THỨ TƯ TUẦN II MÙA THƯỜNG NIÊN
BÀI ĐỌC I: 1 Sm 17, 32-33.
37. 40-51
"Đavít
đã dùng dây ném đá và đá mà thắng tên Philitinh".
Trích
sách Samuel quyển thứ nhất.
Trong
những ngày ấy, khi người ta dẫn Đavít đến trước Saolê, thì Đavít nói với Saolê
rằng: "Đừng ai lo sợ gì cả. Tôi đây, tôi tớ của bệ hạ, tôi sẽ ra chiến đấu
với tên Philitinh". Saolê nói cùng Đavít rằng: "Ngươi không thể chống
cự và chiến đấu với tên Philitinh đó đâu, vì ngươi còn bé nhỏ, mà anh ta là một
chiến sĩ từ lúc còn niên thiếu".
Đavít
liền đáp: "Chúa đã từng cứu tôi thoát khỏi nanh vuốt sư tử và gấu, Người sẽ
giải thoát tôi khỏi tay tên Philitinh đó". Saolê mới nói với Đavít:
"Ngươi hãy đi và Chúa ở cùng ngươi".
Đavít
lấy cây gậy mà chàng quen cầm trong tay. Chàng lựa năm viên đá bóng láng dưới
khe nước, bỏ vào bị chăn chiên mà chàng thường đeo bên mình.
Đavít
đáp lại: "Còn mi, mi cầm gươm, giáo, lao mà đến với ta, thì ta đến với mi
nhân danh Chúa các đạo binh, Thiên Chúa các đoàn quân Israel mà hôm nay mi đã nhục mạ.
Chúa sẽ trao mi vào tay ta, ta sẽ đánh và chặt đầu mi, và hôm nay ta sẽ ném
thây quân sĩ Philitinh cho chim trời và thú đồng, để khắp hoàn cầu biết rằng
Israel có một Thiên Chúa, và toàn thể cộng đồng này nhận biết rằng: "Chúa
không dùng gươm giáo mà giải phóng, vì Người là chủ trận chiến, Người sẽ trao
các ngươi vào tay chúng ta".
Vậy
tên Philitinh vùng lên, tiến lại gần Đavít, và Đavít hối hả chạy đến nghinh chiến
với tên Philitinh. Đavít thò tay vào bị, lấy viên đá, rồi dùng dây ném đá mà
phóng vào trán tên Philitinh, viên đá trúng lủng trán hắn, và hắn liền té sấp
xuống đất. Và Đavít đã dùng dây ném đá và đá mà chiến thắng và hạ sát tên
Philitinh. Nhưng vì Đavít không có sẵn gươm, nên cậu chạy lại đứng trên mình
tên Philitinh, lấy gươm của hắn, rút ra khỏi vỏ và chặt đầu hắn.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 143, 1. 2. 9-10
Đáp:
Ôi Đá Tảng của con, chúc tụng Chúa! (c. 1a)
Xướng:
1) Ôi Đá Tảng của con, chúc tụng Chúa, là Đấng rèn luyện cho tay con biết đấu
tranh, cho các ngón tay con thiện nghề chinh chiến. - Đáp.
2)
Chúa là Tình thương và là chiến luỹ, là Đấng phù trợ và giải phóng con. Chúa là
khiên thuẫn, là chỗ con nương náu, Ngài bắt chư dân phải khuất phục con. - Đáp.
3)
Ôi Thiên Chúa, con sẽ hát mừng Ngài bài ca mới, với cây đàn mười dây, con sẽ ca
mừng Ngài, vì Ngài đã ban cho các vua chiến thắng, đã giải phóng Đavít là tôi tớ
của Ngài. - Đáp.
ALLELUIA: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống. Chúa có những lời
ban sự sống đời đời. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 3, 1-6
"Trong
ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?"
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
ấy, Chúa Giêsu lại vào hội đường và ở đó có một người khô bại một tay. Người ta
để ý quan sát xem Chúa có chữa bệnh trong ngày Sabbat không, để tố cáo Người.
Chúa bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy đứng ra giữa đây". Rồi
Người bảo họ: "Trong ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Được cứu sống
hay là giết chết?" Nhưng họ thinh lặng. Bấy giờ Người thịnh nộ đưa mắt
nhìn họ và buồn phiền vì lòng họ chai đá, Người bảo bệnh nhân rằng: "Hãy
giơ tay ra". Người đó giơ tay ra và tay anh ta được lành. Lập tức, những
người biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người
và tìm cách hại Người.
Đó là lời Chúa.
Ngày 18-1
Hiệp nhất
các Kitô hữu và sứ vụ
"Xin cho họ nên một ...để thế gian tín": đây là trọng tâm lời nguyện thượng tế của Chúa chúng ta. Sứ vụ xuất phát trực tiếp từ sự hiệp nhâ't.
Trong lời cầu nguyện dâng lên Cha, trước tiên Đức Giêsu diễn tả bản chất sự hiệp nhâ't của Hội Thánh, như thánh Cyprien viết và Công Đổng Vat II lây lại trong Hiến chếLumen Gentium: "Hội Thánh nhận được sự hiệp nhất từ sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thẩn."
Sau đó Người xác định, nếu không có sự hiệp nhâ't này, Hội Thánh không đáng tin; vì vậy, thế giới không thể nào tin được vào Đấng mà Hội Thánh cho là đang hiện diện.
Thế giới không thể tin nếu các Kitô hữu không hiệp nhât. Hay thếgiới sẽ thây sứ vụ mà không có hành động - theo nghĩa đích thực - hướng đên hiệp nhất, trước tiên là ân sủntg mà con người lãnh nhận như hoa trái của Chúa Thánh Thần cùng với bình an và niềm vui.
Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II luôn nói: 'Thải bắt đẩu lại từ Đức Kitô": Thành quả của Tân Phúc Ảm hóa không nằm trong các chương trình hoạch định... như việc đề nghị trong lãnh vực này cũng được đón nhận với một sự trung tín, nhưng Hội Thánh cô' gắng gầy dựng sự hiệp nhâ't chứ không tìm sự đổng nhât.
"Xin cho họ nên một ...để thế gian tín": đây là trọng tâm lời nguyện thượng tế của Chúa chúng ta. Sứ vụ xuất phát trực tiếp từ sự hiệp nhâ't.
Trong lời cầu nguyện dâng lên Cha, trước tiên Đức Giêsu diễn tả bản chất sự hiệp nhâ't của Hội Thánh, như thánh Cyprien viết và Công Đổng Vat II lây lại trong Hiến chếLumen Gentium: "Hội Thánh nhận được sự hiệp nhất từ sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thẩn."
Sau đó Người xác định, nếu không có sự hiệp nhâ't này, Hội Thánh không đáng tin; vì vậy, thế giới không thể nào tin được vào Đấng mà Hội Thánh cho là đang hiện diện.
Thế giới không thể tin nếu các Kitô hữu không hiệp nhât. Hay thếgiới sẽ thây sứ vụ mà không có hành động - theo nghĩa đích thực - hướng đên hiệp nhất, trước tiên là ân sủntg mà con người lãnh nhận như hoa trái của Chúa Thánh Thần cùng với bình an và niềm vui.
Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II luôn nói: 'Thải bắt đẩu lại từ Đức Kitô": Thành quả của Tân Phúc Ảm hóa không nằm trong các chương trình hoạch định... như việc đề nghị trong lãnh vực này cũng được đón nhận với một sự trung tín, nhưng Hội Thánh cô' gắng gầy dựng sự hiệp nhâ't chứ không tìm sự đổng nhât.
Đan viện le Pivain
18/01/2012 THỨ TƯ TUẦN 2 TN
Tuần lễ cầu cho các Ki-tô hữu hiệp nhất
Mc 3,1-6
*****
“ĐẶT CƯỢC” VÀO ĐỨC GIÊSU
“Ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người
hay giết đi?”(Mc 3,4)
Suy niệm: Trong bài Tin Mừng hôm nay, có hai cuộc ‘đặt cược’ nhắm
vào Đức Giêsu. Người bại tay ‘đặt cược’ niềm hy vọng và lòng tin vào Đức Giêsu,
mong được Ngài chữa lành. Nhóm Pharisêu ‘đặt cược’ tài xét đoán và danh tiếng của
mình khi tố cáo Đức Giêsu vi phạm luật ngày sabát. Còn Đức Giêsu, Ngài cũng ‘đặt
cược’ chính cuộc sống mình cho Chúa Cha và cho con người. Ngài nhập thể làm người,
rong ruổi trên khắp mọi nẻo đường để rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh hoạn
tật nguyền cho con người. Ngài bất chấp những rủi ro, nguy hiểm đến tính mạng
khi can đảm phê phán thái độ vụ luật của các nhóm tôn giáo đương thời. Cũng như
trong những cuộc tranh luận trước (x. Mc 2,28), Đức Giêsu luôn đề cao phẩm giá
con người, coi việc tôn trọng phẩm giá ấy như yếu tố quan trọng nhất trong khi
thực thi lề luật.
Mời Bạn: “Hãy luôn nhạy cảm với những ai cần sự giúp đỡ của bạn.
Hãy làm như Chúa Giêsu, Ngài không bỏ rơi ai một mình với các vấn đề của người ấy,
nhưng luôn đón nhận, chia sẻ các khó khăn, giúp đỡ và trao ban cho họ sức mạnh
và bình an của Thiên Chúa” (Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI).
Sống Lời Chúa: Tôi sẽ dám liều, dám “đặt cược” cuộc đời mình vào
Chúa Giêsu khi mạnh dạn nhạy cảm trước sự đau khổ, khốn cùng của người lân cận
và tìm cách chia sẻ, giúp đỡ họ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con luôn tìm đến Chúa trong mọi lúc,
tinh tế nhận ra tình thương Chúa trong cuộc sống, và luôn nhạy cảm trước nhu cầu
của người anh chị em bên cạnh, đang cần đến sự giúp đỡ của con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
1Sm 17,32-33.37.40-51; Tin Mừng theo Thánh Mc 3, 1-6
LỜI SUY NIỆM: “Đức Giêsu lại vào hội
đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy
ngày Sabát không, để tố cáo Người.” (Mc 3,1-2).
Chúa Giêsu biết cả giáo quyền lẫn chính quyền đang cấu kết với nhau để loại bỏ
Ngài. Nhưng công việc của Chúa Cha sai Ngài, Ngài phải sống và phải chu toàn một
cách tốt đẹp, đó là mạc khải cho con người biết về Thiên Chúa. Vì thế Ngài lại
vào hội đường. Ngài biết có những con mắt xấu đang theo dõi công việc của Ngài
trong rao giảng và chữa lành. Trong đời sống người Ki-tô hữu của chúng ta cũng
đang đi trên con đường ấy, mỗi lời nói, mỗi cư xử, mỗi hành động, mỗi việc làm
của chúng ta đều có người theo dõi, họ đang muốn thấy chúng ta khác họ ở điểm
nào? Có thật là tốt hơn họ hay không? Nên mỗi một người trong chúng ta phải ý
thức là mình đang sống trước mặt Thiên Chúa, là con của Ngài. Chúng ta phải là
ánh sáng cho mọi người nhìn thấy Thiên Chúa. Đê cùng Thờ Phượng Tôn Vinh và Tạ
Ơn Ngài.
Mạnh Phương
++++++++++++++++
18 Tháng Giêng
Tấm Gương Sự Thật
Theo câu chuyện cổ tích của người Tây Phương về
Cô Bạch Tuyết và bảy chú lùn thì Sự Thật chiếu sáng và nói qua một tấm gương.
Khi hoàng hậu, người kế mẫu của Bạch Tuyết nhìn vào tấm gương sự thật ấy để hỏi
về mình, bà được trả lời như sau: "Thưa hoàng hậu, hoàng hậu là người đẹp
nhất hiện nay". Mà quả thật, so sánh với những người đàn bà đương thời, bà
ta là người đẹp nhất.
Nhưng công chúa Bạch Tuyết mỗi ngày một lớn
và trở nên xinh đẹp. Trắng như tuyết, đỏ như máu, đen như mun: ba màu sắc ấy kết
hợp một cách hài hòa để mỗi ngày một gia tăng vẻ đẹp cho cô bé, dù chỉ mới lên
7 tuổi. Ai cũng nhận thấy rằng cô đã vượt xa người kế mẫu về sắc đẹp.
Một hôm, hoàng hậu kế mẫu hỏi ý kiến của
chiếc gương Sự Thật một lần nữa. Lần này, tấm gương đã trả lời: "Thưa
hoàng hậu, quả thực hoàng hậu là người xinh đẹp ít ai sánh bằng. Nhưng hiện
nay, công chúa Bạch Tuyết đã đẹp hơn hoàng hậu bội phần. Ðây là điều mà không
ai chối cãi được, 7 chú lùn đã xác định điều đó".
Người kế mẫu không muốn chấp nhận Sự Thật ấy. Bà
không thể nào chấp nhận một đứa con riêng của chồng được quyền đẹp hơn Bà. Sự
ganh ghét đã bắt đầu gặm nhấm tâm hồn bà để rồi bà chỉ còn có mỗi một ý nghĩ
trong đầu: đó là loại bỏ người đối thủ tí hon của bà. Bà sai người cho thuốc độc
vào một trái táo rồi mang đến cho Bạch Tuyết. Cô bé bị ngộ độc và đã đi vào cõi
chết, nhưng vẫn giữ nguyên nét đẹp trên gương mặt. Một hoàng tử đã say mê nhìn
khuôn mặt bất động ấy. Chàng đã đặt trên môi Bạch Tuyết một chiếc hôn. Trái táo
độc rớt khỏi môi và Bạch Tuyết đã được hồi sinh. Người hoàng hậu kế mẫu nghe điều
đó. Sự oán hận và ganh tức đã dồn lên khiêùn cho người đàn bà chết tốt.
Tấm gương Sự Thật của chúng ta chính là Ðức
Kitô.
Philatô đã có lần hỏi Chúa Giêsu: Sự Thật
là gì? Chúa Giêsu đã không trả lời cho câu hỏi ấy. Nhưng hẳn những người môn đệ
đã có lần nghe Chúa Giêsu tuyên bố: "Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống"
đều có thể trả lời cho câu hỏi ấy.
Chúa Giêsu không chỉ là Sự Thật một cách trừu tượng,
một cách trống rỗng, mà là Sự Thật của con người, đối với con người. Cũng chính
Philatô, sau khi đã ra lệnh đánh đòn Chúa Giêsu, đã đưa Người ra trước dân
chúng và tuyên bố: "Này là Người". Này là người, này là con người,
hay đúng hơn là sự thật về con người. Chúa Giêsu đã để lộ tất cả con người của
ngài qua những vết thương trên người. Phải chăng con người chỉ để lộ nhân tính
và tất cả những nét cao quý nhất của mình qua những lằn roi, qua những vết
thương đau vì yêu thương, vì phục vụ?
Chúa Giêsu là tấm gương Sự Thật của con
người. Chỉ qua Ðức Kitô, chúng ta mới có thể nhận diện được con người đích thực
của chúng ta. Nhìn vào Ðức Kitô, tội lỗi và những bất toàn của chúng ta sẽ hiện
ra, nhưng hình ảnh cao quý được Thiên Chúa in trên mỗi người chúng ta cũng tỏ lộ.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư, Tuần II TN
Bài đọc: Heb 7:1-3, 15-17; I Sam
17:32-33, 37, 40-51; Mk 3:1-6.
1/ Bài đọc I (năm lẻ):
1 Quả vậy, ông
Men-ki-xê-đê là vua Sa-lem, là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao, đã đón gặp và chúc
lành cho ông Áp-ra-ham, lúc ông này đang trên đường về sau khi đánh bại các
vua. 2 Ông Áp-ra-ham đã chia cho ông
Men-ki-xê-đê một phần mười chiến lợi phẩm. Trước hết, ông tên là Men-ki-xê-đê,
nghĩa là "vua công chính"; rồi ông lại là vua Sa-lem, nghĩa là
"vua bình an." 3 Ông không có cha, không có mẹ, không
có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng không có kết thúc. Như thế là ông
giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế.
15 Điều ấy lại còn hiển nhiên hơn nữa, khi một vị tư tế khác
tương tự như ông Men-ki-xê-đê xuất hiện; 16 vị này đã trở nên tư tế không phải do
Lề Luật quy định việc cha truyền con nối, nhưng do sức mạnh của một đời sống bất
diệt. 17 Quả thật, có lời chứng nhận rằng: Muôn
thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
2/ Bài đọc I (năm chẵn):
32 Đa-vít nói với vua Sa-un: "Đừng ai ngã lòng vì nó. Tôi
tớ ngài đây sẽ đi chiến đấu với tên Phi-li-tinh ấy." 33 Vua Sa-un nói với Đa-vít: "Con
không thể đến với tên Phi-li-tinh ấy để chiến đấu với nó, vì con chỉ là một đứa
trẻ, còn nó là một chiến binh từ khi còn trẻ."
37 Đa-vít nói: "Đức Chúa là Đấng đã giật con khỏi vuốt sư
tử và vuốt gấu, chính Người sẽ giật con khỏi tay tên Phi-li-tinh này." Vua
Sa-un nói với Đa-vít: "Con hãy đi, xin Đức Chúa ở với con!"
40 Cậu cầm gậy trong tay, chọn lấy năm hòn đá cuội dưới suối, bỏ
vào túi chăn chiên, vào bị của cậu, rồi tay cầm dây phóng đá, cậu tiến về phía
tên Phi-li-tinh. 41 Tên Phi-li-tinh từ từ tiến lại gần
Đa-vít, đi trước mặt nó là người mang thuẫn. 42Tên
Phi-li-tinh nhìn, và khi thấy Đa-vít, nó khinh dể cậu, vì cậu còn trẻ, có mái
tóc hung và đẹp trai. 43 Tên Phi-li-tinh nói với Đa-vít:
"Tao là chó hay sao mà mầy cầm gậy đến với tao?" Và tên Phi-li-tinh lấy
tên các thần của mình mà nguyền rủa Đa-vít. 44 Tên Phi-li-tinh nói với Đa-vít:
"Đến đây với tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi cho chim trời và dã
thú." 45 Đa-vít bảo tên Phi-li-tinh: "Mày
mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân
danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Ít-ra-en mà mày thách thức. 46 Ngay hôm nay Đức Chúa sẽ nộp mày vào
tay tao, tao sẽ hạ mày và làm cho đầu mày lìa khỏi thân. Ngay hôm nay tao sẽ
đem xác chết của quân đội Phi-li-tinh làm mồi cho chim trời và dã thú. Toàn cõi
đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở Ít-ra-en, 47 và toàn thể đại hội này sẽ biết rằng
không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Đức Chúa ban chiến thắng, vì chiến đấu là việc
của Đức Chúa và Người sẽ trao chúng mày vào tay chúng tao!"
48 Khi tên Phi-li-tinh bắt đầu xông lên và đến gần để đương đầu
với Đa-vít, thì Đa-vít vội vàng chạy từ trận tuyến ra để đương đầu với tên
Phi-li-tinh. 49 Đa-vít thọc tay vào bị, rút từ đó ra một
hòn đá, rồi dùng dây phóng mà ném trúng vào trán tên Phi-li-tinh. Hòn đá cắm
sâu vào trán, khiến nó ngã sấp mặt xuống đất. 50 Thế là Đa-vít thắng tên Phi-li-tinh nhờ
dây phóng và hòn đá. Cậu hạ tên Phi-li-tinh và giết nó. Nhưng trong tay Đa-vít
không có gươm. 51 Đa-vít chạy lại, đứng trên xác tên
Phi-li-tinh, lấy gươm của nó, rút khỏi bao, kết liễu đời nó và dùng gươm chặt đầu
nó.
3/ Phúc Âm:
1 Đức Giê-su lại vào hội
đường. Ở đó có một người bị bại tay. 2 Họ rình xem Đức Giê-su có chữa người ấy
ngày sa-bát không, để tố cáo Người. 3 Đức Giê-su bảo người bại tay:
"Anh trỗi dậy, ra giữa đây!" 4 Rồi Người nói với họ: "Ngày
sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi? "
Nhưng họ làm thinh.
5 Đức Giê-su giận dữ rảo mắt
nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay: "Anh giơ tay
ra! " Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường.
6 Ra khỏi đó, nhóm
Pha-ri-sêu lập tức bàn tính với phe Hê-rô-đê, để tìm cách giết Đức Giê-su.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải tin tưởng nơi uy quyền của Thiên Chúa.
Tôn giáo hiện hữu là để đưa con người tới Thiên
Chúa. Để làm việc này, con người cần giữ luật. Bao lâu con người tuân giữ những
luật Thiên Chúa truyền, con người giữ mối liên hệ tốt lành với Thiên Chúa.
Nhưng con người đã không thể giữ mãi mối liên hệ với Thiên Chúa vì họ phạm tội;
và như thế, con người cần dâng lễ vật để đền tội và nối lại mối liên hệ với
Thiên Chúa. Đó là lý do chức tư tế và luật dâng lễ vật hiện hữu. Theo từ ngữ
Latin, từ ngữ dùng để chỉ tư tế là pontifex, có nghĩa người xây cầu để nối
giữa 2 điểm. Tư tế là người xây cầu để nối giữa Thiên Chúa và con người bằng
dâng các lễ vật hy sinh. Theo truyền thống Do-thái, lễ vật hy sinh chỉ có thể đền
những tội vô tình xúc phạm đến Luật mà thôi; những tội cố ý, không lễ vật hy
sinh nào có thể đền được. Tác giả Thư Do-thái nhìn thấy sự bất toàn của chức tư
tế và các lễ vật hy sinh trong Đạo Do-thái; ông nhận ra con người cần một phẩm
trật tư tế cao trọng hơn phẩm trật tư tế theo Aaron, và một lễ vật hy sinh cao
trọng hơn máu chiên bò, để có thể tha thứ các tội cho con người, và cung cấp
cho con người cách thức an toàn để nối lại mối liên hệ với Thiên Chúa sau khi
phạm tội.
Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả dùng Thánh Vịnh
110:4 và Sách Sáng Thế 14:18-20, để chứng minh Đức Kitô là Thượng Tế theo phẩm
trật Melkizedek; phẩm trật này cao trọng hơn phẩm trật Aaron, vì “Melkizedek
không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng
không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế.”
Trong Bài Đọc I, năm chẵn, trẻ David tình nguyện đi chiến đấu với tên khổng lồ
Philistine, vì cậu tin uy quyền của Thiên Chúa sẽ giúp cậu chiến thắng. Vì biến
cố vĩ đại này, Thiên Chúa chuẩn bị lòng dân chúng dành chấp nhận David làm vua
thay thế Saul. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tức giận vì nhóm Pharisees lòng chai dạ
đá: trong khi Ngài muốn chữa lành con người khỏi mọi tội lỗi và bệnh hoạn, tật
nguyền, nhưng họ luôn tìm cách để tố cáo và luận tội Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức
Kitô là Thượng-tế theo phẩm trật Melkizedek.
1.1/ Thượng Tế Melkizedek: Khi truy tầm tên
Melkizedek mà Thánh Vịnh 110 đề cập tới, Tác-giả Thư Do-Thái tìm thấy trong
Sách Sáng Thế nói về Ông như sau: “Ông Melkizedek, vua thành Salem, mang bánh
và rượu ra; ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao. Ông chúc phúc cho ông Abraham
và nói: "Xin Thiên Chúa Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất, chúc phúc cho
Abraham! Chúc tụng Thiên Chúa Tối Cao, Đấng đã trao vào tay ông những thù địch
của ông!" Rồi ông Abraham biếu ông Melkizedek một phần mười tất cả chiến lợi
phẩm” (Gen 14:18-20).
Tác-giả dựa vào những gì Sách Sáng Thế trình
bày, và suy diễn thêm về những gì tuy Kinh Thánh không nói tới, nhưng quan trọng
về vị Thượng Tế này như sau: “Trước hết, ông tên là Melkizedek, nghĩa là
"Vua công chính;" rồi ông lại là vua Salem , nghĩa là "Vua bình an." Ông
không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng
không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế.”
1.2/ Sự khác biệt giữa 2 phẩm trật tư tế: Tác giả
so sánh những gì ông tìm ra về Thượng Tế Melkizedek và so sánh với những gì ghi
chép trong Luật về phẩm trật tư tế Aaron, ông tìm ra những khác biệt trong
Chương 7, chúng tôi chỉ tóm tắt như sau:
(1) Phẩm trật Aaron: Theo Luật Do-Thái, một người
trở thành tư tế vì thuộc giòng dõi Aaron; mà không tùy thuộc vào đặc tính và khả
năng của vị tư tế. Chức tư tế của những người theo phẩm trật Aaron chấm dứt
cùng với cái chết của người ấy. Thiên Chúa không bao giờ thề hứa với phẩm trật
theo Aaron. Sau cùng, các tư tế theo phẩm trật này phải luôn dâng hy lễ đền tội
cho mình, trước khi có thể dâng lễ đền tội cho người khác.
(2) Phẩm trật Melkizedek: Chức tư tế của
Melkizedek không tùy thuộc vào giòng dõi con người, nhưng tùy thuộc vào đặc
tính và khả năng của ông. Hơn nữa, Melkizedek không có gia phả con người, và
Kinh Thánh không thấy nói tới sự chết của ông; vì thế, chức tư tế của ông tồn tại
đến muôn đời. Chức tư tế theo phẩm trật Melkizedek được Thiên Chúa thề hứa và
không bao giờ thay đổi (x/c Psa 110:4). Đức Kitô không bao giờ phạm tội, và
Ngài không cần dâng lễ đền tội cho mình, chỉ dâng hy lễ một lần để đền tội cho
con người là đủ.
1.3/ Đức Kitô là Thượng-tế theo phẩm trật
Melkizedek: Tác giả Thư Do-Thái kết luận: “Điều ấy lại còn hiển nhiên hơn nữa,
khi một vị tư tế khác tương tự như ông Melkizedek xuất hiện; vị này đã trở nên
tư tế không phải do Lề Luật quy định việc cha truyền con nối, nhưng do sức mạnh
của một đời sống bất diệt. Quả thật, có lời chứng nhận rằng: “Muôn thuở, Con là
Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek”” (Psa 110:4).
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Không
phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Đức Chúa ban chiến thắng.
Đây là câu truyện nói lên uy quyền của Thiên
Chúa. Thoạt nhìn, không ai có thể nghĩ David sẽ thắng tên Philistine; ngay cả
vua Saul là người to lớn nhất trong Israel cũng phải đầu hàng. Khi
David tỏ ý định muốn đi chiến đấu với tên khổng lồ Philistine, vua Saul nói với
David: "Con không thể đến với tên Philistine ấy để chiến đấu với nó, vì
con chỉ là một đứa trẻ, còn nó là một chiến binh từ khi còn trẻ." Nhưng
David tin tưởng vào uy quyền Thiên Chúa, ông nói: "Đức Chúa là Đấng đã giật
con khỏi vuốt sư tử và vuốt gấu, chính Người sẽ giật con khỏi tay tên
Philistine này." Vua Saul nói với David: "Con hãy đi, xin Đức Chúa ở
với con!" Cậu cầm gậy chăn chiên trong tay, chọn lấy năm hòn đá cuội dưới
suối, bỏ vào túi chăn chiên, vào bị của cậu, rồi tay cầm dây phóng đá, cậu tiến
về phía tên Philistine.
(1) Tên Philistine cậy vào thể lực của mình: Khi
thấy có người Israel
tiến lên, tên Philistine từ từ tiến lại gần David, đi trước mặt nó là người
mang thuẫn. Tên Philistine nhìn, và khi thấy David, nó khinh dể cậu, vì cậu còn
trẻ, có mái tóc hung và đẹp trai. Tên Philistine nói với David: "Tao là
chó hay sao mà mầy cầm gậy đến với tao?" Và tên Philistine lấy tên các thần
của mình mà nguyền rủa David. Tên Philistine nói với David: "Đến đây với
tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi cho chim trời và dã thú."
(2) David chiến đấu nhân danh Thiên Chúa: David
bảo tên Philistine: "Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn
tao, tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ
Israel
mà mày thách thức."
- David tin tưởng nơi Thiên Chúa sẽ ban chiến thắng,
không chỉ chiến thắng cá nhân giữa cậu và tên Philistine, mà còn chiến thắng giữa
quân đội Israel trên quân đội Philistines: "Ngay hôm nay Đức Chúa sẽ nộp
mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày và làm cho đầu mày lìa khỏi thân. Ngay hôm nay
tao sẽ đem xác chết của quân đội Philistine làm mồi cho chim trời và dã
thú."
- Cậu tin chiến thắng là nhờ Danh Chúa, Đấng dựng
nên trời đất, chứ không nhờ gươm giáo. David nói với tên Philistine: "Toàn
cõi đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở Israel, và toàn thể đại hội này
sẽ biết rằng không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Đức Chúa ban chiến thắng, vì chiến
đấu là việc của Đức Chúa và Người sẽ trao chúng mày vào tay chúng tao!"
(3) Kết quả của cuộc chiến: "Khi tên
Philistine bắt đầu xông lên và đến gần để đương đầu với David, thì David vội
vàng chạy từ trận tuyến ra để đương đầu với tên Philistine. David thọc tay vào
bị, rút từ đó ra một hòn đá, rồi dùng dây phóng mà bắn trúng vào trán tên
Philistine. Hòn đá cắm sâu vào trán, khiến nó ngã sấp mặt xuống đất. Thế là
David thắng tên Philistine nhờ dây phóng và một hòn đá. Cậu hạ tên Philistine
và giết nó. Nhưng trong tay David không có gươm. David chạy lại, đứng trên xác
tên Philistine, lấy gươm của nó, rút khỏi bao, kết liễu đời nó và dùng gươm chặt
đầu nó."
Vì vua Saul bất tuân lệnh của Thiên Chúa, Ngài
đã truất phế Saul khỏi ngôi vua. Thiên Chúa đã sai ngôn sứ Samuel xức dầu phong
vương cho trẻ David, và Ngài muốn dùng chiến thắng này để chuẩn bị lòng dân
chúng để tiếp nhận David làm vua thay thế Saul. Điều này một lần nữa chứng
minh: một khi Thiên Chúa đã chọn ai, Ngài sẽ ban ơn đủ cho người ấy thi hành
nghĩa vụ của mình.
3/ Phúc Âm: Đức
Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá.
3.1/ Xung đột ý kiến giữa Chúa Giêsu và Nhóm
Pharisees: Chỉ trong hai câu mô tả ngắn ngủi, Marcô cho chúng ta nhìn thấy sự
xung đột giữa hai bên: “Đức Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại
tay. Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy ngày Sabbath không, để tố cáo Người.”
Trong khi Chúa Giêsu chính thức rao giảng và chữa lành dân chúng trong các hội
đường, Nhóm Pharisees cũng có mặt. Mục đích của họ không phải để nghe giảng,
nhưng để “rình xem” Chúa Giêsu có chữa bệnh trong ngày Sabbath.
3.2/ Hai phản ứng khác nhau:
(1) Phản ứng của của Chúa Giêsu: Khi nhìn thấy
người bại tay, Chúa Giêsu động lòng thương anh, và Ngài muốn chữa lành, nên bảo
anh: "Anh trỗi dậy, ra giữa đây!" Ngài có thể bảo anh ngày mai trở lại,
hay bảo anh đi đến một nơi nào đó cho khuất mắt những người đang rình; nhưng để
dạy cho họ có cơ hội hiểu biết đúng đắn về ngày Sabbath, Chúa Giêsu mời gọi họ
đối thoại với Ngài: "Ngày Sabbath, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu
mạng người hay giết đi?" Nhưng họ làm thinh. Đức Giêsu giận dữ rảo mắt
nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay: "Anh giơ tay
ra!" Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường.
(2) Phản ứng của Nhóm Pharisees: Làm thinh không
nói có thể vì không biết câu trả lời; nhưng họ đã biết câu trả lời: phải luôn
làm việc lành trong cả ngày Sabbath, và phải luôn cứu mạng người; nhưng vì họ sợ
nếu phải công nhận những gì Chúa Giêsu dạy trước mặt mọi người, họ phải tin
theo và làm những gì Ngài đòi hỏi nên họ làm thinh. Không phải chỉ có thế,
nhưng sau khi ra khỏi đó, Nhóm Pharisees lập tức bàn tính với phe Herode, để
tìm cách giết Đức Giêsu.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tội lỗi làm chúng ta xa cách Thiên Chúa; nhưng
qua Đức Kitô là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek, chúng ta đã có con đường
an toàn để nối lại tình nghĩa với Ngài.
- Chúng ta hãy vâng lời làm theo những gì Đức
Kitô dạy. Nếu không hiểu, hãy chịu khó bỏ thời giờ để nghiên cứu học hỏi; đừng
ngoan cố như những người biệt-phái để cố tình sống trong tội lỗi của mình.
- Chúng ta có chiến thắng được ba thù là nhờ uy
quyền của Thiên Chúa, chứ không do sức lực, tài năng, và sự khôn ngoan của cá
nhân.
- Tôn giáo không phải chỉ là tuân theo những luật
lệ cứng nhắc, nhưng trước hết là tâm tình đồng cảm với những khổ đau của nhân
loại. Chúng ta hãy cố gắng và tìm cách để làm vơi đi những khổ đau của tha
nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét