Thứ Bảy sau Chúa Nhật 3 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (năm I) Dt 11, 1-2. 8-19
"Ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là
kiến trúc sư và là Ðấng Sáng Lập".
Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người
ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận
được bằng chứng tốt. Nhờ đức tin, Abraham đáp lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến
xứ ông sẽ được lãnh làm gia nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ
đức tin, ông đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người, sống
trong lều trại, cũng như Isaac, và Giacóp, những kẻ đồng thừa tự cùng một lời hứa.
Vì chưng, ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và
là Ðấng sáng lập. Nhờ đức tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc
dầu bà đã già, bởi vì bà tin rằng Ðấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do
tự một người, mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số
như sao trên trời và như cát bãi biển.
Chính trong đức tin mà tất cả những kẻ ấy đã chết trước
khi nhận lãnh điều đã hứa, nhưng được nhìn thấy và đón chào từ đàng xa, đồng thời
thú nhận rằng mình là lữ khách trên mặt đất. Những ai nói những lời như thế, chứng
tỏ rằng mình đang đi tìm quê hương. Giá như họ còn nhớ đến quê hương dưới đất
mà họ đã lìa bỏ, chắc họ có đủ thời giờ trở về. Nhưng hiện giờ họ ước mong một
quê hương hoàn hảo hơn, tức là quê trời. Vì thế, Thiên Chúa không ngại để họ gọi
mình là Thiên Chúa của họ, vì Người đã dọn sẵn cho họ một thành trì. Nhờ đức
tin, khi bị thử lòng, Abraham đã dâng Isaac. Ông hiến dâng con một mình, ông là
người nhận lãnh lời hứa, là người đã được phán bảo lời này: "Chính nơi
Isaac mà có một dòng dõi mang tên ngươi". Vì ông nghĩ rằng Thiên Chúa có
quyền làm cho kẻ chết sống lại, do đó, ông đã đón nhận con ông như một hình ảnh.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Lc 1, 69-70. 71-72. 73-75
Ðáp: Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của
Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68a).
Xướng: 1) Chúa đã gầy dựng cho chúng tôi một uy quyền cứu
độ, trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa. Như Ngài đã phán qua miệng các thánh nhân từ
ngàn xưa, là tiên tri của Chúa. - Ðáp.
2) Ðể giải phóng chúng tôi khỏi quân thù, và khỏi tay những
người ghen ghét chúng tôi. Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng tôi, và nhớ lại lời
thánh ước của Ngài. - Ðáp.
3) Lời minh ước mà Ngài tuyên thệ, với Abraham tổ phụ
chúng tôi, rằng Ngài cho chúng tôi được khỏi sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay
quân thù. Phục vụ Ngài trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Ngài, trọn
đời sống chúng tôi. - Ðáp.
* * *
Bài Ðọc I: (năm II) 2 Sm 12, 1-7a, 10-17
"Tôi đã phạm tội đến Chúa".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Chúa sai Nathan đến cùng Ðavít. Ông
đến và nói với Ðavít rằng: "Trong thành kia có hai người, một người giàu
và một người nghèo. Người giàu có rất nhiều chiên bò, còn người nghèo thì không
có gì, ngoài một con chiên con mà ông đã mua và nuôi dưỡng, nó lớn lên trong
nhà ông cùng với con cái ông, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén và cùng ngủ
một giường với ông; ông kể nó như con gái mình. Có một người khách đến thăm người
giàu ấy, ông ta không muốn bắt chiên bò của mình để dọn tiệc đãi khách, nhưng lại
bắt con chiên của người nghèo mà dọn tiệc đãi khách". Ðavít tức giận người
đó lắm, và nói cùng Nathan rằng: "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống! Người
làm như thế là đáng chết. Nó phải bồi thường gấp bốn lần vì đã hành động bất
nhân như thế!"
Nathan liền nói với Ðavít: "Ngài chính là người đó.
Chúa là Thiên Chúa Israel phán rằng: Lưỡi gươm sẽ không bao giờ rời khỏi dòng
dõi ngươi cho đến muôn đời, vì ngươi đã khinh dể Ta, đã cướp vợ của Uria người
Hêthê làm vợ mình. Vì thế Chúa phán rằng: Từ gia đình ngươi, Ta sẽ gây nên tai
hoạ đổ trên đầu ngươi. Ngay trước mặt ngươi, Ta sẽ đem thê thiếp của ngươi trao
cho người khác, nó sẽ ăn ở với chúng ngay dưới ánh sáng mặt trời. Ngươi đã hành
động thầm lén, còn Ta, Ta sẽ làm việc đó trước mặt toàn dân Israel và giữa
thanh thiên bạch nhật".
Ðavít nói cùng Nathan rằng: "Tôi đã phạm tội đến
Chúa". Và Nathan nói cùng Ðavít rằng: "Chúa cũng đã tha tội cho ngài
rồi, ngài sẽ không phải chết. Nhưng vì việc này, ngài làm dịp cho quân thù của
Chúa nói phạm thượng, nên đứa con của ngài sẽ chết". Rồi Nathan ra về.
Và Chúa giáng hoạ trên đứa con của Ðavít do vợ của Uria
sinh ra, nên nó lâm trọng bệnh. Ðavít khẩn cầu Chúa cho đứa trẻ, ông ăn chay và
lui về phòng nằm dưới đất. Các kỳ lão đến nhà vua và nài xin vua chỗi dậy,
nhưng vua không chịu và không dùng bữa với họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 12-13. 14-15. 16-17.
Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con
quả tim trong sạch (c. 12a).
Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch,
và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên
nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.
2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần
quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội
lỗi sẽ trở về với Ngài. - Ðáp.
3) Xin cứu gỡ con khỏi đền nợ máu, ôi lạy Chúa là Chúa cứu
độ con, lưỡi con sẽ ca ngợi đức công minh Chúa. Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng
con sẽ loan truyền lời ca khen. - Ðáp.
* * *
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những
huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 4, 35-41
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh
Người?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Ngày ấy,
khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang
bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền,
nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người. Chợt có một cơn
bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở
đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng
con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và
phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển
lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con
không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng:
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
Ðó là lời
Chúa.
Suy Niệm:
Con thuyền
tròng trành trước phong ba giữa biển cả thế mà Thầy Giêsu vẫn nằm ngủ. Tại sao
Thầy không nao núng, trong khi các tông đồ cuống cuồng lên? Phải chăng vì Thầy
đang nằm trong tay mọi uy quyền. Nếu các môn đệ tin vào sức mạnh của Thầy mình,
chắc chắn các ông sẽ an tâm. Các ông nhát đảm vì thiếu niềm tin.
Cầu Nguyện:
Lạy Thầy
Giêsu kính mến! Chúng con, Giáo Hội chúng con, lao đao giữa biển cả cuộc đời.
Quyền lực sự dữ đang thét gào như muốn nuốt gọn lấy chúng con. Nhiều phen chúng
con đã té nhào trước sự tấn công của ác thần. Xin Thầy thức dậy và mau đến với
chúng con. Có Thầy cùng chiến đấu, chắc chắn chúng con sẽ chiến thắng vẻ vang.
Amen.
Suy Niệm:
Sóng
gió cuộc đời
Sự kiện
Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ, như được trình thuật trong Tin Mừng
hôm nay, không phải chỉ có ý nghĩa địa lý: di chuyển từ nơi này sang nơi nọ,
cũng như sóng gió nổi lên không chỉ mang ý nghĩa về khí tượng thuần tuý; nhưng
các biến cố đó còn mang ý nghĩa thần học nữa. Chúa Giêsu và các môn đệ rời bỏ
miền đất Israel
để đi sang phía dân ngoại, điều đó mang ý nghĩa truyền giáo; sóng gió nổi lên
tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ, của ma quỷ nổi lên chống lại Chúa và các
môn đệ.
Tuy nhiên,
như trình thuật Tin Mừng cho thấy, lúc đó Chúa Giêsu đang ở đàng lái, gối đầu
mà ngủ. Giấc ngủ ấy khiến ta liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thập
giá. Trong cái chết đó, Chúa Giêsu dường như đã thất bại, trong khi đó các quyền
lực sự dữ tưởng chừng như đã thành công, vì đã thủ tiêu được người mà họ coi
như kẻ thù, như kẻ quấy rầy nền đạo đức tôn giáo của họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu
đã thức dậy, nghĩa là Ngài đã phục sinh, và sự Phục Sinh của Ngài loan báo cuộc
chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ và sự dữ cũng như của
bất cứ thế lực nào chống đối Giáo Hội.
Ðời sống của
Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn
luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt trong những thử
thách, phong ba của cuộc đời. Ðiều quan trọng là chúng ta biết chạy đến cầu
nguyện với Chúa để Ngài làm yên cơn sóng gió và dẫn đưa con thuyền cuộc đời
chúng ta về tới bến bờ bình an.
Ước gì
chúng ta luôn có được xác tín của thánh Phaolô Tông đồ: Thiên Chúa không để
chúng ta bị thử thách quá sức chịu đựng, Ngài sẽ ra tay cứu giúp mỗi khi chúng
ta kêu cầu đến Ngài.
Đức Maria tràn đầy ân
sủng
Tràn đầy ân sủng do thụ thai Con Thiên Chúa. Vì thế thiên thần nói với Mẹ: "Hỡi bà Maria, xin đừng sợ, bà được đâ'y ân sủng nơi Thiên Chúa. Này đây, Bà sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai." Đây là chủ đề lớn lao gẫy kinh ngạc. Đức Maria đổng thời là Mẹ Thiên Chúa, vừa là Mẹ vừa là tôi tớ, trinh nữ và thụ thai. Nhờ ân sủng này, Mẹ được Thiên Chúa yêu thương...
Trong ân sủng tổi cao này, phải chúc lành bằng mọi lời ca ngợi, rao giảng về Mẹ, cử hành tôn vinh và khẩn xin Mẹ giúp đỡ. Thánh Bernard nói: 'Trong tất cả , hãy nhìn ngôi sao biển, hãy gọi, hãy kêu cầu lên Đức Maria: chỉ vì Mẹ tỏ lòng nhân từ ngay trên biển, là con đường vững chắc giữa .sóng gió ba đào. Mẹ là neo vững vàng bảo đảm cho con tàu; Mẹ là hải cảng tàu bè có thể tìm nơi trú ẩn trước mọi thứ cuông phong sóng lớn."
Để đạt được ân sủng của Thiên Chúa, cần phải chạy đến Đâng trung gian này với một tâm hổn sốt sắng, chỉ vì Mẹ là Nữ vương lòng thương xót, không có gì trong vương quôc công chính mà Mẹ từ chối kẻ van nài."
Tràn đầy ân sủng do thụ thai Con Thiên Chúa. Vì thế thiên thần nói với Mẹ: "Hỡi bà Maria, xin đừng sợ, bà được đâ'y ân sủng nơi Thiên Chúa. Này đây, Bà sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai." Đây là chủ đề lớn lao gẫy kinh ngạc. Đức Maria đổng thời là Mẹ Thiên Chúa, vừa là Mẹ vừa là tôi tớ, trinh nữ và thụ thai. Nhờ ân sủng này, Mẹ được Thiên Chúa yêu thương...
Trong ân sủng tổi cao này, phải chúc lành bằng mọi lời ca ngợi, rao giảng về Mẹ, cử hành tôn vinh và khẩn xin Mẹ giúp đỡ. Thánh Bernard nói: 'Trong tất cả , hãy nhìn ngôi sao biển, hãy gọi, hãy kêu cầu lên Đức Maria: chỉ vì Mẹ tỏ lòng nhân từ ngay trên biển, là con đường vững chắc giữa .sóng gió ba đào. Mẹ là neo vững vàng bảo đảm cho con tàu; Mẹ là hải cảng tàu bè có thể tìm nơi trú ẩn trước mọi thứ cuông phong sóng lớn."
Để đạt được ân sủng của Thiên Chúa, cần phải chạy đến Đâng trung gian này với một tâm hổn sốt sắng, chỉ vì Mẹ là Nữ vương lòng thương xót, không có gì trong vương quôc công chính mà Mẹ từ chối kẻ van nài."
Thánh Thomas Aquinô
28/01/2012 THỨ BẢY TUẦN 3 TN
Th. Tôma Aquinô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh
Mc 4,35-41
*****
SỨC MẠNH CỦA LỜI CHÚA
“Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mc 4,41)
Suy niệm: Có người nói: “Thiên Chúa nói thì thầm với bạn chí thiết,
Ngài nói đủ nghe trong tâm hồn bình an, nhưng Ngài la lớn trong cơn đau khổ của
chúng ta.” Con Thiên Chúa làm người để nói cho con người biết sứ điệp yêu
thương của Chúa Cha nhưng con người lắm khi chỉ nghe bằng đôi tai lơ đễnh vô
tình nên không thể nghe được những lời nói thì thầm đầy yêu thương của Ngài.
Người xưa nói “khốn nhi tri chi,” chỉ đến khi lâm cơn khốn cùng người ta mới biết
Chúa vẫn đồng hành với họ để cứu độ họ. Ngay các tông đồ cũng thế: ở bên cạnh Đức
Giêsu bấy lâu nay, được Chúa “đồng hội, đồng thuyền” với mình vậy mà họ tưởng
Ngài ngủ quên, để mặc họ bị vùi dập với con thuyền trong cơn sóng gió. Mãi đến
khi Ngài quát nạt truyền sóng im biển lặng, họ mới ngỡ ngàng kinh ngạc: “Ngài
là ai mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”
Mời Bạn: Bạn và tôi đều đã từng trải qua những cơn sóng gió cam go
của biển đời. Đừng nghĩ Chúa ‘ngủ quên’ bạn nhé. Bạn cứ ‘đánh thức’ Ngài đi, và
Ngài sẽ lên tiếng mạnh mẽ để cứu bạn. Nhưng bạn đừng để đến lúc ngặt
nghèo mới chạy đến kêu cầu Ngài. Trái lại, hãy dành ra những khoảng lặng
trong ngày sống của bạn, để chăm chú lắng nghe tiếng Chúa cùng với cả tấm lòng
tha thiết muốn ở bên Ngài, lúc đó bạn sẽ nghe được tiếng thì thầm đầy yêu
thương của Ngài. Như thế, khi bạn kêu lên chắc chắn Ngài sẽ đáp lời.
Sống Lời Chúa: Dành ít là 5 phút mỗi ngày để suy niệm Lời Chúa.
Cầu nguyện: “Lạy Chúa, lâm cảnh ngặt nghèo, con kêu lên Chúa, vì
Ngài nhân hậu khoan hồng, giàu tình thương với mọi kẻ kêu xin.” (Tv 86,5.7)
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Tôma Aquinô, Linh mục, Tiến sĩ Hội Thánh; 2Sm 12, 1-7a.10-17;
TM: Mc 4, 35-41.
LỜI SUY NIỆM: Khi các môn đệ cùng đi với
Chúa Giêsu sang bờ bên kia bằng thuyền. “Và một trân cuồng phong nổi lên, sóng ập
vào thuyền, đến nổi thuyền đầy nước. Trong khi đó Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa
đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: Thầy ơi, chúng
ta chết đến nơi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 37-38).
Khi nhìn vào cảnh các môn đệ tự xoay xở, để chống đỡ với trận cuồng phong, sóng
đã đập vào thuyền, thuyền đã đầy nước, tự sức của các môn đệ đã đi vào sự vô vọng.
Các môn đệ trên thuyền hôm đó là gồm những con người đã theo Chúa trên suốt cuộc
hành trình rao giảng Tin Mừng. Các môn đệ, đã sống và đã thấy được hết mọi quyền
năng cũng như sự bảo vệ của Chúa về mọi mặt, nhưng qua một biến cố khủng
khiếp của trân cuồng phong khi nước đã đầy thuyền, thì các ông đã kinh hãi, sợ
chết. Nhưng trong tuyệt vọng đó các ông đã nhớ, có sự hiện diện của Chúa trên
thuyền. Trong đời sống của chúng ta trên hành trình đức tin cũng vậy. Có những
biến cố lớn đến trong cuộc đời, chúng ta chỉ biết loay hoay một mình, để rồi chỉ
có lo sợ thêm, không thể giải quyết sự việc, có khi còn làm thêm rắc rối. Chúng
ta phải học nơi các môn đệ của Chúa Giêsu là phải kêu cầu với Chúa. Muốn thực
hiện được điều này, chúng ta phải tập cho được thói quen, là trong mọi hoàn cảnh
cũng như mọi việc dù nhỏ đến đâu chúng ta phải biết cầu nguyện và dâng việc đó
cho Ngài, tin vào Ngài sẽ sắp xếp điều tốt đẹp nhất cho chúng ta thì khi biến cố
có lớn lao đến đâu thì chúng ta cũng dễ đặt vào trong tay của Ngài.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 28-01
Thánh TÔMA AQUINÔ
Linh mục Tiến sĩ (1225-1274)
Tại vương quốc Naples , người vợ quí phái của lãnh chúa
Aquinô được vị tu sĩ Thánh thiện cho biết, là bà sẽ rất đỗi vui mừng vì con trẻ
bà mong đợi sẽ sáng chói với sự hiểu biết khôn sánh, Người con ấy là Tôma. Ngài
sẽ là một vị thánh trong hàng ngũ các thánh. Toma sinh tại lâu đài Roccasecca,
gần Naples khoảng
năm 1225.
Được sáu tuổi cha nàng dẫn tới tu viện Montê
Cassinô. Con trẻ được dâng hiến đã hỏi: - Thiên Chúa là gì ?
Và các tu sĩ ngạc nhiên vì thấy chìm đắm trong
các suy ngắm (quá sớm và sáng suốt) ấy.
Lúc mười tuổi, Ngài được gửi tới đại học Naples . Các giáo sự đã
khám phá ra dưới dáng vẻ nhút nhát của Ngài, một trí khôn thượng thặng và một đời
sống siêu nhiên sáng ngời với các đức tính hiền hòa, trong trắng và đức ái của
Ngài. Trong những kỳ nghỉ tại lâu đài cùng cha mẹ, Ngài gắng sức trợ giúp người
nghèo. Điều này làm cho chủ lâu đài phiền trách Ngài. Tình yêu của Ngài đối với
người mẹ thật bao la và đã tạo nên mối dày vò suốt đời.
Khi chưa tốt nghiệp đại học, Ngài đã quyết định
vào dòng Đa-minh. Lúc ấy dòng thành lập chưa được ba năm. Gia đình Ngài rúng động
với ý tưởng một con người quý phái như vậy lại trở thành một tu sĩ dòng ăn xin.
Ngoài ra họ còn mong mỏi rằng: một ngày kia, Ngài sẽ còn làm điều gì đó, để phục
hồi vận mệnh của họ bằng việc trở lại làm tu viện trưởng Montê Cassinô. Nghe được
tin, các anh của Ngài đang là sĩ quan trong quân đội, đã giận dữ. Họ bắt Ngài
trên đường đi Roma và giam Ngài dưới chân tháp của lâu đài. Gia đình gắng công
vô ích khi nài nỉ, đe dọa và quyến rũ Tôma đổi ý.
Các anh Ngài còn dùng tới một cô gái làng chơi để
hại người nữa. Nhưng cương quyết, Tôma đã dùng cây củi cháy để xua đuổi nàng, rồi
dùng than củi này vẽ lên tường hình thánh giá. Quỳ xuống trước hình thánh giá,
Toma với nhiệt tâm mạnh mẽ hơn bao giờ hết, lập lại lời hiến dâng đời mình cho
Thiên Chúa. Được hai năm, các chị Ngài đã cảm động trước sư cương nghị và những
khổ cực của Ngài, đã giúp Ngài trốn qua cửa sổ bằng một cái thúng. Các tu sĩ
Đaminh đợi Ngài dưới chân tháp.
Tôma khấn dòng ở Naples , rồi đi bộ từ Roma tới đại học
Colonia.
Trong môi trường học thức ưu việt này, Ngài cố dấu
kín các bước tiến khác thường của mình như Ngài đã che kín vinh dự gia đình.
Không khi nào Ngài đã để cho người ta ngờ rằng mình là cháu của hoàng đế
Barberoussa và là bà con của vua Frêdêric II cả. Khiêm tốn là bà hoàng của lòng
Ngài. Ngày kia một bạn học giảng bài cho Ngài. Toma phải là bậc thầy của anh,
đã tiếp nhận bài học với lòng biết ơn. Đó là thói câm lặng của Toma. Vì bình dị
nên Ngài bị coi là đần độn. Người ta gọi chàng trai to con này là con bò câm.
Nhưng thày Albertô đã coi Ngài như một thiên tài
và tuyên bố: - Con bò nầy sẽ rống lớn, đến nỗi những tiếng rống của nó sẽ vang
dội khắp thế giới.
Người sinh viên tài ba này đã tỏ ra dễ dạy như một
trẻ em. Tại phòng ăn, vị chủ chăn lầm lẫn, đã bắt Ngài sửa lại cách phát âm đã
chính xác. Lập tức Toma sửa lại liền. Sau bữa ăn các bạn Ngài bày tỏ sự ngạc
nhiên, nhưng thánh nhân trả lời : - Điều quan trọng không phải là cách phát âm
của một từ ngữ, nhưng là biết khiêm tốn vâng phục hay không.
Lúc hai mươi tuổi, Tôma đã được gọi làm giáo sư
tại Côlônia, Ngài xuất bản một tác phẩm danh tiếng, rồi đi Paris mở trường dạy triết học ở đường thánh
Giacôbê và thụ phong linh mục. Các nhà trí thức tới hỏi ý Ngài. Vua Lu-y IX xin
ý kiến Ngài trong những việc hệ trọng và mời Ngài đồng ban dự tiệc.
Nhưng không hoàn cảnh nào đã làm cho Tôma chia
trí khỏi những suy tư sâu xa. Chẳng hạn tại bàn ăn của nhà vua, người ta thấy
Ngài bất chợt ra khỏi sự yên lặng của mình, đập mạnh lên bàn và kêu lên:- Đây rồi,
một luận chứng quyết liệt chống lại những người theo phái Manicheô.
Bối rối vì quên rằng mình đang ở trước mặt vua,
Ngài muốn xin lỗi, nhưng vua thánh đã truyền cho Ngài đọc ngay cho thơ ký chép
lại những suy tư có giá trị siêu việt đó.
Kinh nguyện, làm việc và ý chí là những yếu tố tạo
nên sức mạnh của Tôma, Ngài nói: - Ai không cầu nguyện thì cũng giống như người
lính chiến đấu mà không có khí giới.
Ngài định nghĩa sự nhàn rỗi như là: - Cái búa mà
quân thù bửa xuống.
Ngài trả lời cho bà chị hỏi làm sao để được cứu
rỗi : - Phải muốn.
Dầu bận việc rao giảng, dạy học và đi tới những
nơi Đức Thánh Cha sai tới Thánh Toma vẫn viết nhiều tác phẩm thành công rực rỡ.
Trong một lần hiện ra, Ngài nghe thấy thầy chí thánh nói với mình: - Hỡi con,
con đã viết cách xứng đáng về ta, con muốn được thưởng gì ?
Tôma trả lời: - Oi lạy Chúa, con không muốn gì
ngoài Chúa cả.
Người ta quả quyết rằng: Ngài đã nói chuyện với
Đức Trinh Nữ, các thiên thần và các thánh. Và khi cầu nguyện tâm hồn Ngài như
lìa khỏi xác. Ngài còn được mệnh danh mãi là "Tiến sĩ thiên thần"
Ngài có một tâm hồn vui tươi, nhã nhặn với anh em, đến nỗi có người nói : - Mỗi
lần thấy và nói chuyện với Ngài, tôi thấy như tràn ngập niềm vui thiêng liêng.
Thánh nhân đã qua mười năm tại Italia. Một phần
trong thời gian nầy ở trong giáo triều, Đức Thánh cha Urbanô đã trao phó cho
Ngài nhiều trọng trách, rõ ràng nhất là lo cải hóa người Do thái. Đức thánh cha
còn muốn gọi Ngài lên chức giám mục nhưng Ngài đã từ chối. Năm 1269 Ngài trở lại
Paris để dạy thần
học. Năm 1272 Ngài được gọi về Naples
để lo việc cho nhà mẹ dòng Daminh. Được năm cuối đời Ngài cống hiến để hoàn tất
một tác phẩm vĩ đại, bộ "Tổng luận thần học".
Nhưng cuối năm 1273 đột nhiên Ngài ngừng viết.
Khi dâng thánh lễ, Ngài bỗng có linh nghiệm rằng mình không thể viết thêm được
nữa. Réginald, thơ ký của Ngài thúc giục viết thêm, thánh nhân đã trả lời rằng:
theo điều đã hiển hiện cho Ngài thì tất cả chẳng ra gì: - "Vì mọi điều tôi
đã viết đối với tôi chỉ là rơm rác so với điều đã được mạc khải cho tôi thấy".
Đức Grêgôriô cho mời thày dòng danh tiếng đến dự
công đồng Lyon . Dầu bệnh hoạn, thánh Toma đã
tuân phục và đi bộ với hai anh em để tới dự công đồng. Đi đường lên cơn sốt. Sức
khỏe đã chận Người lại tu viện Fossa Nova.
Cảm thấy sắp chết, Ngài tuyên xưng đức tin và
khi rước lễ, Ngài nói: - Tôi tin vững rằng: Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật
và là người thật trong bí tích này, con thờ lạy Chúa, ôi Thiên Chúa, đấng cứu
chuộc con".
Ngài qua đời đơn sơ và dịu hiền của một trẻ em
không ngừng chiêm ngưỡng Thiên Chúa.
Năm 1323 Ngài được phong thánh và được tuyên bố
làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1567, Đức Lêo XIII đã đặt Ngài làm Đấng bảo trợ các
nhà thần học và các trường công giáo.
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++
28 Tháng Giêng
Nhân Vô Thập Toàn
Theo một cổ truyện của người Hồi Giáo, thì
Nasruddin là hiện thân của những người độc thân khó tính. Trong một buổi trà dư
tửu hậu, khi được hỏi về lý do tại sao ông không bao giờ lập gia đình,
Nasruddin đã giải thích như sau: "Suốt cả tuổi thanh niên, tôi đã dành trọn
thời giờ để tìm kiếm người đàn bà hoàn hảo. Tại Cairo, thủ đo của Ai Cập, tôi
đã gặp một người đàn bà vừa đẹp vừa thông minh, với đôi mắt đen ngời như hạt
oliu. Ðẹp và thông minh, nhưng người đàn bà này không có vẻ dịu hiền chút nào.
Tôi đành bỏ Cairo để đi Baghdad, thủ đô Iraq, để may tìm ra người đàn bà lý tưởng
tôi hằng mơ ước. Tại đây, tôi đã tìm thấy một người đàn bà hoang hảo như tôi
mong muốn, nghĩa là nàng vừa đẹp, vừa thông minh và cũng có tấm lòng quảng đại
nữa. Nhưng chỉ có điều là hao chúng ta không bao giờ có đồng quan điểm với nhau
về bât cứ điều gì.
Hết người đàn bà này đến người đàn bà khác: người
được điều này, người thiếu điều kia. Tôi tưởng mình sẽ không bao giờ tìm được
người đàn bà lý tưởng cho cuộc đời. Thế rồi, một hôm tôi gặp được nàng, người
đàn bà cuối cùng trong cuộc tìm kiếm của tôi. Nàng kết hợp tất cả những đức
tính mà tôi hằng mong muốn, nghĩa là nàng vừa đẹp, vừa thông minh, vừa quảng đại
tử tế. Nàng đúng là người đàn bà hoàn hảo.
Nhưng cuối cùng, tôi đành phải quyết ở độc thân
suốt đời. Các bạn có biết tại sao không? Nàng cũng đang đi tìm một người đàn
ông hoàn hảo. Và tôi đã được nàng chấm như một người đàn ông còn quá nhiều thiếu
sót.
Người đàn ông suốt đời độc thân trong câu chuyện
trên đây đã quên một trong những quy luật cơ bản nhất của cuộc sống: đó là luật
thích nghi. Thay vì bắt người khác và cuộc sống phải thích nghi với chúng ta,
chính chúng ta phải là người thích nghi với người khác và cuộc sống. người đàn
ông trong câu chuyện đã tìm được người đàn bà lý tưởng, nhưng chỉ tiếc rằng ông
chưa biết trở thành một người đàn ông lý tưởng để có thể ăn đời ở kiếp với người
đàn bà ấy.
Tâm lý thông thường của con người là thích đòi hỏi
người khác hơn là đòi hỏi chính mình. Chúng ta đòi hỏi người khác phải thế này
thế nọ với chúng ta, nhưng chúng ta quên rằng chúng ta chưa làm những gì người
khác cũng trông chờ nơi chúng ta.
Chúa Giêsu đã đề ra cho
chúng ta khuôn vàng thước ngọc để xử sự trong cuộc sống: "Những gì ngươi
không muốn người khác làm cho ngươi, thì ngươi cũng đừng làm điều đó cho người
khác". Nếu chúng ta không muốn ai đối xử bất công với chúng ta, chúng ta
hãy sống công bình. Nếu chúng ta không muốn ai cư xử hẹp hòi ích kỷ với chúng ta,
chúng ta hãy sống quảng đại, độ lượng. Nếu chúng ta không muốn người khác cau
có với chúng ta, chúng ta hãy luôn mang bộ mặt của tươi vui, phấn khởi đến với
người.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy, Tuần III TN2
Bài đọc: Heb 11:1-2, 8-19; 2 Sam
12:1-7a, 10-17; Mk 4:35-41.
1/ Bài đọc I (năm lẻ):
1 Đức
tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không
thấy. 2 Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được
Thiên Chúa chứng giám.
8 Nhờ
đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ
được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. 9 Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất
Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông I-sa-ác và ông
Gia-cóp là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa, 10 vì ông trông đợi một thành có nền móng
do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. 11 Nhờ đức tin, cả bà Sa-ra vốn hiếm muộn,
cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng
Đấng đã hứa là Đấng trung tín. 12 Vì thế, do một người duy nhất, một người
kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không
tài nào đếm được. 13 Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn
tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các
ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách
trên mặt đất. 14 Những người nói như vậy cho thấy là họ
đang đi tìm một quê hương. 15 Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê
hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về. 16 Nhưng thực ra các ngài mong ước một
quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không
hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn
bị một thành cho các ngài. 17Nhờ
đức tin, khi bị thử thách, ông Áp-ra-ham đã hiến tế I-sa-ác; dù đã nhận được lời
hứa, ông vẫn hiến tế người con một.18 Về người con này, Thiên Chúa đã phán bảo:
Chính do I-xa-ác mà sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. 19 Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng
Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người
con ấy như là một biểu tượng.
2/ Bài đọc I (năm chẵn):
1 Đức
Chúa sai ông Na-than đến với vua Đa-vít. Ông vào gặp vua và nói với vua:
"Có hai người ở trong cùng một thành, một người giàu, một người nghèo. 2 Người giàu thì có chiên dê và bò, nhiều
lắm. 3 Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài
con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua. Ông nuôi nó, nó lớn lên ở bên ông, cùng
với con cái ông, nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông, ngủ trong
lòng ông: ông coi nó như một đứa con gái.
4 Có
khách đến thăm người giàu, ông này tiếc của, không bắt chiên dê hay bò của mình
mà làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông. Ông bắt con chiên cái của người
nghèo mà làm thịt đãi người đến thăm ông." 5 Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với người
ấy và nói với ông Na-than: "Có Đức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật
đáng chết! 6 Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi
vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót." 7 Ông Na-than nói với vua Đa-vít:
"Kẻ đó chính là ngài! Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: 10 Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng
chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của U-ri-gia,
người Khết, làm vợ ngươi. 11 "Đức Chúa phán thế này: Ta sắp
dùng chính nhà của ngươi mà gây hoạ cho ngươi. Ta sẽ bắt các vợ của ngươi trước
mắt ngươi mà cho một người khác, và nó sẽ nằm với các vợ của ngươi giữa thanh
thiên bạch nhật. 12 Thật vậy, ngươi đã hành động lén lút,
nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước mặt toàn thể Ít-ra-en và giữa thanh thiên bạch
nhật."
13 Bấy
giờ vua Đa-vít nói với ông Na-than: "Tôi đắc tội với Đức Chúa." Ông
Na-than nói với vua Đa-vít: "Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của
ngài; ngài sẽ không phải chết. 14 Thế nhưng vì trong việc này ngài đã cả
gan khinh thị Đức Chúa, nên đứa trẻ ngài sinh được, chắc chắn sẽ phải chết." 15 Rồi ông Na-than trở về nhà. 16 Vua Đa-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa
trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất. 17 Các kỳ mục trong nhà của vua nài nỉ
xin vua trỗi dậy, nhưng vua không chịu và cũng chẳng ăn chút gì với họ.
3/ Phúc Âm:
35 Hôm
ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Chúng ta sang bờ bên
kia đi!" 36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi,
vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người. 37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập
vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng
lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói:
"Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?" 39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền
cho biển: "Im đi! Câm đi!" Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. 40 Rồi Người bảo các ông: "Sao nhát
thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?"
41 Các
ông hoảng sợ và nói với nhau: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển
cũng tuân lệnh?"
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Chúng ta phải tin những gì Thiên Chúa nói.
Tại sao chúng ta tin một điều
là thật? Thông thường có 3 lý do: (1) vì đã thấy; (2) vì cảm thấy hậu quả dù
không thấy; và (3), vì thế giá của người nói.
Các Bài Đọc hôm nay đều nhằm
mục đích thuyết phục con người tin vào những gì Thiên Chúa nói. Trong Bài Đọc
I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-thái đưa ra một lý do đơn giản tại sao các tiền nhân
tin: vì đó là lời của Thiên Chúa hứa. Ngài không bao giờ quên thực hiện những
gì Ngài đã hứa. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, tiên-tri Nathan, một cách rất khéo
léo, làm cho vua David nhận ra tội lỗi của ông; và Thiên Chúa bắt ông phải gánh
lấy những hình phạt. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách các tông-đồ yếu lòng tin
khi các ông đã có chính Ngài, Người có quyền trên sóng gió, cùng đồng hành.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Con người phải sống niềm tin của mình.
1.1/ Định nghĩa của đức
tin: Theo tác giả: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng
cho những điều ta không thấy.” Định nghĩa này nhìn từ góc cạnh của những người
đã có đức tin. Thực vậy, để đạt được điều con người hy vọng là cuộc sống đời đời,
con người phải tin nơi Đức Kitô (Jn 6:39-40) và những gì Ngài mặc khải về Thiên
Chúa. Tuy con người chưa thấy Thiên Chúa và chưa đạt tới cuộc sống đời đời,
nhưng niềm tin của con người nơi Đức Kitô là một bằng chứng cho những thực tại
này. Ví dụ, khi nhìn thấy đức tin của các nhân chứng tử đạo, con người biết lý
do của những cái chết anh hùng này.
1.2/ Gương đức tin của các
tiền nhân: Họ là những người tuyệt đối tin tưởng vào lời Thiên Chúa hứa dù chưa
nhìn thấy hiệu quả, hay điều Thiên Chúa hứa không thể xảy ra theo cách thức của
loài người. Tác-giả dẫn chứng 2 ví dụ:
(1) Tổ-phụ Abraham, cha của
những người tin: “Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi
đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết
mình đi đâu.” Để có thể rời bỏ quê cha đất tổ đến sống nơi đất lạ quê người,
con người phải được thúc đẩy bởi một lý do chính đáng; vì cuộc sống bấp bênh và
nạn kỳ thị chủng tộc mà họ sẽ phải đương đầu với. Lý do Abraham rời bỏ Urs đơn
giản là vì lời Thiên Chúa hứa, và ông đặt trọn niềm tin nơi Ngài.
Thiên Chúa không gọi
Abraham từ Urs tới một nơi định cư cố định, nhưng lang thang khắp nơi cho tới
khi Thiên Chúa cho ông một chỗ định cư vĩnh viễn không thuộc về thế giới này:
“Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống
trong lều cũng như ông Isaac và ông Jacob là những người đồng thừa kế cũng một
lời hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và
xây dựng.”
(2) Sarah, vợ của Abraham:
cũng chứng tỏ đức tin của Bà nơi Thiên Chúa. Cả hai ông bà đều đã cao niên (90
tuổi) mà vẫn chưa có con nối dõi tông đường. Cái tuổi này không thể có con theo
cách thức con người, nhưng Bà vẫn tin nơi Thiên Chúa, vì bà tin rằng Đấng đã hứa
là Đấng trung tín. Ngài có thể làm cho “một người kể như chết rồi mà một dòng
dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được, được sinh ra.”
1.3/ Đức tin được tinh luyện
trong thử thách đau thương:
(1) Vững tin dù đến chết vẫn
chưa thấy kết quả: Lời Thiên Chúa hứa sẽ ban đất làm gia sản và giòng dõi vô số
đã chưa được thực hiện khi Abraham còn sống ở đời này; nhưng ông vẫn một dạ vững
tin nơi Thiên Chúa. Lý do, ông coi mình “là khách ngoại kiều, là lữ khách trên
mặt đất, và mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi
vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các
ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài.”
(2) Vững mạnh trong thử
thách: Ngay cả khi đã được một người con nối dõi tông đường là Isaac, ông
Abraham vẫn sẵn sàng sát tế Isaac theo những gì Thiên Chúa dạy bảo, để chứng tỏ
niềm tin của ông nơi Ngài. Sở dĩ ông làm như thế vì ông tin Thiên Chúa có quyền
năng cho người chết trỗi dậy. Sau cùng, Thiên Chúa đã nhìn thấy niềm tin tưởng
tuyệt đối của ông, và Ngài đã ban cho ông người con ấy như là một biểu tượng của
những gì sẽ xảy ra nơi Đức Kitô.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Vua David thú nhận: "Tôi đắc tội với Đức
Chúa."
2.1/ Cách sửa lỗi khéo léo
của Nathan: Sửa lỗi người khác là chuyện rất khó làm; sửa lỗi nhà vua còn khó
khăn hơn gấp bội. Nếu không khéo, người sửa lỗi sẽ gánh những hậu quả tai hại
cho mình. Đức Chúa sai ông Nathan đến với vua David. Nathan dựng nên một câu
truyện thoạt nghe không liên quan gì đến tội lỗi của nhà vua: "Có hai người
ở trong cùng một thành, một người giàu, một người nghèo. Người giàu thì có
chiên dê và bò, nhiều lắm. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài con chiên cái
nhỏ độc nhất ông đã mua. Ông nuôi nó, nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái
ông, nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông, ngủ trong lòng ông: ông
coi nó như một đứa con gái. Có khách đến thăm người giàu, ông này tiếc của,
không bắt chiên dê hay bò của mình mà làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông.
Ông bắt con chiên cái của người nghèo mà làm thịt đãi người đến thăm ông."
Nghe đến đó, vua David bừng
bừng nổi giận với người ấy và nói với ông Nathan: "Có Đức Chúa hằng sống!
Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết! Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì
nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót." Lúc đó, ông Nathan mới
nói và chỉ vào vua David: "Kẻ đó chính là ngài!"
2.2/ Hình phạt Đức Chúa sẽ
đổ xuống trên David: Như sấm sét giáng trên đầu, vua David bấy giờ mới buồn bã
ngồi xuống và nói với ông Nathan: "Tôi đắc tội với Đức Chúa." Ông
Nathan nói với vua David: "Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài;
ngài sẽ không phải chết; nhưng nhà vua phải lãnh nhận mọi hình phạt cách tương
xứng.
- Chết chóc sẽ xảy ra trong
gia đình: "Gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì
ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của Uriah, người Hittite, làm vợ ngươi."
- Hãm hiếp sẽ xảy đến cho
các người vợ của David: "Ta sắp dùng chính nhà của ngươi mà gây hoạ cho
ngươi. Ta sẽ bắt các vợ của ngươi trước mắt ngươi mà cho một người khác, và nó
sẽ nằm với các vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch nhật. Thật vậy, ngươi đã hành
động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước mặt toàn thể Israel và giữa
thanh thiên bạch nhật."
- Đứa con của David đang
cưu mang sẽ phải chết: "vì trong việc này ngài đã cả gan khinh thị Đức
Chúa, nên đứa trẻ ngài sinh được, chắc chắn sẽ phải chết." Vua David cầu
khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì
nằm dưới đất.
Tất cả những gì Thiên Chúa
phán đều tuần tự xảy ra cho nhà David. Vua David biết tội của mình nên không
bao giờ dám mở miệng kêu trách Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: "Sao nhát thế? Tại sao mà anh em vẫn chưa có
lòng tin?"
Trình thuật của Marcô kể:
“Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Chúng ta sang bờ
bên kia đi!" Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên
thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người. Và một trận cuồng phong nổi lên,
sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.” Đứng trước sóng gió, chúng ta thấy
có hai thái độ khác nhau:
3.1/ Thái độ nhát sợ của
các tông-đồ: Phản ứng của con người là sợ chết; vì thế các môn đệ đánh thức Người
dậy và nói: "Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì
sao?" Chúng ta không biết Chúa Giêsu đã làm bao nhiêu phép lạ trước mặt
các ông, nhưng một điều chắc chắn là chưa đủ để các ông đặt trọn vẹn tin tưởng
nơi Ngài. Sau này, trong chương 6, sau khi đã làm phép lạ nuôi 5000 người, Chúa
Giêsu lại đi trên mặt nước đến với các ông khi bị sóng gió, các ông vẫn sợ và
tưởng Người là ma. Khi Chúa Giêsu đã truyền cho gió biển phải im lặng, các ông
vẫn hoảng sợ và nói với nhau: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển
cũng tuân lệnh?"
3.2/ Thái độ của Chúa
Giêsu: hoàn toàn đối nghịch hẳn với thái độ của các môn đệ. Trong khi các môn đệ
đang vất vả chống chọi với sóng gió, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc
gối mà ngủ. Các môn đệ không hiểu nổi làm sao một người có thể ngủ khi sóng biển
gào thét như thế! Khi các ông nói lớn đánh thức, Người thức dậy, ngăm đe gió,
và truyền cho biển: "Im đi! Câm đi!" Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.”
Rồi Người bảo các ông: "Sao nhát thế? Tại sao mà anh em vẫn chưa có lòng
tin?"
Qua trình thuật hôm nay,
các môn đệ và chúng ta phải học được bài học trong cuộc đời: một khi đã có đức
tin, không một sóng gió nào trong cuộc đời có thể làm lay chuyển đức tin của
chúng ta vào Thiên Chúa. Khi phải đương đầu với chúng, đó là lúc chúng ta sống
niềm tin đó.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng,
là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Đức tin phải biểu tỏ bằng hành động
qua việc chúng ta làm những gì Chúa dạy.
- Đức tin phải được tinh luyện trong thử thách
và đau khổ. Người có đức tin sẽ không hoảng hốt và đau khổ khi phải đương đầu với
thử thách.
******
Thánh Thomas Aquinas Tiến Sĩ
Bài đọc: Wis 7:7-10; 15-16; Jn
17:11b-19.
1/ Bài đọc I:
7 Vậy tôi nguyện xin, và
Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan
đã đến với tôi.
8 Đức Khôn Ngoan, tôi đã
quý trọng còn hơn cả vương trượng, ngai vàng.
Tôi không coi của cải là gì so với Đức Khôn Ngoan.
Tôi không coi của cải là gì so với Đức Khôn Ngoan.
9 Đối với tôi, trân châu bảo
ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức
Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn
đất.
10 Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, đã
quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ
tàn lụi.
15 Ước gì Thiên Chúa cho tôi nói về Đức Khôn Ngoan theo như tôi
được hiểu, và cho tôi biết nghĩ biết suy, xứng với những gì tôi đã lãnh nhận;
vì chính Người là Đấng hướng dẫn Đức Khôn Ngoan, và cũng là thầy dạy của các bậc
hiền triết.
16 Bản thân chúng ta, cùng với ngôn từ, với toàn bộ trí tuệ và
tài năng,
tất cả đều nằm trong tay Thiên Chúa.
tất cả đều nằm trong tay Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm:
11 Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế
gian; phần con, con đến cùng Cha.
12 Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã
ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con
hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh.
13 Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn
ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con.
14 Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ,
vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian.
15 Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ
họ khỏi ác thần.
16 Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về
thế gian.
17 Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời
Cha là sự thật.
18 Như
Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian.
19 Vì
họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.”
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Sự quí trọng của Đức Khôn Ngoan
Nếu một người muốn biết thánh sư Thomas Aquinas
khôn ngoan dường nào, người đó cứ đọc bộ Tổng Luận Thần Học (Summa Theologiae) là sẽ biết ngay. Để thưởng
công cho thánh nhân, một ngày kia Đức Kitô hiện ra với ngài và nói: “Thomas!
Con viết rất hay về cha. Con cứ việc xin bất cứ sự gì Cha sẽ ban cho con.”
Không một chút do dự, thánh nhân nói với Đức Kitô: “Không điều gì khác ngoại trừ
chính Cha.”
Để có thể viết về Chúa hay đến thế, thánh nhân
đã tự nguyện hy sinh tất cả cho việc tìm kiếm khôn ngoan. Ngài thuộc dòng họ
quí tộc, Landulph, cha của ngài là Quận Công (Count) của Aquino; mẹ của ngài là Theodora, Quận Chúa (Countess) của Teano. Gia đình của ngài có
họ hàng với hoàng-đế Henry VI và Frederick II. Khi quyết định trở thành một tu
sĩ Đa-minh, ngài đã gặp nhiều chống cự gay gắt từ phía gia đình đến nỗi cha và
các anh chặn đường bắt giam ngài vào trong cây tháp San Giovanni ở Rocca Secca.
Họ còn cho cả gái làng chơi vào để quyến dũ ngài bỏ ý định trở thành một tu sĩ
nghèo hèn. Sau cùng, Thomas Aquinas đã vượt qua tất cả để tận hiến cuộc đời cho
việc cầu nguyện và tìm kiếm sự khôn ngoan.
Hai bài đọc trong ngày lễ kính ngài hôm nay muốn
nêu bật sự quan trọng và ích lợi của khôn ngoan. Trong bài đọc I, trình thuật
hôm nay là hậu quả của cuộc đàm thoại giữa Thiên Chúa và vua Solomon. Vua
Solomon đã xin cho được khôn ngoan và Thiên Chúa đã ban cho Nhà Vua khôn ngoan
đến nỗi trước và sau Vua, không ai được khôn ngoan đến thế. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu trước khi chịu chết và về trời đã không xin Chúa Cha điều gì khác hơn là
xin thánh hiến các môn đệ của Ngài trong Sự Thật. Ngài cầu nguyện để xin Cha
ban cho các môn đệ hiểu biết và sống theo Lời của Thiên Chúa, để có thể hoàn
thành nhiệm vụ Ngài trao và đạt đến quê Trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Với
Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi.
1.1/ Hiểu biết khôn ngoan đáng quí trọng hơn mọi
sự: Theo truyền thống Do-thái, vua Solomon là "tác giả" của các Sách
Khôn Ngoan; vì vua Solomon được coi là người khôn ngoan nhất trong lịch sử của
nhân loại. Truyền thống kể lại truyện khi Thiên Chúa hỏi nhà vua muốn xin bất cứ
gì, thì Thiên Chúa cũng ban cho. Vua Solomon không xin cho có uy quyền, cũng chẳng
xin cho được giầu có, sức khỏe, sống lâu, hay bất cứ điều gì khác; nhưng chỉ
xin cho được khôn ngoan để biết sống và cai trị dân. Thiên Chúa rất hài lòng với
điều nhà vua xin; nên Ngài hứa sẽ ban cho vua Solomon được khôn ngoan đến độ
không có ai trước và sau vua được khôn ngoan như thế.
+ Khôn ngoan quí trọng hơn vương quyền: Nắm giữ
vương trượng, ngai vàng, mà không biết cách cai trị dân chúng; sớm muộn gì rồi
vương quyền cũng vào tay người khác. Nếu có Đức Khôn Ngoan, vua sẽ biết lòng
dân mong ước gì, và cai trị họ theo những điều họ mong ước, thì vương quyền sẽ
tồn tại lâu dài, và vua không phải chịu trách nhiệm trước tòa phán xét.
+ Khôn ngoan quí trọng hơn của cải: Vua Solomon
thú nhận: ''Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan,
vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc,
so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất.'' Có giàu có đến đâu chăng nữa, mà
không biết cách sống sao để được bình an và hạnh phúc, có lợi gì cho người sở hữu
nó đâu. Thực tế chứng minh: nhiều người giàu có, nhưng vẫn không muốn sống, và
có người còn tìm cách kết liễu đời mình nữa.
+ Khôn ngoan quí trọng hơn sức khỏe và sắc đẹp:
Đây phải là bài học khôn ngoan cho nhiều người trong xã hội chúng ta, quá chú
trọng đến việc tập luyện và nhịn ăn uống để có một thân thể cân đối đẹp đẽ và
khỏe mạnh. Dĩ nhiên chúng ta không đả kích những điều đó không quan trọng;
nhưng không đủ để mưu cầu hạnh phúc cho con người. Có đẹp đẽ khỏe mạnh đến đâu
chăng nữa, rồi cũng úa tàn theo thời gian. Vua Solomon cho biết lý do ông quí
trọng Đức Khôn Ngoan hơn: ''Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc
đẹp, đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng
bao giờ tàn lụi.''
Nói tóm, vua Solomon đã suy nghĩ rất nhiều khi
xin cho được Đức Khôn Ngoan, vì khi có Đức Khôn Ngoan là có tất cả: ''Nhưng
cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ tay Đức Khôn
Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể.''
1.2/ Làm sao để có Đức Khôn Ngoan? Khác với khôn
ngoan của thế gian, ai muốn có phải cố gắng luyện tập; Đức Khôn Ngoan mà vua
Solomon có được là do Thiên Chúa ban: "Vậy tôi nguyện xin, và Thiên Chúa
đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với
tôi.''
2/ Phúc Âm: Xin Cha lấy sự thật mà
thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.
2.1/ Chúa Giêsu biết sự nguy hiểm cho các môn đệ
khi sống trong thế gian: Chúa Giêsu biết đã đến giờ Ngài phải bỏ thế gian, nên
Ngài tâm sự với Chúa Cha: "Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ
ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha." Giờ Chúa Giêsu phải rời bỏ
các môn đệ, cũng là giờ mà các ông phải đương đầu với quyền lực của thế gian một
mình. Ngài biết hậu quả sẽ nghiêm trọng chừng nào, như Ngài đã từng nói với các
môn đệ: "Họ sẽ tiêu diệt chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác." Nhìn lại
kết quả việc chăn chiên của mình, Chúa Giêsu hãnh diện nói với Chúa Cha:
"Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con.
Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng
nghiệm lời Kinh Thánh."
Thế gian sẽ ghét bỏ và truy tố các môn đệ như họ
sắp ghét bỏ và truy tố Chúa Giêsu. Lý do là vì cả Chúa Giêsu và các môn đệ
không thuộc về thế gian. Ngài muốn cho các ông biết rõ điều này; để các ông
không ngạc nhiên khi điều đó xảy đến.
2.2/ Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ: Biết những
nguy hiểm sẽ xảy đến cho các môn đệ như thế, Ngài cầu xin Chúa Cha ban cho các
ông những điều quan trọng sau:
(1) Xin Chúa Cha bảo vệ các môn đệ khỏi ác thần:
"Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác
thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế
gian." Chúa Giêsu không xin "cất các môn đệ khỏi thế gian;"
nhưng Ngài xin "gìn giữ họ khỏi ác thần." Các ông phải ở lại thế gian
để tiếp tục sứ vụ rao giảng của Ngài.
(2) Xin Chúa Cha thánh hiến các môn đệ trong sự
thật: Giống như Phaolô, Chúa Giêsu biết nguy hiểm của sự sai lạc: "Xin Cha
lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật." Sự thật đây là Lời Kinh
Thánh và những lời tâm huyết Chúa Giêsu vừa dạy dỗ họ. Ngài biết mọi hành động
sai bắt đầu từ sự hiểu biết sai; vì thế, hiểu biết sự thật là điều không thể
thiếu cho các môn đệ của Chúa.
Cả hai điều cầu xin này đều được Chúa Cha ban
cho các môn đệ qua việc ban Thánh Thần. Ngài là thần sự thật, Ngài sẽ giúp các
ông nhận ra sự thật và sẽ hướng dẫn các ông tới tất cả sự thật. Ngài cũng là
người bảo vệ và giúp các ông có sức mạnh làm chứng nhân cho Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu đã xin với Chúa Cha để Ngài gởi tới
cho chúng ta Chúa Thánh Thần, Ngài là Thần Sự Thật, Ngài sẽ giúp chúng ta hiểu
sự thật và dẫn chúng ta tới chân lý toàn vẹn.
- Chúng ta phải biết quí trọng sự thật và cầu
xin Chúa Thánh Thần cho chúng ta thấu hiểu những lời dạy dỗ của Thiên Chúa, và
có can đảm sống theo những gì Thiên Chúa dạy.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét