer)
Loại người này rất hiếm
thấy trong xã hội, vì trong xã hội ai nấy chỉ biết lo cho mình, ít ai để ý chăm
sóc người khác, nhất là chăm sóc những người xa lạ không có quan hệ gì tới
mình.
Nhưng loại người này rất
hữu ích cho xã hội. Bằng những việc chăm sóc âm thầm, nhỏ bé, họ chính là muối
và men làm cho xã hội bớt đau khổ, bớt xấu xa và thêm tốt đẹp.
Khi đề cao người
Samaria, Chúa Giêsu muốn chúng ta cũng phải là những người chăm sóc. Con đường
Giêrusalem tới Giêricô chính là đường đời, trên đó không thiếu những người bất
hạnh cần được chăm sóc. Mỗi người cũng được Chúa ban có nhiều khả năng chăm
sóc : một lời an ủi động viên, một cử chỉ thân ái, một giúp đỡ thiết thực
chính là chút rượu và chút dầu xoa dịu những thương đau cho người anh em mình
đang gặp đau khổ. (FM)
* 3. Lòng tốt
tự phát
Có nhiều người làm một
việc tốt cách hết sức tự nhiên và dễ dàng. Đó là những người mà luật yêu thương
đã ăn sâu vào con tim mình, đã trở thành máu thịt và hơi thở của mình.
Người Samaria trong dụ
ngôn này là một người như thế : khi gặp một nạn nhân trên đường, anh không
cần suy nghĩ gì cả mà tự nhiên xuống lừa, cúi xuống lấy dầu và rượu xoa dịu những
vết thương của nạn nhân, rồi chở nạn nhân đến quán trọ, bỏ tiền ra nhờ chủ quán
tiếp tục lo cho nạn nhân.
Khác hẳn với Thầy tư tế
và thầy Lêvi : hai người này cũng thấy cảnh đó, nhưng đắn đo suy tính thiệt
hơn. Và sau khi suy tính, họ chọn giải pháp “đi qua”. Họ thuộc luật rất nhiều đấy,
nhưng luật chưa ăn sâu vào tim và chưa trở thành máu thịt và hơi thở của họ.
Làm thế nào để có lòng
tốt tự phát như người Samaria ? Việc này không phải muốn là được, không phải
chỉ cố gắng tập một lần mà có, mà là kết quả của việc thực thi những việc tốt
nho nhỏ cách đều đặn và kiên trì. Một hành động tốt cao cả là thành quả của nhiều
hành động tốt nho nhỏ đã quen làm trước đó. Phần thưởng đích thực của một hành
động tốt là nó giúp ta có thể làm thêm những hành động tốt khác một cách dễ
dàng hơn.
* 4. Yêu rồi
làm
Một vị ẩn sĩ sống
trong một khu rừng luôn bị một cô gái làng chơi đến cám dỗ. Ngạc nhiên trước sự
thanh thản của vị tu hành, nhưng đồng thời cũng nghi ngờ sự bất bình thường của
người đàn ông, cô liền hỏi một câu chế nhạo :
– Thầy không biết yêu
sao ?
Vị ẩn sĩ trả lời :
– Chưa đến giờ đó
thôi ?
Câu chuyện bỏ lửng tại
đó. Một lần kia, trong lúc đi khất thực, vị tu hành phát hiện người con gái hay
đến phá phách mình đó bị bọn cướp trấn lột và đánh cho thừa sống thiếu chết bên
lề đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cô ta, chữa các vết thương và đưa cô về
thành phố điều trị.
Cô gái sững sờ nhìn vị
ân nhân mà chưa biết mở lời ra sao, thì vị ẩn sĩ mỉm cười nói :
– Đã đến giờ rồi đấy,
giờ của lòng thương xót !
Người thông luật trong
bài Tin Mừng hôm nay hỏi Chúa Giêsu : “Ai là người thân cận của
tôi ?” Thay vì trả lời, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người Samari tốt
lành : Một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh
nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Trong khi hai thầy
tư tế và Lê vi “tránh qua bên kia mà đi”, thì người Samari ngoại
đạo lại dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc.
Chúa Giêsu hỏi lại người
thông luật : “Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp ?”. Hỏi tức là
trả lời. Và người thông luật đáp : “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương
xót”. Chúa Giêsu bảo : “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10,37).
Vị ẩn sĩ trong câu
chuyện trên đây và người Samari nhân hậu đã sống luật yêu thương một cách tuyệt
vời, đó là “yêu bằng việc làm”. Yêu không chỉ trên đầu môi
chót lưỡi, rồi phủi tay không làm gì cả, mà yêu chính là “miệng nói tay
làm”, làm thực sự với hết khả năng của mình. Những việc làm cụ thể thường
hùng hồn hơn những lời nói suông. Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến
đôi tay. Chúa Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó : “Hãy đi và
làm như vậy”. Pascal đã nói : “Khuyết tật lớn nhất của một
người là phục vụ quá ít cho những kẻ họ yêu thương”.
Sở dĩ người ta không
dám làm một cái gì đó cho những người anh em, là vì họ không có can đảm vượt
qua nỗi sợ.
Sở dĩ thầy tư tế và thầy
Lê vi “tránh qua bên kia mà đi” là vì các thầy sợ ô uế khi đụng
vào xác chết, sợ bọn cướp còn ẩn nấp đâu đây, sợ rắc rối phiền hà đến bản thân.
Sở dĩ chúng ta không
dám làm một cái gì đó cho người anh em khi họ cần giúp đỡ, là vì chúng ta sợ phải
thiệt thòi, sợ tốn công sức, sợ mất thời gian, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự
an toàn, tiện nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân ! Thầy tư tế và
thầy Lêvi đã tự hỏi : “Điều gì sẽ xảy ra cho tôi, nếu tôi dừng lại và
săn sóc người anh em bị đánh nhừ tử ?”. Trái lại, người Samari đã
đảo ngược câu hỏi : “Điều gì sẽ xảy ra cho người anh em bị đánh nhừ
tử, nếu tôi không dừng lại và chăm sóc người ấy ?”Người Samari tốt
lành đã xả thân vào một hành động vị tha đầy nguy hiểm.
Yêu thương không phải
là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân. Yêu thương là hy sinh, là
quên mình, là hiến thân phục vụ tha nhân : Kahil Gibram có một câu nói chí
tình : “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho
đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”. Càng đi tìm bản thân, con người
càng đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, con người
càng chết dần mòn trong nỗi cô đơn. Càng muốn được yên thân, con người càng
vong thân.
Nỗi khát khao hạnh
phúc của con người chỉ có thể được lấp đầy khi họ biết đến gần, cúi xuống phục
vụ tha nhân.
Con người chỉ thành đạt
thực sự, con người chỉ thục sự là người khi họ dám sống chết cho anh em.
Người tín hữu Kitô chỉ
thực sự là con Chúa khi họ dám tiêu hao vì người khác. Mẹ Têrêsa Calcutta
nói : “Ki tô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.
Yêu rồi làm. Khi đã
yêu rồi chúng ta sẽ biết phải làm gì cho người anh em. Khi đã yêu rồi chúng ta
sẽ có sáng kiến để xả thân vì mọi người, nhất là những người nghèo hèn đau khổ.
Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết cách làm cho kẻ xa lạ nên người thân cận, kẻ
thù địch nên người bạn tốt, chỉ cần chúng ta dám đừng lại, đến gần và cúi xuống
trước anh em.
Lạy Chúa cuộc sống
đạo của chúng con sẽ trở nên phù phiếm nếu cái cốt lõi của đạo là yêu thương chỉ
là điều phụ thuộc.
Xin đừng để chúng
con loay hoay với những tính toán ích kỷ ; chai đá, dửng dưng trước những
khổ đau của anh em. Nhưng xin dạy chúng con biết chạnh lòng xót thương và giúp
đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen (TP)
5.
Chuyện minh họa
a/ Lòng hiếu khách
tự nhiên
Alaska là một vùng đất
đẹp thu hút nhiều du khách, nhưng cũng là một vùng rộng lớn thưa dân.
Ngày kia, một du khách
lái xe đi thăm các thắng cảnh thiên nhiên. Quá mãi mê ngắm cảnh, xe của ông lạc
vào một vùng hoang vu. Rủi thay chính lúc đó xe ông bị hư. Sau một hồi lâu tìm
kiếm, ông may mắn gặp được một nông trại và xin ông chủ nông trại ấy giúp sửa
dùm chiếc xe. Người chủ nông trại nhanh nhẹn lấy đồ nghề ra. Nửa giờ sau xe chạy
được. Người du khách móc ví tiền ra, hỏi :
– Tôi phải trả công
cho ông bao nhiêu ?
– Thôi, khỏi phải trả
chi cả.
– Nhưng tôi thấy có bổn
phận trả lại cho ông điều ông đã làm cho tôi.
– Thì ông đã trả rồi
đó.
– Xin lỗi, tôi chưa hiểu
ông muốn nói gì ?
– Ở nơi hoang vu này,
tôi rất cô đơn nên cần có bạn. Ông đã cho tôi có dịp làm bạn với ông suốt một
giờ đồng hồ vừa qua.
b/ Bản năng giúp
người khác
Larry Skutnik là một
người có tính nhút nhát làm việc cho một công sở ở Washington. Chiều ngày 13
tháng giêng năm 1982, một trận bão tuyết rất lớn đổ xuống thành phố này. Xe anh
đang trên đường về nhà thì bị kẹt trên cầu bắt qua sông Potomac. Lý do là có một
chiếc máy bay chở 79 người đã đâm đầu xuống sông. Anh bước khỏi xe để quan sát
và thấy có 3 người đang bám vào đuôi chiếc máy bay đang chìm dần xuống nước. Một
chiếc trực thăng đã đến kịp. 3 người ấy leo lên trực thăng. Nhưng chỉ 2 người
bám dính, còn người thứ ba, một phụ nữ, vuột tay rơi trở lại xuống nước.
Không chút ngần ngại,
Larry Skutnik nhảy tòm xuống sông, lặn xuống dòng nước lạnh cóng để tìm kiếm nạn
nhân. Một lúc sau anh đã tìm được và đưa bà này lên bờ.
Tất cả những diễn tiến
của cảnh đó đều được thu hình và sau đó được đưa lên truyền hình. Mọi người đều
ca ngợi anh là một vị anh hùng. Sáng hôm sau, một phóng viên tới phỏng vấn :
– Do đâu mà anh đã làm
được một hành động anh hùng như thế ?
– Quả thực hai chữ
“anh hùng” làm tôi xấu hổ quá. Tôi đâu có cố gắng gì đâu, chỉ là phản xạ tự
nhiên thôi.
Anh hùng thật là người
làm hành động anh hùng một cách tự nhiên như phản xạ. Người tốt thật là người
làm việc tốt một cách rất tự nhiên.
V. Lời nguyện
cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, đạo Chúa Kitô là đạo tình
thương, chỉ dùng tình thương mà cảm hóa và chinh phục người khác. Với quyết tâm
sống trọn vẹn đức bác ái yêu thương Chúa đã dạy, chúng ta cùng dâng lời cầu
xin :
1.
Hội thánh là dấu
chỉ tình thương của Chúa đối với nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho
mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / biết luôn chân thành yêu
thương / và tôn trọng hết thảy mọi người.
2.
Trên thế giới
ngày nay / chiến tranh và khủng bố / hận thù và bạo lực / vẫn
còn đang hoành hành ở nhiều nơi / gây ra tang tóc và đau khổ cho biết bao
gia đình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho đức bác ái của Chúa Kitô tác động
đến mọi suy nghĩ / lời nói và việc làm của con người hôm nay.
3.
Trong đời sống
thường ngày / có một số người ngại phiền phức / sợ cực nhọc khi phải
giúp đỡ người khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi người Kitô hữu
biết sống quảng đại / và sẵn sàng trợ giúp những ai đang lâm cảnh gian
truân khốn khó.
4.
Sống bác ái là
chu toàn cả Lề Luật của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn
giáo xứ chúng ta / biết rộng rãi chia sẻ cơm áo cho những ai đói rách bần
cùng.
Chủ tế : Lạy Chúa, đức tin đòi buộc chúng con phải sống đức
ái. Vậy xin Chúa thương ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống trọn vẹn niềm
tin của mình. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy
Cha : Chúa Giêsu đã kêu mời chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ nhau như
những anh em cùng một Cha. Vậy chúng ta hãy cùng Ngài dâng lên Chúa Cha lời
kinh say đây :
– Sau kinh Lạy
Cha : “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là
lối sống thờ ơ ích kỷ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống
được bình an…
VII. Giải tán
Sau khi kể cho người
thông luật nghe dụ ngôn về người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu đã bảo người
đó : “Anh cũng hãy đi và làm như vậy”. Trong Thánh lễ này, Chúa Giêsu cũng
kể lại cho chúng ta nghe dụ ngôn ấy. Giờ đây Thánh lễ đã xong, Ngài cũng bảo
chúng ta : “Chúng con hãy đi và làm như vậy”. Chúc anh chị em ra về bình
an.
Bài đọc thêm
* Được trích đọc
trong bài đọc II từ Chúa nhật thứ 15 đến Chúa nhật thứ 18.
1.
Côlôxê là một thành
phố cách Êphêxô khoảng 160 km về phía Đông. Gần đó còn có hai thành Laođixê và
Hiêrapolis. 3 thành này có nhiều liên hệ với nhau (x. Cl 4,15-16)
2.
Giáo đoàn Côlôxê
không phải do Phaolô thành lập nhưng do một môn đệ của Phaolô tên là Epaphras
người gốc Côlôxê (x. Cl 4,12). Cũng như hầu hết các giáo đoàn khác, giáo đoàn
Côlôxê gồm phần đông là người lương tòng giáo và một phần nhỏ người do thái
tòng giáo.
Như ta đã biết, giáo
đoàn Côlôxê do Epaphras một môn đệ của Phaolô thành lập. Đang khi Phaolô bị cầm
tù (lần này ở Rôma) thì trong giáo đoàn có chuyện khó khăn, không phải do tranh
chấp nội bộ mà là khó khăn về giáo lý. Epaphras tới Rôma thăm Phaolô và trình
bày khó khăn ấy. Dù tín hữu Côlôxê chưa biết mặt Phaolô, cùng lắm chỉ mới nghe
tên (x. Cl 2,1 & 1,4.9), nhưng với tâm hồn nhiệt thành của một vị tông đồ,
Phaolô ý thức ngay mối nguy hiểm đang đe dọa đức tin tinh tuyền của giáo đoàn
nên liền viết thư này. Bởi chưa quen biết với giáo đoàn nên Phaolô không gởi
thư suông mà muốn có người tới tận giáo đoàn để giải thích bức thư. Nhưng bản
thân Phaolô đang ngồi tù không đi được nên ông phái 2 môn đệ thân tín đi, là
Tychique (4,7) và Onésisme (4,9).
Thời điểm và địa điểm
viết thư : khoảng 61-63 tại Rôma
1.
Từ hồi giáo đoàn mới
thành lập, tín hữu Côlôxê đã tin vào Đức Kitô như là nguyên nhân cứu độ duy nhất.
Nhưng do ảnh hưởng của người do thái và người ngoại, dần dà họ hồ nghi niềm tin
của mình : họ nghĩ rằng chỉ tin vào Đức Kitô thì e chưa đủ nên cần phải
tin và làm thêm một số điều nữa cho chắc ăn. Những điều thêm vào này họ lấy từ
nhiều phía :
– một phần từ đạo do
thái : cắt bì, luật Môsê…
– một phần từ tín ngưỡng
của dân ngoại : thờ tinh tú, coi lịch xem ngày…
– một phần từ những ý
tưởng manh nha mà sau này sẽ thành thuyết Tiền-ngộ-đạo : khinh chê xác thịt,
kiêng cữ ăn uống…
Nếu muốn dùng một thuật
ngữ để tóm tắt cái khó khăn giáo lý của Côlôxê lúc ấy, ta có thể dùng chữ “Đạo
thập cẩm”, tương tự như Đạo Cao Đài bên ta tổng hợp tín ngưỡng của nhiều đạo
khác lại thành Đại Đạo.
2.
Niềm tin thập cẩm
này đĩ nhiên chứng tỏ thiếu tin vào Đức Kitô. Chính đây là điểm khiến Phaolô lo
lắng. Vì vậy trong thư này ông hết sức thuyết phục tín hữu hãy đặt trọn vẹn niềm
tin vào Đức Kitô, Đấng là “tất cả trong tất cả”.
1.
Địa vị tối thượng
của Đức Kitô : 1,13-23
Phaolô trình bày địa vị
tối thượng của Đức Kitô bằng 1 thánh thi gồm 2 phần :
a/ Đức Kitô tối thượng
trong công trình tạo dựng (cc 15-17)
– Ngài là hình
ảnh của Thiên Chúa vô hình : tất cả mọi triết thuyết thời đó đều
nhìn nhận có một nguyên lý tối cao là Thượng đế ; Thượng đế tỏ mình ra bằng
hình ảnh của ngài. Nhưng vấn đề là hình ảnh đó là gì. Platon bảo đó là vũ trụ,
Philon bảo đó là Logos, còn Phaolô quả quyết đó là Đức Giêsu Kitô.
– Ngài là Con
Trưởng của mọi loài thụ tạo ie Ngài lớn hơn hết, hiện hữu trước hết và
có quyền trên hết mọi thụ tạo.
– Do Ngài mà mọi
loài đã được dựng nên gồm cả những loài hữu hình và vô hình và cả những
“thần”. Phaolô nói “thần” là tạm xử dụng ngôn ngữ của dân ngoại để chứng minh rằng
ngay cả những “thần” ấy cũng thấp hơn Đức Giêsu Kitô.
* Tóm lại, Đức Kitô có
trước tất cả và ở trên tất cả mọi loài.
b/ Đức Kitô tối thượng trong công trình cứu độ (cc 18-20)
– Ngài là cội nguồn mọi ơn.
– Vì ý của Thiên Chúa đã muốn rằng nơi Ngài chứa toàn viên mãn
– Nhờ Ngài mà mọi loài được hòa giải với Thiên Chúa.
– Hơn nữa máu Ngài đổ ra đã tạo nên bình an dưới thế và trên
trời.
2.
Bài bác những sai
lầm : 1,24-3,4
2,03 :
“Đức Kitô giấu nơi mình mọi kho tàng khôn ngoan
thông thái”. Vậy đừng tốn công vô ích tìm kiếm 1 thứ khôn ngoan nào
khác (bài bác thuyết Tiền ngộ đạo)
2,08 “Chớ
để ai bắt làm mồi ngon cho họ do cái tròng triết lý hư
không” : một khi đã được soi sáng bởi Đức Kitô mà còn quay trở lại với
các thứ triết lý người phàm khác thì cũng như bị rơi vào tròng nô lệ (bài bác mọi
nguồn khôn ngoan thế phàm)
2,11t Cũng chẳng cần
phải nhờ tới phép cắt bì do thái, vì tín hữu đã có một phép cắt bì mới hoàn hảo
hơn nhiều, tức là cắt bì trong Đức Kitô, nghĩa là Phép Thanh Tẩy (bài bác do
thái giáo)
2,14 “Hủy
tờ cáo trạng gồm các lệnh truyền” : Phaolô ám chỉ các lề luật do thái.
Chúng cũng đã nên vô ích (bài bác do thái giáo)
2,15 Lột chức
các “thần” : chẳng có thần thánh nào bằng Đức Kitô (bài bác đa thần)
2,16 Tín hữu chớ
nên áy náy rồi lo kiêng ăn uống, xem trăng, xem ngày (bài bác những mê tín của
dân ngoại)
2,17 Đừng thờ
cúng các tinh tú mà người ta coi là thiên thần (bài bác mê tín)
2,23 Chống lại
thuyết Tiền ngô đạo : họ nói là coi khinh xác thịt nhưng thực ra vịn lẽ
xác thịt chẳng ăn nhằm gì cho nên cứ sống lăng loàn.
3.
Cuộc sống của
kitô hữu
Sau khi trình bày Đức
Kitô như là Đấng Tối Thượng trong công trình tạo dựng và công trình cứu chuộc,
Phaolô dạy các tín hữu một cách sống : đó là quy chiếu tất cả vào Đức
Kitô, không cần cậy dựa vào bất cứ thứ gì khác, bời vì “Đức Kitô là tất
cả và nơi tất cả mọi người” (3,11)
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina:
Chúa Nhật XV Thường Niên (C)
Sunday 14 July, 2019
Dụ ngôn người
Samaria nhân lành
Ai là anh em của
tôi?
Lc 10:25-37
1. Bài Đọc
a) Lời nguyện mở đầu:
Lời nguyện của Chân
Phước Giorgio Preca trong quyển Đền Thờ Thần Khí Chúa Kitô (Il Sacrario
dello spirito di Cristo)
Lạy Chúa là Thiên
Chúa, Chúa đang hiện diện ở đây và con đang ở trong Chúa:
Xin hãy ban cho con sự
khôn ngoan để con biết được Thần Khí Chúa.
Lạy Chúa là Thiên
Chúa, Chúa đang hiện diện ở đây và con đang ở trong Chúa:
Xin hãy ban cho con ân
sủng Thần Khí của Chúa, Chúa Giêsu Kitô của con.
Lạy Chúa là Thiên
Chúa, Chúa đang hiện diện ở đây và con đang ở trong Chúa:
Xin hãy hướng dẫn con
trên mọi nẻo đường với ánh sáng của Chúa
Lạy Chúa là Thiên
Chúa, Chúa đang hiện diện ở đây và con đang ở trong Chúa:
Xin hãy dạy con biết
thực thi thánh ý Chúa trong mọi lúc.
Lạy Chúa là Thiên
Chúa, Chúa đang hiện diện ở đây và con đang ở trong Chúa:
Xin hãy đừng để con lạc
xa Thần Khí Chúa, Thần Khí của tình yêu.
Lạy Chúa là Thiên
Chúa, Chúa đang hiện diện ở đây và con đang ở trong Chúa:
Xin đừng lìa xa con
khi con yếu đuối sa ngã.
b) Tin Mừng
25 Khi ấy, có một người thông luật đứng dậy hỏi thử
Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?”
26 Người nói với ông: “Trong Lề Luật đã chép
như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?” 27 Ông
trả lời: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết
linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi; và hãy thương yêu anh em như chính
mình.” 28 Chúa Giêsu nói: “Ông đã trả lời
đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống.”
29 Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng
Chúa Giêsu rằng: “Nhưng ai là anh em của tôi?” 30 Chúa
Giêsu nói tiếp: “Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi
vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa
sống nửa chết. 31 Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường
đó; trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua phía bên kia đường. 32 Cũng
vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. 33 Nhưng
một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng
thương. 34 Người đó lại gần và băng bó những vết
thương, xức dầu và rượu; rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn
sóc. 35 Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho
chủ quán và bảo rằng: “Ông hãy săn sóc người ấy, ngoài ra, còn tổn
phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông.” 36 Theo
ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị bỏ rơi vào tay bọn cướp?” 37 Người
thông luật trả lời: “Kẻ đã tỏ lòng thương xót người ấy.” Và
Chúa Giêsu bảo ông: “Ông cũng hãy đi và làm như vậy.”
c) Giây phút
thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa có thể thấm
nhập vào tâm hồn chúng ta và soi sáng đời sống chúng ta
2. Suy niệm
a) Chìa khóa dẫn
đến bài đọc:
Đây là chương 10 của
Phúc Âm theo thánh Luca. Đây là phần trọng tâm của sách Tin Mừng
Luca và phần này dõi bước theo cuộc hành trình của Chúa Giêsu đi về
Giêrusalem: “Vì gần tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người
cương quyết lên đường đi Giêrusalem” (Lc 9:51). Chúng ta biết rằng đối
với Luca, Giêrusalem là thành phố nơi sẽ diễn ra ơn cứu độ, và cuộc hành trình
của Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem tạo nên chủ đề chính. Câu chuyện của
Luca bắt đầu tại thành thánh Giêrusalem (Lc 1:5) và cũng kết thúc tại cùng
thành này (Lc 24:52). Trong đoạn giữa của sách Tin Mừng, Luca sẽ
liên tục nhấn mạnh vào sự kiện rằng Chúa Giêsu sẽ đi về Giêrusalem (ví dụ trong
các câu Lc 13:22; 17:11). Đoạn Tin Mừng này kể về dụ ngôn người
Samaritanô nhân hậu trong bối cảnh của một cuộc đối thoại của Chúa với một nhà
thông luật liên quan đến điều răn lớn nhất, người ta lại tìm thấy chủ đề về một
cuộc hành trình, lần này từ Giêrusalem đến Giêricô (LC 10:30). Dụ
ngôn là một phần của đoạn giữa của sách Tin Mừng bắt đầu với Chúa Giêsu, một
khách hành hương cùng với các môn đệ của Người trên đường tới
Giêrusalem. Người sai các ông đi trước để dọn đường cho Người nghỉ
chân ở một ngôi làng Samaria và ở đó các ông chỉ gặp thấy sự thù nghịch chính
vì các ông đang trên đường đi đến Giêrusalem (Lc 9:51-53). Người
Samaria đã tránh né các khách hành hương trên đường đến Giêrusalem và thường tỏ
ra không thân thiện với họ. “Sau đó Chúa chọn thêm bảy mươi hai người
nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, vào tất cả các thành và
những nơi mà chính Người sẽ tới” (Lc 10:1). Bảy mươi hai là con số
truyền thống của các quốc gia dân ngoại.
Hãy nhớ rằng tất cả
các biểu tượng liên hệ tới Giêrusalem, thành thánh của sự cứu rỗi, các vị Tổ Phụ
của Giáo Hội (thánh Ambrose, Âugústinô, Giêrômê, và các thánh khác) giải thích
bài dụ ngôn này theo một cách cụ thể. Trong nhân vật người đàn ông
đi từ Giêrusalem đến thành Giêricô, họ nhìn thấy ông Adong, người đại diện cho
toàn thể nhân loại đã bị khai trừ khỏi Eden, vườn địa đàng, bởi vì tội lỗi. Các
vị Tổ Phụ Giáo Hội quan niệm các tên trộm như là sự cám dỗ đã dùng các mưu chước
của chúng để đưa chúng ta rời xa tình bằng hữu của Thiên Chúa và chúng đã cầm
buộc chúng ta thành những tên nô lệ trong bản chất loài người của chúng ta đã bị
tổn thương vì tội lỗi. Trong nhân vật thầy tư tế và thầy trợ tế
Lêvi, các Tổ Phụ cho là sự thiếu sót của lề luật cũ cho ơn cứu rỗi của chúng ta
sẽ được hoàn thành bởi người Samaria Nhân Lành của chúng ta, đó là Chúa Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta và là Đấng Cứu Chuộc, Người đã rời khỏi thiên đàng
Giêrusalem, đến để cứu giúp tình trạng tội lỗi của chúng ta và chữa lành chúng
ta với dầu của ân sủng và rượu của Thần Khí. Trong quán trọ, các vị
Tổ Phụ quan niệm hình ảnh của Giáo Hội trong nhân vật chủ quán, các ông nhận ra
bàn tay các vị chủ chăn đã được Chúa Giêsu ủy thác để chăm sóc cho dân Người. Việc
rời khỏi quán trọ của người Samaria được quan niệm bởi các thánh Tổ Phụ như sự
phục sinh và sự vinh hiển về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha của Chúa Giêsu,
nhưng Người hứa sẽ trở lại để phán xét công trạng mỗi người. Sau đó,
Chúa Giêsu để lại hai quan tiền cho Giáo Hội để dùng vào sự cứu rỗi của chúng
ta, hai quan tiền đó là quyển Kinh Thánh và các Bí Tích giúp chúng ta trên con
đường nên thánh.
Lời giải thích bí ẩn
và bóng bảy này của đoạn Tin Mừng giúp chúng ta chấp nhận một cách sâu sắc
thông điệp của dụ ngôn này. Bài dụ ngôn bắt đầu với cuộc đối thoại
giữa một nhà thông luật đứng lên thử thách Chúa bằng câu hỏi: “Thưa
Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” (Lc 10:25). Chúa
Giêsu trả lời với một câu hỏi khác: “Trong Lề Luật đã chép như thế
nào? Ông đọc thấy gì trong đó?” (Lc
10:26). Chúng ta phải quan niệm cuộc đối thoại này như là một cuộc đối
đầu giữa hai bậc thầy, một điều rất phổ biến trong những ngày ấy như là một
phương cách để làm sáng tỏ và đào sâu thêm về những quan điểm lề luật. Phong
thái cuộc tranh luận miêu tả ở đây thì khác hơn so với trong Tin Mừng của Máccô
nơi câu hỏi được đặt ra bởi một người Kinh Sư, kẻ “đã lắng nghe họ tranh luận
(Chúa Giêsu và nhóm Sađốc), và đã quan sát Chúa Giêsu trả lời họ như thế nào”
(Mc 12:28), rồi sau đó đặt câu hỏi với Chúa Giêsu. Người Kinh Sư này
đã chú tâm lắng nghe Chúa Giêsu, đến nỗi Đức Giêsu đã kết thúc cuộc đối thoại với
câu: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu” (Mc
12:34). Tuy nhiên, thánh sử Mátthêu đặt câu hỏi này trong bối cảnh của
một cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và nhóm Sađốc với sự hiện diện của những
người Biệt Phái khi họ “nghe nói rằng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc
câm miệng, thì họp nhau lại, đoạn một người trong bọn họ đặt một câu hỏi …” (Mt
22:34-35). Chúa Giêsu đưa ra một câu trả lời ngay lập tức trích dẫn
giới răn yêu thương được tìm thấy trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi.
Chỉ trong Tin Mừng của
Luca thì câu hỏi không phải về điều răn lớn nhất nhưng về làm cách nào để được
hưởng sự sống đời đời, một câu hỏi được nhắc lại lần nữa trong các sách Tin Mừng
Nhất Lãm trên môi của người thanh niên giàu có (Mt 19:16; Mk 10:17; Lc
18:18). Như trong sách Tin Mừng của Máccô, cũng như ở đây, Chúa
Giêsu ca ngợi người thông luật: “Ông đã trả lời đúng… hãy làm như vậy
và ông sẽ được sống” (Lc 10:28). Nhưng người thông luật vẫn chưa hài
lòng với câu trả lời của Chúa Giêsu và muốn “biện minh cho mình” (Lc 10:28) cho
nên đã đặt thêm câu hỏi nữa “nhưng ai là anh em của tôi”! Câu hỏi thứ
hai này giới thiệu và nối kết dụ ngôn sau đây với cuộc đối thoại giữa Chúa
Giêsu và người thông luật. Chúng ta cũng nhận thấy rằng sự bao hàm
giữa câu 26 kết thúc cuộc tranh luận và dẫn chúng ta tới câu chuyện về dụ ngôn
trong câu 37, kết thúc dứt khoát cuộc đối thoại và câu chuyện dụ
ngôn. Trong câu này, Chúa Giêsu nhắc lại cho người thông luật rằng
ông ta đã định nghĩa người anh em là người đã tỏ lòng thương
xót: “Ông cũng hãy đi và làm như vậy”. Câu nói này của
Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về những câu nói tại bữa tiệc ly đã được ghi lại
trong Tin Mừng Gioan, sau khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu kêu gọi các
ông hãy làm theo gương của Người (Ga 13:12-15). Tại bữa tiệc ly,
Chúa Giêsu truyền lại cho các môn đệ giới răn yêu thương được hiểu như sự sẵn
lòng “hy sinh mạng sống mình” vì tình yêu dành cho nhau như Chúa đã yêu thương
chúng ta (Ga 15:12-14).
Giới răn này đi xa hơn
việc tuân giữ lề luật. Thày tư tế và thày trợ tế Lêvi đã tuân giữ lề
luật bằng cách tránh xa người xấu số đã bị bọn cướp đánh bị thương và bỏ cho dở
sống dở chết, để họ không bị ra ô uế (Lv 21:1). Chúa Giêsu đi xa hơn
việc tuân giữ lề luật và Người mong muốn các môn đệ cũng làm giống như Người. “Bằng
lòng yêu thương này anh em dành cho nhau, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn
đệ của Thầy” (Ga 13:35). Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu, chỉ có
lòng thương người thôi thì chưa đủ. Người Kitô hữu được kêu gọi phải
làm hơn thế nữa, đó là họ phải noi theo gương của Chúa Giêsu, như thánh Phaolô
Tông Đồ đã nói: “Chúng ta là những người có tư tưởng của Chúa Kitô”
(1Cr 2:16) “Tình yêu của Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, bởi vì chúng tôi nghĩ rằng:
nếu một người đã chết thay cho mọi người” (2Cr 5:14).
b) Một vài câu hỏi
gợi ý để hướng dẫn việc suy niệm và thực hành của chúng ta:
* Điều gì trong
bài dụ ngôn đã làm bạn cảm động nhất?
* Bạn nghĩ mình
là ai trong câu chuyện?
* Bạn đã có bao
giờ nghĩ về Chúa Giêsu như là người Samaria Nhân Lành chưa?
* Bạn có cảm thấy
có sự cần thiết cho ơn cứu rỗi trong cuộc sống bạn không?
* Bạn có thể
nói với thánh Phaolô Tông Đồ rằng bạn có tư tưởng của Đức Kitô không?
* Điều gì
thúc đẩy bạn yêu mến những người anh em của bạn? Đó có phải là nhu cầu
yêu và được yêu, hay đó có phải là lòng bác ái và tình yêu của Chúa Kitô không?
* Anh em của
bạn là ai?
3. Cầu Nguyện
Thánh Ca –
Thư thứ nhất của Thánh Phêrô 2:21-24
21 Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một
gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. 22 Người không hề
phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. 23 Bị
nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại; chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe;
nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. 24 Tội lỗi
của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một
khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người
phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.
4. Chiêm Niệm
Chiêm niệm là biết làm
thế nào để giữ vững tâm hồn và trí óc cho Thiên Chúa, Đấng mà Lời của Người đã
biến đổi chúng ta thành con người mới luôn tuân theo thánh ý Người.
“Anh em đã biết những
điều này, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!” (Ga
13:17)





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét