15/07/2019
Thứ Hai tuần 15 thường niên
Thánh Bônaventura, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ.
* Chào đời khoảng
năm 1218 ở Ba-nho-rê-gi-ô, tỉnh Vitécbô, Bônaventura theo học triết lý rồi thần
học ở Paris, sau đó dạy các tu sĩ dòng Anh Em Hèn Mọn. Khi được chọn
làm tổng phục vụ, người đã chu toàn nhiệm vụ một cách khôn ngoan, đã soạn
thảo hiến chương nhằm giúp anh em sống luật dòng thánh Phanxicô. Là
một nhà thần học sâu sắc, theo trường phái thánh Augustinô, người nghiên cứu và
giảng dạy lộ trình đưa linh hồn về với Thiên Chúa.
Được đặt làm hồng y
giám mục Anbanô.
Người qua đời năm
1274 giữa lúc Công Đồng Lyon đang họp.
BÀI ĐỌC I: Xh 1, 8-14.
22
“Chúng ta hãy đàn áp Israel, kẻo
nó sinh sản ra nhiều”.
Trích sách Xuất
Hành.
Trong những ngày ấy,
nhà vua mới lên ngôi cai trị nước Ai-cập, ông không biết Giuse, nên nói với dân
chúng rằng: “Kìa, dân tộc con cái Israel nhiều và hùng mạnh hơn chúng ta. Nào,
chúng ta hãy khôn khéo đàn áp chúng, kẻo chúng gia tăng lên nhiều. Và nếu xảy
ra chiến tranh, chúng sẽ tiếp tay quân thù đánh lại chúng ta, rồi rút lui khỏi
xứ chúng ta”.
Vậy vua truyền lệnh
cho các trưởng dịch bắt họ làm việc cực nhọc hơn, bắt họ xây những thành
Phithom và Ramsê làm kho tàng cho Pharaon. Nhưng người ta càng đàn áp họ, thì họ
lại càng sinh sản và bành trướng nhiều hơn. Các người Ai-cập càng ghen ghét con
cái Israel và càng bắt họ làm việc khổ cực hơn. Người ta làm cho đời sống họ
thêm cay cực, bắt họ làm những việc nặng nhọc, nhồi đất, đúc gạch và làm mọi
công việc đồng áng. Bấy giờ vua Pharaon truyền lệnh cho toàn dân của vua rằng:
“Bất cứ con trai (Do-thái) nào mới sinh, thì hãy ném nó xuống sông, chỉ để lại
những trẻ gái mà thôi”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 123, 1-3.
4-6. 7-8
Đáp: Ơn phù trợ
chúng tôi ở nơi danh Chúa (c. 8a).
Xướng:
1) Nếu như Chúa không
che chở chúng tôi – Israel hãy xướng lên – nếu như Chúa không che chở chúng
tôi, khi thiên hạ cùng chúng tôi gây hấn, bấy giờ người ta đã nuốt sống chúng
tôi rồi, khi họ bầng bầng giận dữ chúng tôi. – Đáp.
2) Bấy giờ nước cả đã
lôi cuốn mất, trào lưu đã ngập lút con người chúng tôi; bấy giờ sóng cả kiêu
hùng đã ngập lút chúng tôi! Chúc tụng Chúa vì Người đã không để chúng tôi nên mồi
trao đưa vào răng chúng. – Đáp.
3) Hồn chúng tôi như
cánh chim non thoát khỏi lưới dò của người gài bẫy bắt chim. Lưới dò đã đứt
gãy, và chúng tôi đã thoát thân. Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Đấng
tạo thành trời đất! – Đáp.
ALLELUIA: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia!
– Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự
sống đời đời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 10, 34 –
11, 1
“Thầy không đến để đem hòa
bình, nhưng đem gươm giáo”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình
cho thế gian: Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy
đến để gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ
chồng mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến
cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn
Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào
không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành
mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
Kẻ nào đón tiếp các
con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ
nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của
tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính,
thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người
bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả
thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu”.
Sau khi Chúa Giêsu
truyền dạy xong các điều ấy cho mười hai tông đồ, Người rời khỏi đó để đi dạy dỗ
và rao giảng trong các thành phố của các ông. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Chúa Sẽ Ðền
Bù
Có thể nói, bài Tin Mừng
hôm nay cho hệ quả của bước đường theo Chúa. Theo Chúa, người môn đệ phải chấp
nhận nhiều thua thiệt: họ có thể bị chống đối từ ngoài xã hội đến trong gia
đình, và một cách nào đó, Chúa Giêsu cũng bị xem là nguyên cớ của các tranh chấp,
chống đối. Thật thế, làm sao không có đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa
Chúa Giêsu và thế gian, giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực thế gian. Bước
theo Chúa, người môn đệ phải chọn lựa, và chỉ chọn lựa tình yêu Chúa mới cho họ
xứng đáng được gọi là môn đệ Ngài.
Chắc chắn, khi chọn lựa
như vậy, người môn đệ không tránh khỏi những mất mát, thua thiệt. Tuy nhiên,
Thiên Chúa sẽ không để họ phải thất vọng, Ngài sẽ đền bù vượt quá sự chờ đợi của
họ. "Ðón tiếp một tiên tri, sẽ nhận được phần thưởng dành cho một tiên
tri; đón tiếp người công chính, sẽ nhận được phần thưởng dành cho người công
chính; đón tiếp kẻ rao giảng, sẽ nhận được phần thưởng dành cho kẻ rao giảng".
Người môn đệ của Chúa đừng sợ mất phần thưởng, nhưng hãy sợ mình chưa trung
thành trong bổn phận của mình mà thôi.
Với Thiên Chúa, dù
công khai hay âm thầm, sứ mệnh kẻ rao giảng bao giờ cũng cần thiết. Thiên Chúa
luôn cần đến những người ngày đêm nhiệt thành rao giảng và làm chứng cho Ngài bằng
đời sống hoạt động tông đồ, nhưng Ngài cũng cần đến những người hỗ trợ cho công
việc tông đồ bằng đời sống âm thầm cầu nguyện và hy sinh. Lịch sử chỉ nhớ đến
những vĩ nhân, chứ lịch sử không đủ giấy bút để ghi lại hết những khuôn mặt đã
góp phần vào đời sống của các vĩ nhân. Lịch sử không nhớ, nhưng Thiên Chúa lại
ghi nhớ tất cả, Ngài không bỏ sót một khuôn mặt nào, và phần thưởng của họ cũng
có giá trị như của các vĩ nhân.
Xin Chúa cho chúng ta
biết biểu lộ lòng trung thành với Chúa và Giáo Hội bằng những đóng góp nhỏ bé
trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Dù chỉ là những việc nhỏ bé, âm thầm,
không được ai biết đến, nhưng chúng ta hãy tin rằng chúng vẫn hiện diện và có
giá trị trước mặt Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 15 TN1,
Năm lẻ
Bài đọc: Exo
1:1-14, 22; Mt 10:34-11:1.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sợ sự thật
làm con người chia rẽ.
Trong cuộc đời, đa số
ai cũng muốn hơn người và điều khiển người khác; nên họ rất sợ khi người khác
có địa vị và thành công hơn mình. Thay vì với tinh thần cầu tiến, họ nên tìm hiểu
lý do tại sao người khác thành công để học hỏi; nhiều người lại dùng những mưu
mô, thủ đoạn, và áp lực nhằm hạ bệ và tiêu diệt những người hơn mình.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn
chứng những trường hợp cụ thể tại sao con người bất hòa và chia rẽ. Trong Bài Đọc
I, khi vua Ai-cập nhìn thấy con cái Israel gia tăng dân số, ông cảm thấy bị đe
dọa. Thay vì nên khuyến khích người Ai-cập sinh sản nhiều cho thăng bằng cán
cân dân số, ông lại tìm những thủ đoạn để tiêu diệt con cái Israel: ông bắt họ
phải lao động cực khổ và ngay cả bằng việc giết các trẻ nam mới sinh của
Israel. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ biết họ sẽ gặp chống
đối ngay cả từ nơi gia đình của họ. Lý do là con người không dễ chấp nhận lối sống
theo sự thật mà Đức Kitô đòi hỏi họ phải rao giảng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chia rẽ vì sợ chủng tộc khác hơn mình.
1.1/ Vua Ai-cập kỳ thị chủng
tộc Do-thái: Xưa cũng như nay, các quốc gia
mạnh luôn tìm cách để bách hại các quốc gia yếu thế hơn mình để bắt triều cống
và làm tôi mọi cho họ. Trường hợp Sách Xuất Hành tường thuật hôm nay là một trường
hợp điển hình.
(1) Giòng dõi Jacob
lan tràn khắp xứ Ai-cập: Thiên Chúa truyền con người phải sinh sôi nảy nở cho đầy
mặt đất (Gen 1:28). Người Do-thái sống theo lệnh truyền của Thiên Chúa, họ ăn ở
với nhau và sinh sản con cái rất nhiều. Tổ phụ Jacob có tất cả 12 con. “Sau đây
là tên những con cái Israel đã đến Ai-cập với ông Jacob, mỗi người đem theo gia
đình mình: Reuben, Simeon, Levi và Judah, Issachar, Zebulun và Benjamin, Dan và
Naphtali, Gad và Aser. Giòng giống ông Jacob tính tất cả là bảy mươi người; ông
Giuse thì đang ở bên Ai-cập. Rồi ông Giuse qua đời, cũng như anh em ông và tất
cả thế hệ đó. Con cái Israel sinh sôi nảy nở, nên đông đúc và ngày càng hùng mạnh:
họ lan tràn khắp xứ.”
(2) Nỗi lo sợ của vua
Ai-cập: Giống như đa số con người thời đại, người Ai-cập muốn hạn chế sinh sản,
nhưng lại đâm lo khi thấy người Do-thái sinh sản nhiều hơn mình. Trình thuật kể:
“Thời ấy có một vua mới lên trị vì nước Ai-cập, vua này không biết ông Giuse.
Vua nói với dân mình: “Này đám dân con cái Israel đông đúc và hùng mạnh hơn
chúng ta. Chúng ta hãy dùng những biện pháp khôn ngoan đối với
dân đó, đừng để chúng nên đông đúc, kẻo khi có chiến tranh, chúng hùa với địch
mà đánh lại chúng ta, rồi ra khỏi xứ.”” Vua Ai-cập cũng như phần đông các cha mẹ
thời nay, họ vẫn nghĩ họ có những “biện pháp khôn ngoan” hơn Thiên Chúa: vừa muốn
hạn chế sinh sản, vừa muốn an toàn và cai trị người khác.
1.2/ Các “biện pháp khôn
ngoan” Vua Ai-cập dùng để hành hạ con cái Israel: Để làm giảm dân số Do-thái, vua Ai-cập dùng những thủ đoạn
sau đây:
(1) Hành hạ thể xác:
Vua ra lệnh “đặt lên đầu lên cổ họ những viên đốc công, để hành hạ họ bằng những
việc khổ sai; bắt họ phải xây cho Pharao các thành làm kho lương thực là Pithom
và Ramses. Chúng làm cho đời sống họ ra cay đắng vì phải lao động cực nhọc: phải
trộn hồ làm gạch, phải làm đủ thứ công việc đồng áng; tóm lại, tất cả những việc
lao động cực nhọc, chúng đều cưỡng bách họ làm.” Nhưng chúng càng hành hạ họ,
thì họ càng nên đông đúc và lan tràn, khiến chúng đâm ra sợ con cái Israel.
(2) Tước đoạt quyền sống:
Thấy kế hoạch bắt làm việc khổ cực không làm giảm dân số của người Do-thái, vua
Pharao ra lệnh cho toàn dân của mình: “Mọi con trai Do-thái sinh ra, hãy ném xuống
sông Nile; mọi con gái thì để cho sống.” Nhiều người phê bình Thiên Chúa tại
sao bênh vực dân Do-thái đến độ tàn sát các con đầu lòng Ai-cập và nhận chìm
quân đội của Ai-cập trong Biển Đỏ; nhưng họ đã bỏ qua tội lỗi bất công và tước
đoạt quyền sống của các trẻ Do-thái bởi nhà vua và các đốc công Ai-cập.
2/ Phúc Âm: Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.
Chúa Giêsu nói với các
môn đệ: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải
để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa
con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của
mình chính là người nhà.” Thoạt nghe những lời tuyên bố này, chúng ta không khỏi
lấy làm lạ: Tại sao một Thiên Chúa không đem bình an đến cho con người; lại đến
để đem gươm giáo và gây chia rẽ trong gia đình?
1.1/ Bình an thực sự: Để hiểu những điều Chúa Giêsu nói, chúng ta cần phân biệt
hai thứ bình an:
+ Bình an của con người:
Con người thường hiểu bình an là sự vắng mặt của chiến tranh hay tranh chấp bên
ngoài. Ví dụ: khi quốc gia không có đánh nhau và gia đình không có cãi vã tranh
giành. Thứ bình an này thường chỉ tạm bợ và chờ đợi để bùng nổ một cuộc chiến lớn
hơn và khốc liệt hơn.
+ Bình an của Thiên
Chúa: là bình an đến từ bên trong tâm hồn. Bình an này chỉ có được khi con người
dám đương đầu với và sống theo sự thật. Chính Chúa Giêsu đã phân biệt hai thứ
bình an, khi Ngài nói với các môn đệ: bình an của Thầy sẽ ban cho anh em không
theo kiểu bình an của thế gian ban tặng. Chúng ta có thể cảm nhận được sự bình
an của các môn đệ sau khi Chúa sống lại. Các ông đã nhận ra sự thật: Chúa là Đấng
Thiên Sai của Thiên Chúa gởi tới cho con người. Ngài đã trải qua đau khổ, đã chết,
và đã sống lại. Nhận ra sự thật này làm cho các môn đệ bình an trong tâm hồn; để
rồi các ông có thể đương đầu với những quyền lực của thế gian: roi vọt, bắt bớ,
tù đày; mà vẫn không sợ hãi gì cả. Các ông có thể chấp nhận tất cả và vui lòng
làm chứng cho Đức Kitô.
2.2 Phải sống đúng các mối
liên hệ với Thiên Chúa, với tha nhân, và với thế giới.
+ Mối liên hệ với
Thiên Chúa phải đặt trên mối liên hệ với tha nhân: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy,
thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với
Thầy.” Khi nói những điều này, Thiên Chúa muốn con người phải đặt Thiên Chúa
trên tất cả mọi người và mọi sự. Quyền lợi của Thiên Chúa phải đặt trên các quyền
lợi cá nhân: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy.
Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy,
thì sẽ tìm thấy được.”
+ Mối liên hệ với tha
nhân phải đặt trên mối liên hệ vật chất: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy,
và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” Con người không thể giúp đỡ
lại cho Thiên Chúa, vì Ngài có tất cả. Điều con người có thể làm là giúp đỡ tha
nhân, những con cái của Thiên Chúa. “Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là
ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người
công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành
cho bậc công chính… Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một
chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người
đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta hãy có can
đảm đương đầu với sự thật. Đừng dối trá, quanh co, hay dùng thủ đoạn để bôi lọ,
bắt bớ, hay tiêu diệt những người dám nói và sống cho sự thật.
– Nếu chúng ta biết
khiêm nhường chấp nhận sự thật Thiên Chúa dạy và thay đổi lối sống theo đường lối
Ngài vạch sẵn, chúng ta sẽ bảo đảm được hạnh phúc và bình an cả đời này và đời
sau. Nếu chúng ta cứ ngoan cố trong tư tưởng và đường lối của con người, chúng
ta chắc chắn sẽ phải trả giá; vì chẳng có gì bí mật mà không bị phơi bày ra ánh
sáng.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
15/07/2019 – THỨ HAI TUẦN 15 TN
Th. Bô-na-ven-tu-ra, giám mục, tiến sĩ HT
Mt 10,34-11,1
BÌNH AN CỦA CHÚA
“Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến
không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.” (Mt 10,34)
Suy niệm: “Thầy đến không phải để
đem bình an, nhưng để đem gươm giáo”. Thoạt nghe câu nói này của Chúa Giê-su có
lẽ người ta sẽ bị dội: Đạo gì mà lại đem đến gươm giáo, bạo lực, đạo gì mà lại
gây chia rẽ, hận thù? Đạo như thế chỉ có thể là ‘đạo tặc’! Hẳn là Chúa Giê-su
không dạy người ta như vậy. Trái lại, Ngài dạy chúng ta: “Hãy học với tôi vì
tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Khi sai các môn đệ đi rao giảng
Tin Mừng, Ngài dạy vào nhà nào thì lời đầu tiên phải là lời chúc: “Bình an cho
nhà này” (Lc 10,5). Và chính Chúa khi sống lại hiện đến với các môn đệ, lời đầu
tiên của Ngài cũng là: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19). Hiểu theo nghĩa siêu
nhiên, “gươm giáo” ở đây có ý muốn nói tới sự đối chọi giữa ánh sáng và bóng tối,
sự xung đột giữa Đức Ki-tô với thế gian (x. Ga 1,5-11). Sự xung đột này xảy ra
ngay từ chính nội tâm mỗi người. Khi đón nhận Lời Chúa là ánh sáng, thì lời đó
như “gươm hai lưỡi sắc bén” (x. Dt 4,12), giúp chúng ta phân định để chiến thắng
trong cuộc chiến đấu thiêng liêng chống lại những cuộc tấn công của ba kẻ thù
truyền kiếp là ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Mời Bạn: Bình an trong cuộc chiến đấu
thiêng liêng không phải là đầu hàng vô điều kiện trước những cơn cám dỗ của ma
quỷ, mà là chiến đấu để chiến thắng, nhờ sức mạnh của Thánh Thần.
Sống Lời Chúa: Làm một việc tốt để cầu
nguyện cho thế giới bình an.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin
hãy dẫn dắt con trên con đường của Chúa, để con có thể bước đi trong chân lý của
Ngài. (Thánh Bô-na-ven-tu-ra)
(5 Phút Lời Chúa)
Không xứng với Thầy (15.7.2019 –
Thứ Hai tuần 15 TN)
Suy niệm:
Văn Cao là một nhạc sĩ có tài với bản Tiến Quân Ca bất hủ.
Nhưng ông cũng là một thi sĩ ít được ai biết đến.
Ông có làm một bài thơ ngắn Không Đề như sau:
“Con thuyền đi qua
để lại sóng.
Đoàn tàu đi qua
để lại tiếng.
Đoàn người đi qua
để lại bóng.
Tôi không đi qua tôi
để lại gì?”
Ông muốn để lại chút gì cho đời của kẻ đã mang tiếng ở trong trời đất.
Và ông hiểu rằng mình không thể để lại gì, nếu không vượt qua chính mình.
Cái tôi và tất cả những gì thuộc về nó, đều là đối tượng phải vượt qua.
Vượt qua cái tôi không làm tôi mất nó, nhưng lại được một cái tôi viên
mãn.
Phải chăng đó là điều Văn Cao, một Kitô hữu ẩn danh đến lúc chết,
muốn gửi gấm qua những vần thơ này?
Có những giá trị hầu như được mọi người nhìn nhận.
Có những giá trị thiêng liêng máu mủ như cha mẹ, con cái.
Đặc biệt trong xã hội Do thái, hiếu thảo với cha mẹ là điều được đề cao.
Đức Giêsu cũng đã phê phán thái độ bất hiếu đối với cha mẹ (Mt 15, 3-6).
Mạng sống của con người cũng là một giá trị cao quý.
Đụng đến mạng sống con người là xúc phạm đến chính Thiên Chúa,
như ta thấy trong chuyện Cain giết em là Aben (St 4, 9-10).
Trước những giá trị thiêng liêng như thế, ta cần yêu mến, giữ gìn.
Yêu cha, yêu mẹ, yêu con trai, con gái, là những điều hợp đạo lý.
Giữ gìn mạng sống của mình là điều phải làm.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đưa ra một đòi hỏi mới mẻ và đáng sợ.
Ngài không cấm các môn đệ yêu cha mẹ, con cái, hay mạng sống,
vì đó là những giá trị thiêng liêng cao quý.
Nhưng Ngài không chấp nhận họ yêu những giá trị này hơn Ngài.
Ngài không muốn họ đặt Ngài ở dưới những giá trị đó.
Đơn giản Ngài muốn họ coi Ngài là một Giá Trị hơn hẳn, Giá Trị viết hoa.
Khi cần chọn lựa giữa các giá trị, Ngài đòi họ ưu tiên chọn Ngài.
Cụm từ “không xứng đáng với Thầy” được nhắc đến ba lần (cc.
37-38).
Chỉ ai dám yêu Ngài hơn người thân yêu, dám vác thập giá mình mà theo,
người ấy mới xứng đáng với Thầy.
Chỉ ai dám mất mạng sống của mình vì Thầy,
người ấy mới lấy lại được sự sống tròn đầy ở đời sau (c. 39).
Đức Kitô là ai mà đòi chúng ta phải đặt Ngài lên trên các thụ tạo như vậy,
nếu Ngài không phải là hiện thân của chính Thiên Chúa?
Đừng quên chính Ngài đã mất mạng sống mình vì tôi trước.
Chỉ khi tôi đi qua tôi, nhờ đặt tôi và mọi sự thuộc về tôi dưới Đức Kitô,
tôi mới có gì để lại cho đời, tôi mới giữ lại được mọi giá trị khác.
Xin làm được điều thánh Biển Đức dạy:
“Phải tuyệt đối không coi gì trọng hơn Đức Kitô.”
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa thật lớn
lao,
để đối với con, mọi sự khác
trở thành bé nhỏ.
Xin cho con thấy Chúa thật
bao la,
để cả mặt đất cũng chưa vừa
cho con sống.
Xin cho con thấy Chúa thật
thẳm sâu,
để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.
Lạy Chúa Giêsu,
xin làm cho con thật mạnh mẽ,
để không nỗi thất vọng nào
còn chạm được tới con.
Xin làm cho con thật đầy ắp,
để ngay cả một ước muốn nhỏ
cũng không còn có chỗ trong
con.
Xin làm cho con thật lặng lẽ,
để con chỉ còn loan báo Chúa
mà thôi.
Xin Chúa ngự trong con thật
sống động,
để không phải là con,
mà là chính Ngài đang sống.
Lm, Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
15 THÁNG BẢY
Con Người Tự Viết
Nên Lịch Sử Của Chính Mình
Được ban cho trí khôn
và linh hồn bất tử, con người bắt đầu hành trình của mình trong thế giới. Con
người bắt đầu viết nên lịch sử của chính mình. Thiên Chúa – trong sự quan phòng
của Ngài – luôn luôn sát cánh với con người mọi nơi mọi lúc trong cuộc hành trình
ấy. Cũng trong sách Huấn Ca, chúng ta đọc thấy: “Đường lối của chúng luôn luôn ở
trước mặt Ngài, và không bao giờ giấu mắt Ngài được” (Hc 17,15).
Tác giả Thánh Vịnh
cũng thốt lên cùng ý nghĩa này:
“Dù chắp cánh bay từ
phía hừng đông xuất hiện,
đến ở nơi chân trời
góc biển phương tây,
tại đó cũng tay Ngài
đưa dẫn,
cánh tay hùng mạnh giữ
lấy con…
Hồn con đây Ngài biết
rõ mười mươi;
xương cốt con Ngài
không lạ lẫm gì” (Tv139, 9-10.14-15).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 15/7
Thánh Bônaventura,
giám mục tiến sĩ Hội Thánh
Xh 1, 8-14.22; Mt
10,34-11,1.
LỜI SUY NIỆM: “Ai yêu cha,
yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì
không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với
Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì
Thầy, thì sẽ tìm thấy được.”
Đây là sự chân thành của Chúa Giêsu tỏ lộ một cách công khai với những người muốn
trở thành môn đệ của Người. Chúa đòi hỏi người môn đệ phải có thái độ sống dứt
khoát, mọi sự phải dành ưu tiên cho Chúa. Nên luôn phải chiến đấu với chính
mình trước tình cảm, nhất là những tình cảm đối với người thân trong gia đình,
để chấp nhận vác thánh giá mình bước theo Chúa, cho dầu có phải mất sự sống ở đời
này.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con tin rằng: Trước mọi đòi hỏi của Chúa, luôn có ơn ban
của Chúa kèm theo để giúp chúng con hoàn thành. Xin Chúa cho tất cả chúng con
tin vào tình thương của Chúa, để chúng con luôn vui sống trong mọi hoàn cảnh và
làm đẹp lòng Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 15-07: Thánh
BÔNAVENTURA
Giám mục, tiến sĩ hội
thánh.(1221 – 1274)
Sinh năm 1221 tại
Bagnorea, gần Viterbo, thánh Bonaventura là con ông Giovanni di Fidanza và bà
Ritella. Ngài được đặt tên là Giovanni, lúc lên bốn, Ngài lâm trọng bệnh vô
phương cứu chữa. Người mẹ vội ẵm Ngài tới gặp thánh Phanxicô khó khăn. Thánh
nhân thương cha mẹ dâng lời cầu nguyện và Giovanni hết bệnh. Sung sướng, người
mẹ kêu lên: “Obuona Ventura” (Ôi biến cố phúc hậu). Từ đó Giovanni mang tên
Bônaventura. Ngài theo học tại dòng anh em hèn mọn.
Tới tuổi 15,
Bonaventura theo học tại Paris, trung tâm ánh sáng thời đó. Ngài sống thanh
trong đến nỗi Alexandre de Hales nhận xét: – Anh giống như Adam chưa hề phạm tội.
Ngài kết thân với sinh
viên tài ba khác là Thomas Aquinô. Ngỡ ngàng về sự hiểu biết của bạn mình.
Thomas hỏi Bonaventura xem Ngài đã học sách nào ? Bonaventura chỉ cây thánh giá
trả lời: – Đây là nguồn mọi hiểu biết của tôi. Tôi học Chúa Giêsu bị đóng đinh.
Năm 1257, Ngài được chọn
làm bề trên cả dòng Phanxicô. Tình thế Ngài phải đối diện rất là phức tạp.
Trong dòng đang có sự phân rẽ giữa những người nhiệt tâm muốn tuân giữ nghiêm
nhặt luật dòng và những người muốn chước giảm. Nhờ sự thánh thiện và tài khéo
léo, Bonaventura đã giải quyết các vấn đề cách ổn thỏa, đến nỗi Ngài đang được
gọi là Đấng sáng lập thứ hai của dòng. Trong kỳ đại hội ở Narbonne 1250, Ngài
đã ban hành hiến pháp đầu tiên cho dòng. Sau đó Ngài liên tiếp thăm viếng không
biết mệt các tỉnh dòng để quan sát việc thực hiện bản quy luật này.
Chính Ngài tổ chức việc
học hành cho các giáo sĩ trong dòng, làm cho công cuộc tông đồ được phổ biến rộng
rãi đến cả những bậc thức giả lẫn giới bình dân. Chính Bonaventura là một nhà
dòng giảng thuyết có biệt tài. Ngài đã giảng thuyết từ các tu viện, tới các
thành phố ở Au Châu, trước mặt vua Luy IX Đức giáo hoàng. Luôn luôn Ngài thu phục
được cảm tình của thính giả.
Một thầy dòng khiêm tốn
tên là Gilles hỏi Ngài: – Các cha thông thái, được Chúa ban cho nhiều tài năng.
Còn chúng con, chúng con có thể làm gì được ?
Bonaventura trả lời: –
Nếu Chúa ban cho một người tài năng khác là ơn yêu mến Ngài thế là đủ rồi, và
là kho tàng quí báu nhất.
Thầy dòng hỏi tiếp: –
Một người không biết đọc biết viết có thể yêu mến Thiên Chúa như một nhà thông
thái biết mọi sự không ?
Thánh nhân trả lời: –
Chắc chắn rồi, một bà già có thể yêu Chúa hơn cả một nhà tiến sĩ thần học.
Thày dòng vui vẻ la lớn:
– Một bà già có thể yêu Chúa hơn cả cha Bonaventura của chúng ta nữa.
Ngài còn tiếp: – Biết
một chút về Chúa còn hơn là biết mọi sự trong trời đất.
Ngoài những hoạt động
bên ngoài ấy. Bonaventura còn lo viết sách để huấn luyện các tu sĩ và những
sách về triết học, thần học và thánh kinh. Chúng ta có thể kể đến cuốn “chú giải
luật dòng Phanxicô”, “hạnh tích thánh Phanxicô” nhất là cuốn “hành trình của
linh hồn hướng về Thiên Chúa”.
Trong nỗ lực xây dựng
Hội Thánh, Bonaventura luôn tỏ ra khiêm tốn. Người ta kể rằng: Đức giáo hoàng
Grêgoriô X truyền cho thánh Thomas và thánh Bonaventura soạn thảo bộ kinh lễ
Thánh Thể. Khi hai vị vào yết kiến đức giáo hoàng trình bày công việc, thánh
Bonaventura xé nát bản văn của mình.
Cùng với lời khiêm tốn
ấy, Bonaventura đã từ chối chức Tổng giám mục thành York mà Đức giáo hoàng
Clêment IV đề nghị, lòng khiêm tốn ấy không ngăn cản sự cương quyết và can đảm
của Ngài chống lại thuyết sai lầm của thuyết Aristote và Avéoes… Nhưng Đức giáo
hoàng Grêgoriô X đã quyết định đặt Ngài làm hồng y cai quản giáo phận Albanô và
truyền Ngài về Roma ngay.
Khi hai sứ thần mang
mũ hồng y đến, Ngài còn đang rửa chén. Ngày 28 tháng 5 năm 1273 Ngài nhận chức
và là cánh tay đắc lực của đức giáo hoàng. Phần đóng góp của Ngài vào sự hợp nhất
Giáo hội Hy lạp và Roma tại công đồng Lyon thật lớn lao.
Nhưng khi công đồng
Lyon còn đang nhóm họp thì Bonaventura từ trần ngày 14 tháng 7 năm 1274. Đức
Sixtô IV phong Ngài lên bậc hiển thánh năm 1482 và đức Sixtô V đã đặt Ngài làm
tiến sĩ Hội Thánh năm 1858. Người ta gọi Ngài là “Tiến sĩ sốt mến”.
(daminhvn.net)
15 Tháng Bảy
Dây Chuyền Của Liên Ðới
Một người Ả Rập nọ
có một con ngựa rất đẹp… Ai thấy cũng gợi lòng tham muốn. Một người láng giềng
tìm đủ mọi cách để mua cho kỳ được con ngựa, nhưng chủ nhân vẫn một mực từ chối.
Không còn biết làm cách nào để thuyết phục chủ nhân, người đó đành phải nghĩ ra
mưu kế để chiếm đoạt.
Biết người chủ ngựa
thường hay đi qua sa mạc, hắn mới cải trang thành một người hành khất nằm rét
run bên vệ đường. Người chủ ngựa là một người tốt bụng, gặp bất cứ ai hoạn nạn
cũng đều ra tay cứu giúp. Vừa thấy người hành khất, người đó cảm thấy thương hại,
mới đề nghị trở về một quán trọ để săn sóc.
Khi người chủ ngựa
vừa mở miệng đề nghị, thì tên bất nhân mới than thở: “Ðã mấy ngày nay, tôi
không có được một hạt cơm trong bụng, lấy sức đâu để leo lên ngựa”. Nghe thế,
con người tốt bụng xuống ngựa để giúp người hành khất leo lên lưng ngựa. Nhưng
vừa leo lên lưng ngựa, tên bất lương hiện nguyên hình… Hắn giựt dây cương và
thúc vào hông ngựa mà chạy… Người chủ ngựa đáng thương chỉ còn biết nhìn theo
mà hối tiếc! Nhưng ông cũng cố gắng chạy theo và nói với tên bất lương như sau:
“Ngươi đã ăn cắp con ngựa của ta. Nhưng ta sẵn sàng bỏ qua cho. Ta chỉ xin
ngươi một điều là đừng bao giờ kể cho bất cứ ai nghe mưu mẹo ngươi đã dùng để
cưỡng chiếm con ngựa của ta. Một ngày nào đó, sẽ có những người bệnh thật sự nằm
rên rỉ bên vệ đường và kêu cầu sự giúp đỡ. Ta e ngại rằng sẽ không còn ai dám dừng
lại để cứu giúp kẻ hoạn nạn nữa”.
Dè dặt, thủ thế, nghi
kỵ có lẽ là thái độ thường tình của tất cả những ai đang sống dưới chế độ độc
tài. Lừa lọc, phản bội, tố cáo lẫn nhau đã khiến cho lòng người mỗi ngày một
thêm khép kín… Sợi dây chuyền của khép kín mỗi lúc một dài ra và quấn lấy con
người.
Mỗi một hành động xấu,
trong dây chuyền của tình liên đới, đều gia tăng đau khổ cho người khác. Khi
tôi lừa đảo, không những hành động của tôi chỉ trực tiếp hãm hại một vài người
có liên hệ, nhưng nó cũng góp phần giảm thiểu niềm tin của không biết bao nhiêu
người xung quanh. Khi tôi bạo động, không những tôi chỉ xúc phạm đến người
trong cuộc, nhưng hành động của tôi cũng xóa mờ đi phần nào lòng tự ái của nhân
loại… Tôi là một phần của nhân loại. Cả nhân loại sẽ đau đớn rên rỉ vì một vết
thương của tôi cũng như vì một nhát gươm của tôi.
Người Kitô luôn được mời
gọi để nhìn nhận hình ảnh của Chúa nơi mọi người và đón nhận mọi người như anh
em của mình. Trong cái nhìn ấy, cuộc sống của chúng ta phải luôn hướng đến người
anh em của chúng ta: niềm đau của người anh em cũng chính là niềm đau của chúng
ta, hạnh phúc của người anh em cũng chính là hạnh phúc của chúng ta.
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét