Thứ Bảy sau Chúa Nhật 4 Quanh Năm
Bài Ðọc I (Năm I): Dt 13, 15-17, 20-21
"Nguyện Thiên Chúa bình an, Người
đã đem ra khỏi cõi chết Ðấng nhờ máu giao ước, làm cho anh em xứng đáng thi
hành việc thiện".
Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, nhờ Ðức Giêsu mà
trong mọi lúc, chúng ta luôn luôn hiến dâng cho Thiên Chúa của lễ ngợi khen, tức
là hoa quả của miệng lưỡi ta tuyên xưng danh Người. Anh em đừng quên công việc
từ thiện và sự tương tế, vì Chúa hài lòng về những của lễ như thế. Anh em hãy
vâng lời và tùng phục các vị lãnh đạo anh em, vì chính các ngài canh giữ linh hồn
anh em, như những người sẽ phải trả lẽ, để các ngài hân hoan thi hành việc đó,
chớ không phàn nàn, vì điều đó không có lợi gì cho anh em. Nguyện Thiên Chúa
bình an, Người đã đem ra khỏi cõi chết Ðấng nhờ máu giao ước vĩnh cửu, trở nên
vị Mục tử cao cả, tức là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xin Người làm cho anh
em trong các việc thiện, xứng đáng thi hành thánh ý Người, khi Người thực hiện
trong anh em điều Người hài lòng, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Ðấng được vinh quang đến
muôn đời. Amen.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng
thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ
nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2) Người dẫn tôi qua những con đường
đoan chính, sỡ dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa,) dù bước đi trong thung lũng tối,
con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Người, đó là
điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay
trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy
tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo
tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa tôi sẽ định cư cho tới thời
gian rất ư lâu dài. - Ðáp.
* * *
Bài Ðọc I: (Năm II): 1 V 3, 4-13
"Xin ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn
ngoan ngoãn để đoán xét dân Chúa".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Salomon đến
Gabaon để dâng hy lễ, vì đây là nơi cao rộng nhất. Salomon dâng trên bàn thờ
này một ngàn lễ vật toàn thiêu. Tại Gabaon ban đêm, Chúa hiện ra cùng Salomon
trong giấc mộng, và phán rằng: "Ngươi muốn gì thì hãy xin, Ta sẽ ban cho
ngươi". Salomon thưa: "Chúa đã tỏ lòng rất nhân hậu đối với cha con
là Ðavít, tôi tớ Chúa, vì người đã sống trước tôn nhan Chúa trong chân lý và
công bình, đã ăn ở ngay thẳng đối với Chúa. Chúa đã dành cho người một lòng
nhân hậu lớn lao, đã ban cho người đứa con trai hiện đang ngồi trên ngôi báu của
người. Và giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị
Ðavít thân phụ con. Nhưng con chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước.
Tôi tớ Chúa đang sống giữa dân Chúa chọn, một dân đông đảo không thể đếm và ước
lượng được. Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn ngoan ngoãn để đoán xét
dân Chúa, và phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân của Chúa
đông đảo thế này".
Ðiều Salomon kêu xin như trên đã làm đẹp
lòng Chúa, nên Chúa phán cùng Salomon rằng: "Vì ngươi đã xin điều đó, mà
không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân thù, lại xin cho
ngươi được khôn ngoan để biết xét đoán, thì đây Ta ban cho ngươi điều ngươi
xin, và ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi
không có ai giống như ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi. Cả những điều
ngươi không xin, như giàu có và vinh quang đến nỗi từ trước đến giờ, trong các
vua, không vua nào được như ngươi, Ta cũng ban cho ngươi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 9. 10. 11. 12. 13. 14.
Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy con các thánh chỉ của Chúa (c. 12b).
Xướng: 1) Tuổi trẻ lấy chi giữ cho
thanh khiết đường đời? Bằng cách noi theo lời vàng của Chúa. - Ðáp.
2) Với tất cả tâm can con tìm Chúa,
xin chớ để con lạc xa chỉ thị Ngài. - Ðáp.
3) Con chôn cất trong lòng lời răn của
Chúa, để con không phạm tội phản nghịch Ngài. - Ðáp.
4) Thân lạy Chúa, Ngài muôn phước đức,
xin dạy con các thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
5) Con kể được ra nơi đầu môi, tất cả
những huấn dụ bởi miệng Ngài. - Ðáp.
6) Con vui vì đường lối lời Ngài
nghiêm huấn, dường như được mọi thứ giàu sang. - Ðáp.
* * *
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! - Chúa phán:
"Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết Ta". -
Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 30-34
"Họ như đàn chiên không người
chăn".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Marcô.
Khi
ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông
đã làm và đã giảng dạy. Người liền bảo các ông: "Các con hãy lui vào nơi vắng
vẻ mà nghỉ ngơi một chút". Vì lúc ấy dân chúng đến tấp nập đến nỗi các
tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng
vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người
ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài. Lúc ra khỏi thuyền, Chúa
Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không
người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Sau
thời gian thực tập truyền giáo, các tông đồ vui mừng trở về báo cáo với Ðức
Giêsu những gì các ông đã làm và đã dạy. Sau đó, Ðức Giêsu khuyên các ông vào
nơi thanh vắng để nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi để lấy sức khỏe về phần xác và nhất là sức
mạnh về tâm hồn. Người tông đồ của Chúa nếu không gắn chặt với Chúa bằng đời sống
cầu nguyện thì công việc tông đồ không thể đạt được thành quả tốt đẹp.
Như
khí trời cần cho con người, người Kitô hữu cũng cần phải cầu nguyện.
Cầu
Nguyện:
Lạy
Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã thương chọn con làm công cụ cho những hồng
ân cao cả của Chúa. Xin cho chúng con sống xứng đáng với lòng thương của Chúa,
để mọi lời nói, việc làm của chúng con là chứng từ sống động có sức mời gọi các
tâm hồn, và đưa họ về với nguồn ơn tha thứ của Chúa. Amen.
Suy
Niệm:
Dung
mạo Chúa Giêsu
Manio
Flajano, văn sĩ, ký giả kiêm đạo diễn người Italia, qua đời năm 1972, đã để lại
những trang nhật ký thật cảm động: năm 1942, đứa con gái 8 tuổi của ông bị bệnh
sưng màng óc và kéo lê cuộc sống tàn tật đó cho đến năm 1992. Nhìn đứa con mà
lòng đau xót, nhưng người cha vẫn đặt tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa. Trong
một trang nhật ký, ông viết: "Một người đàn ông nọ dẫn đến cho Chúa Giêsu
đứa con gái bệnh tật và nói với Ngài: "Con không muốn chữa lành nó, nhưng
chỉ xin Chúa yêu thương nó mà thôi". Chúa Giêsu cúi xuống hôn đứa bé mà
nói: "Ta nói thật, người đàn ông này đã xin điều mà có thể cho được".
Nói xong, Chúa Giêsu biến đi trong ánh sáng chói ngời bỏ lại một đám đông tiếp
tục bàn tán về các phép lạ, còn các nhà báo thì cố gắng mô tả các phép lạ".
Những
dòng trên đây của Flajano đưa chúng ta vào trọng tâm của Tin Mừng. Thật thế,
Tin Mừng không phải là một mớ lý thuyết hay giáo điều, Tin Mừng cũng không phải
là một Thiên Chúa cao xa trừu tượng. Tin Mừng thiết yếu là một con người bằng
xương bằng thịt, với một trái tim dễ rung động và biết yêu thương. Ðọc lại các
sách Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không làm phép lạ như một phù thủy
múa may cây đũa thần của mình, Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm lóe
mắt thiên hạ. Phép lạ là dấu chỉ của ơn cứu độ, là dấu chỉ của tình yêu Thiên
Chúa đối với con người, một Thiên Chúa yêu thương đến độ hóa thân làm người và
sống thiết thân với con người.
Trong
Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô như tóm tắt tất cả dung mạo của Chúa Giêsu trong
câu nói: "Chúa Giêsu thấh đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương".
Ðây là tất cả mạc khải về tình yêu Thiên Chúa đối với con người: thay cho một
Thiên Chúa ở trên cao, thưởng phạt chí công, lạnh lùng nghiêm khắc, Chúa Giêsu
đã bày tỏ cho chúng ta một Thiên Chúa đi vào lịch sử con người, một Thiên Chúa
sinh ra như một em bé, một Thiên Chúa có trái tim cảm thông và tha thứ, một
Thiên Chúa gần gũi với con người, có mặt trong từng nhịp thở của con người.
Chiêm
ngắm một Thiên Chúa như thế qua con người Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng nhận
ra được một chân lý về con người, bởi vì như Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến
chế "Vui mừng và Hy vọng" đã nói: Chỉ trong ánh sáng của Ngôi Lời Nhập
Thể, chân lý về con người mới được sáng tỏ. Con người bởi đâu mà đến? sẽ đi về
đâu? chúng ta nhận ra điều đó trong Chúa Giêsu đã đành, mà trong Ngài, chúng ta
còn phải biết sống thế nào cho phải đạo làm người. Qua cung cách của Ngài,
chúng ta thấy phải đối xử thế nào với người đồng loại. Qua cuộc sống yêu thương
và yêu thương đến chết trên Thập giá, chúng ta hiểu được rằng hiến thân cho tha
nhân là ơn gọi của con người, chỉ có con người mới được mời gọi để sống cho tha
nhân mà thôi.
Tin
mừng của chúng ta là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không ngừng
được mời gọi để sống kết hiệp với Ngài, để đón nhận sức sống của Ngài và sống
theo lý tưởng của Ngài. Ước gì chúng ta luôn được củng cố trong niềm xác tín rằng
Ngài đang hiện diện và đồng hành với chúng ta trong từng phút từng giây cuộc sống.
Suy niệm:
Các môn đệ trở về gặp lại Thầy Giêsu
sau cuộc hành trình tông đồ đầu tiên nhiều thú vị.
Họ cùng nhau tụ họp chung quanh Thầy
và thi nhau kể cho Thầy nghe tất cả những gì họ đã làm và đã dạy.
Thầy Giêsu thấy họ vui vì đã có thể đuổi được quỷ, chữa được bệnh.
Những ông đánh cá ít học, nói năng bỗ bã,
trở thành người rao giảng mạnh bạo Tin Mừng về Nước Trời.
sau cuộc hành trình tông đồ đầu tiên nhiều thú vị.
Họ cùng nhau tụ họp chung quanh Thầy
và thi nhau kể cho Thầy nghe tất cả những gì họ đã làm và đã dạy.
Thầy Giêsu thấy họ vui vì đã có thể đuổi được quỷ, chữa được bệnh.
Những ông đánh cá ít học, nói năng bỗ bã,
trở thành người rao giảng mạnh bạo Tin Mừng về Nước Trời.
Nhưng Thầy Giêsu cũng thấy nét mệt mỏi nơi khuôn mặt họ.
Các tông đồ không có giờ ăn uống vì bị đám đông bao vây.
“Anh em hãy lánh riêng ra,
đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (c.31).
Lời mời trên cho thấy mối quan tâm của Thầy đối với các môn đệ,
những người thợ cần được nghỉ ngơi cả thân xác lẫn tinh thần.
Họ cần tách mình ra khỏi đám đông, khỏi công việc,
để đến nơi hoang mạc mà tĩnh tâm.
Tĩnh tâm là nghỉ ngơi bên Thầy trong sự ấm áp của tình thầy trò,
không bị vướng bận bởi công việc phục vụ.
Tĩnh tâm là dành một thời gian để lòng mình lắng xuống,
đọc lại những biến cố đã xảy ra trong đời mình,
nhìn lại những kinh nghiệm mình đã trải qua bằng cái nhìn của Chúa,
cả những khó khăn và thất bại, những bất trung và vấp ngã…
Nhưng tĩnh tâm không phải chỉ để nhìn lui, mà còn để nhìn tới.
Các tông đồ cần vượt qua những hứng khởi nhất thời do thành công.
Họ cần trầm lắng để chuẩn bị cho những khó khăn sắp đến.
Các tông đồ không có giờ ăn uống vì bị đám đông bao vây.
“Anh em hãy lánh riêng ra,
đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (c.31).
Lời mời trên cho thấy mối quan tâm của Thầy đối với các môn đệ,
những người thợ cần được nghỉ ngơi cả thân xác lẫn tinh thần.
Họ cần tách mình ra khỏi đám đông, khỏi công việc,
để đến nơi hoang mạc mà tĩnh tâm.
Tĩnh tâm là nghỉ ngơi bên Thầy trong sự ấm áp của tình thầy trò,
không bị vướng bận bởi công việc phục vụ.
Tĩnh tâm là dành một thời gian để lòng mình lắng xuống,
đọc lại những biến cố đã xảy ra trong đời mình,
nhìn lại những kinh nghiệm mình đã trải qua bằng cái nhìn của Chúa,
cả những khó khăn và thất bại, những bất trung và vấp ngã…
Nhưng tĩnh tâm không phải chỉ để nhìn lui, mà còn để nhìn tới.
Các tông đồ cần vượt qua những hứng khởi nhất thời do thành công.
Họ cần trầm lắng để chuẩn bị cho những khó khăn sắp đến.
Lời mời của Thầy Giêsu vẫn đụng đến chúng ta hôm nay,
những con người tất bật, vội vã, lo âu và căng thẳng,
những con người kiệt sức vì đòi hỏi của công việc hay vì nghiện việc.
Lánh riêng, nghỉ ngơi ở nơi hoang vắng, tĩnh tâm,
đó không phải là những điều dành riêng cho giới tu sĩ.
Đó là nhịp bình thường của những người bỗng thấy mình đang bị cuốn đi,
trôi đi, mất hướng, mất chính mình, trở nên con rối ngờ nghệch.
những con người tất bật, vội vã, lo âu và căng thẳng,
những con người kiệt sức vì đòi hỏi của công việc hay vì nghiện việc.
Lánh riêng, nghỉ ngơi ở nơi hoang vắng, tĩnh tâm,
đó không phải là những điều dành riêng cho giới tu sĩ.
Đó là nhịp bình thường của những người bỗng thấy mình đang bị cuốn đi,
trôi đi, mất hướng, mất chính mình, trở nên con rối ngờ nghệch.
Tuy nhiên, không dễ tìm được nơi hoang vắng, để cách ly mình khỏi
công việc.
Khi Thầy và các môn đệ đến được nơi hoang vắng ưng ý,
thì chỗ đó chẳng còn vắng nữa, vì dân chúng đã đến trước rồi.
Chúng ta vẫn cứ phải tìm chỗ vắng riêng cho mình với Chúa suốt đời.
Khi Thầy và các môn đệ đến được nơi hoang vắng ưng ý,
thì chỗ đó chẳng còn vắng nữa, vì dân chúng đã đến trước rồi.
Chúng ta vẫn cứ phải tìm chỗ vắng riêng cho mình với Chúa suốt đời.
Cầu nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
"Đức Maria gìn giữ tất cả trong
lòng". Trọn cả lịch sử của Mẹ có thể tóm lại trong vài chữ: Mẹ đã sống từ
trong sâu thẳm tâm hổn..
Khi tôi đọc phúc âm "Đức Maria vội
vã ra đi lên miền núi: là thực hiện sứ vụ bác ái đối với người bà con Elíabeth,
tôi nhìn thấy Mẹ thật đẹp, bình tĩnh, huy hoàng, trầm lắng, cùng với Ngôi Lời
thiên Chúa! Cũng như Mẹ, lời cầu nguyện của Mẹ vẫn là : "Tôi đây! Ai? -
Người tớ nữ của Chúa, người cuối cùng trong thụ tạo của người, chính Mẹ, là Mẹ
của Ngôi Lời!"
Hình như người ta mụốn nói với tôi, chỉ có Đức Trinh Nữ mới có thể bước vào mầu nhiệm của Chúa Kitô, ngoài ra không ai hết. Thánh Phaolô thường nói về "khôn ngoan" được ban cho ngài, dù vậy, như tất cả các vị thánh vẫn còn ngồi trong bóng tối, khi người ta nhìn vào ánh quang của Đức Trinh Nữ! Không thể diễn tả Mẹ được! Bí mật mà Mẹ đang gìn giữ, đang hiện diện trong tim Mẹ, không một tiếng nói nào có thể mạc khải được, không một ngòi bút nào có thể diễn tả, Mẹ đầy ẩn sủng đang đào tạo tâm hồn tôi, để đứa con bé nhỏ này , có thể là hình ảnh sông động, mạng lấy Người Con đầu lòng của Mẹ, Người Con của Đấng Vĩnh Hằng.Chính Người Con này là lời ca tuyệt diệu cho vinh quang của Cha Người.
Chân Phươc Elisabeth de la Trinité
04/02/12 THỨ BẢY ĐẦU THÁNG TUẦN 4 TN
Mc 6,30-34
*****
NGHỈ NGƠI ĐÔI CHÚT
Chúa Giê-su bảo các
ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi
chút.” Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn
uống nữa. (Mc 6,31)
Suy niệm: Thật thương cho các môn đệ! Họ
làm việc suốt ngày, chẳng phải việc vô bổ hay “vác tù và hàng tổng”, mà là việc
chính đáng, việc truyền giáo. Chúa không trách mắng, nhưng thương họ, vì họ làm
việc tất bật sớm tối mà không tìm an nghỉ. Chúa nhắc nhở họ quan tâm đến điều họ
đang thiếu, đang cần, đó là “tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Nhiệt
thành thi hành sứ vụ suốt ngày rồi, họ được mời gọi sống nhân đức phó thác, dám
phó trao sứ mạng cho Chúa để nghỉ ngơi để phục hồi năng lực thiêng liêng và nhiệt
tình tông đồ trước khi tiếp tục sứ mạng.
Mời Bạn: Bạn làm việc thâu đêm thâu
ngày, không còn thì giờ nghỉ dưỡng, chiêm niệm, thờ phượng ư? Phải chăng bạn
nghĩ rằng Chúa không đủ khả năng quán xuyến và làm cho sứ vụ sinh hoa kết trái
khi bạn nghỉ ngơi bồi dưỡng nơi Chúa. Thời giờ dành cho việc nghỉ ngơi lấy sức
xác hồn cũng quan trọng như giờ làm việc vậy. “Công nghiệp không hệ tại chỗ làm
hay cống hiến nhiều, cho bằng đón nhận và yêu thương nhiều” (thánh Têrêxa Hài Đồng
Giêsu).
Chia sẻ: Luật buộc nghỉ việc xác ngày
Chúa Nhật và lễ buộc còn được bạn tuân giữ không?
Sống Lời Chúa: Điều độ giữa thời giờ
làm việc và thời giờ thinh lặng thờ phượng Chúa cùng thời giờ ngủ nghỉ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết
tin tưởng phó thác cho Chúa mọi sự, để con biết nghỉ ngơi bổ sức, biết phân bổ
lịch sinh hoạt cho đẹp lòng Chúa và biết hăng say khi con thức dậy.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia
Đình
Dt 13, 1-8; TIN MỪNG THEO THÁNH Mc 6,
14-29.
LỜI SUY NIỆM: Khi Chúa Giêsu đã nổi
danh, đám đông đồn thổi đến tai vua Hêrôđê. “Vua Hêrôđê nghe thế, liền nói: Ông
Gioan, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy.” (Mc 6,16). Tiếng nói của
lương tâm luôn là tiếng nói chân chính. Một khi đã làm một điều gì sai trái với
đạo đức con người nhất là những trọng tội thì con người không còn một nơi ẩn
náu hay trốn thoát được. Vua Hêrôđê bị mặc cảm tội lỗi vì đã cho phép xử tử
Gioan Tẩy Giả, nên giờ đây, nhà vua bị ám ảnh vì việc mình đã làm. Tự thâm tâm
ông không còn điều khiển được chính tư tưởng của ông, và hễ ông suy nghĩ, tư tưởng
của ông vẫn quay về với điều gian ác ông đã làm.
Chẳng ai có
thể tránh được việc phải sống riêng với chính mình và khi nội tâm tự tố cáo, đời
sống sẽ trở nên đau khổ, muốn thoát ra khỏi tâm trạng này con người cần phải thật
tình sám hối ăn năng, chạy đến cội nguồn tình yêu tha thứ nhân hậu của Thiên
Chúa.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
04 Tháng Hai
Lạy Cha Chúng Con Ở
Trên Trời
Con gái ông Karl Marx
có lần thú nhận với người bạn gái từ thủa nhỏ bà không được huấn luyện cho biết
có Tôn giáo và Tín ngưỡng cũng như chính bà không cảm thấy mình có một tâm tình
tôn giáo hay tin tưởng vào một thực tại vô hình nào.
Nhưng bà tâm sự tiếp:
mộ ngày kia bà tình cờ đọc được một kinh của người Kitô mà bà thầm mong ước là
những câu kinh ấy được biến thành sự thật.
Nghe nói thế, người bạn
gái của bà không khỏi ngạc nhiên và tò mò hỏi: "Kinh gì mà hay thế?".
Thay vì trả lời trực tiếp câu hỏi này, người con gái ông Karl Marx chậm rãi đọc
bằng tiếng Ðức: "Vater unser im Hinmel� Lạy Cha chúng con ở trên trời�".
Có một Giám Mục kia
trên đường kinh lý giáo phận, ghé thăm gia đình một bà lão. Người ta nói bà là
một tấm gương cho cả lòng soi chung. Trong khi thăm, vị Giám Mục hỏi:
- Bà thường hay đọc
sách đạo đức nào nhất?
- Thưa Ðức Cha con
không biết đọc, bà cụ trả lời. Nghe nói thế, vị Giám Mục tiếp tục hỏi:
"Nhưng bà hay cầu nguyện cơ mà?". Thấy Giám Mục đã biết bí quyết của
mình, bà cụ thật thà thưa:
- Thưa Ðức Cha, con chỉ
biết tràng hạt thôi: Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Tin Kính. Một ngày con
khởi sự đọc đến mười lần nhưng thường thì con không đọc xong.
- Tại sao thế? Vị Giám
Mục muốn biết. Bà cụ thuật tiếp:
- Tại vì khi con
bắt đầu đọc: Lạy Cha chúng con�
Con bỗng không hiểu sao Chúa có thể tốt lành đến mực cho phép một bà già hèn mọn
như con được gọi ngài là Cha. Ðiều đó làm cho con phải khóc và rồi con không thể
nào đọc tiếp hết chuỗi được. Nghe thuật lại kinh nghiệm trên, vị Giám Mục khuyến
khích:
- À, này bà cụ, đó là
lời cầu nguyện trị giá bằng tất cả những lời cầu nguyện của chúng tôi. Bà cứ tiếp
tục và luôn cầu nguyện theo câu đó.
Tục ngữ Việt Nam có câu: "Gần chùa gọi bụt
bằng anh". Ðó là tâm tình thông thường của con người. Bởi lẽ những thực tại
dù to lớn đến đâu, nếu đã trở nên những công việc hằng ngày thường bị hạ thấp
giá trị.
Ước gì Kinh Lạy Cha giúp chúng ta ý thức thật
sâu đậm về sự thật: Thiên Chúa là Cha chúng ta, như bà cụ đơn sơ trong câu chuyện
trên đã cảm nghiệm được, đồng thời giúp chúng ta sống và thực hành những gì
chúng ta luôn miệng cầu khẩn trong kinh Lạy Cha.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy, Tuần IV TN2
Bài đọc: Heb
13:15-17, 20-21; I Kgs 3:4-13; Mk 6:30-34.
1/
Bài đọc I (năm lẻ):
15 Vậy nhờ Người, chúng
ta hãy luôn luôn dùng lời ngợi khen làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa, tức là dùng
miệng lưỡi mà ca tụng Danh Thánh.
16 Anh em chớ quên làm
việc từ thiện, giúp đỡ lẫn nhau, vì Thiên Chúa ưa thích những hy lễ như thế. 17 Anh em hãy vâng lời
những người lãnh đạo anh em và hãy phục tùng họ, vì họ chăm sóc linh hồn anh em
như những người sẽ phải trả lẽ với Thiên Chúa. Như thế, họ sẽ vui vẻ thi hành
phận sự của mình mà không than thở, bởi vì điều đó chẳng ích gì cho anh em.
20 Thiên Chúa là nguồn
mạch bình an đã đưa Đức Giê-su, Chúa chúng ta ra khỏi cái chết. Đức Giê-su là vị
Mục Tử cao cả của đoàn chiên, là Đấng đã đổ máu mình ra để thiết lập giao ước
vĩnh cửu. 21 Xin Thiên Chúa ban cho anh em mọi ơn lành để có sức thi hành thánh ý Người.
Xin Người thực hiện nơi anh em điều đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. Kính
dâng Đức Ki-tô vinh quang đến muôn thuở muôn đời. A-men.
2/
Bài đọc I (năm chẵn):
4 Vua đi Ghíp-ôn để tế
lễ vì chỗ ấy là nơi cao quan trọng nhất; Sa-lô-môn dâng một ngàn lễ vật toàn
thiêu trên bàn thờ ấy.
5 Tại Ghíp-ôn, đang
đêm ĐỨC CHÚA hiện ra báo mộng cho vua Sa-lô-môn, Thiên Chúa phán: "Ngươi cứ
xin đi, Ta sẽ ban cho." 6 Vua Sa-lô-môn thưa: "Chính Ngài đã lấy lòng nhân hậu lớn lao mà xử với
tôi tớ Chúa là Đa-vít thân phụ con, như người đã bước đi trước nhan Chúa cách
trung thực, công chính, với tâm hồn ngay thẳng. Chúa đã duy trì lòng nhân hậu lớn
lao ấy đối với người, khi ban cho người có một đứa con ngồi trên ngai của người
hôm nay.
7 Và bây giờ, lạy ĐỨC
CHÚA là Thiên Chúa của con, chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa đây lên ngôi kế vị
Đa-vít, thân phụ con, mặc dầu con chỉ là một thanh niên bé nhỏ, không biết cầm
quyền trị nước. 8 Con lại ở giữa dân mà Chúa đã chọn, một dân đông đúc, đông không kể xiết,
cũng không đếm nổi. 9 Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân
Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một
dân quan trọng như thế?"
10 Chúa hài lòng vì vua
Sa-lô-môn đã xin điều đó. 11 Thiên Chúa phán với vua: "Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không
xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải
chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử,
12 thì này, Ta làm theo
như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước
ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp.
13 Cả điều ngươi không
xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang, đến nỗi suốt đời ngươi
không có ai trong các vua được như ngươi.
3/
Phúc Âm:
30 Các Tông Đồ tụ họp
chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi
điều các ông đã dạy.
31 Người bảo các ông:
"Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi
chút." Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì
giờ ăn uống nữa.
32 Vậy, thầy trò xuống
thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. 33 Thấy các ngài ra đi,
nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến
nơi, trước cả các ngài. 34 Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng
thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ
nhiều điều.
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Liên
hệ giữa mục-tử và đoàn chiên
Trong
cuộc đời không ai là một hòn đảo để tự mình sinh sống. Con người cần sự giúp đỡ
của tha nhân, và chính họ cũng phải giúp đỡ người khác. Một em bé chào đời
không thể tự mình sinh sống. Về phương diện vật chất, em cần sự thương yêu và
chăm sóc của cha mẹ cho đến khi em đủ khả năng để tự sinh sống một mình. Về
phương diện tri thức, em cần sự giáo dục trong gia đình cũng như nhà trường, để
giúp em thâu thập những kiến thức cần thiết để biết đối xử, suy luận, và làm việc
với mọi người. Về phương diện tâm linh, em cần được hướng dẫn để nhận ra Đấng Tạo
Thành, và sống mối tương quan với Ngài.
Các
Bài Đọc hôm nay nhấn mạnh đến những mối liên hệ này, đặc biệt mối liên hệ giữa
mục-tử và đoàn chiên. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-thái nhấn mạnh đến
việc cả hai bên phải giúp đỡ lẫn nhau, và đoàn chiên phải vâng lời vị mục tử.
Trong Bài đọc I, năm chẵn, vua Solomon chỉ xin Thiên Chúa ban cho có được khôn
ngoan để chăn dắt dân chúng trong chính trực và thương yêu, vì Vua biết có khôn
ngoan là có tất cả. Trong Phúc Âm, tuy Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải biết quí
trọng sự yên tĩnh để nghỉ ngơi và sống mối liên hệ với Thiên Chúa, nhưng chính
Ngài đã không thể cầm được lòng thương xót khi thấy dân Ngài vất vả “như chiên
không người chăn dắt.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cùng giúp đỡ nhau để thi hành
thánh ý Chúa.
1.1/
Bổn phận tương thân, tương trợ: Mục đích của tôn giáo là đưa con người tới Thiên
Chúa. Để thể hiện điều này, con người phải thực hiện 2 điều:
(1)
Thờ phượng và ngợi khen Thiên Chúa qua Đức Kitô: “Vậy nhờ Người, chúng ta hãy
luôn luôn dùng lời ngợi khen làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa, tức là dùng miệng
lưỡi mà ca tụng Danh Thánh.” Việc thờ phượng biểu lộ qua cầu nguyện cá nhân và
phụng vụ cộng đồng.
(2)
Giúp cho mọi người có cơ hội đến với Thiên Chúa: “Anh em chớ quên làm việc từ
thiện, giúp đỡ lẫn nhau, vì Thiên Chúa ưa thích những hy lễ như thế.” Theo cách
cấu trúc của Giáo Hội, những người lãnh đạo tinh thần tại địa phương như các
giám-mục, linh-mục, là những người có trách nhiệm trực tiếp lo cho phần linh hồn
của các tín hữu. Tác giả khuyên các tín hữu hãy vâng lời những người lãnh đạo
tinh thần này: “Anh em hãy vâng lời những người lãnh đạo anh em và hãy phục
tùng họ, vì họ chăm sóc linh hồn anh em như những người sẽ phải trả lẽ với
Thiên Chúa. Như thế, họ sẽ vui vẻ thi hành phận sự của mình mà không than thở,
bởi vì điều đó chẳng ích gì cho anh em.” Ngoài việc vâng lời, các tín hữu còn
phải tích cực hơn bằng cách biểu lộ sự biết ơn bằng cách cầu nguyện và săn sóc
đến nhu cầu vật chất, để họ có sức khỏe và thời gian để phục vụ đoàn chiên.
Giúp đỡ họ là giúp đỡ chính mình vậy.
1.2/
Phải thi hành thánh ý Thiên Chúa: Đây là mục đích chính của con người trong cuộc
đời, vì tất cả mọi loài Thiên Chúa dựng nên là cho một mục đích. Đâu là mục
đích hay thánh ý của Thiên Chúa cho con người? Tác-giả Thư Do-thái đã vạch ra rất
rõ ràng: đó là được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Như vậy, tuy là ý của
Thiên Chúa, nhưng là vì lợi ích cho con người; vì thế, ý của Thiên Chúa cũng phải
là ý của con người.
(1)
Đức Kitô thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha: Để đạt mục đích của Thiên Chúa, Đức
Kitô đã vâng lời Thiên Chúa trong mọi sự ngay cả chấp nhận cái chết để thực hiện
thánh ý Thiên Chúa: “Thiên Chúa là nguồn mạch bình an đã đưa Đức Giêsu, Chúa
chúng ta ra khỏi cái chết. Đức Giêsu là vị Mục Tử cao cả của đoàn chiên, là Đấng
đã đổ máu mình ra để thiết lập giao ước vĩnh cửu.”
(2)
Chúng ta cũng phải trung thành thi hành thánh ý của Ngài: Nếu Đức Kitô đã sẵn
sàng hy sinh đổ máu cho chúng ta được sống, lẽ nào chúng ta lại để cho máu cực
thánh của Ngài trở nên vô hiệu nơi bản thân chúng ta. Tác giả cầu xin cho các
tín hữu: “Xin Thiên Chúa ban cho anh em mọi ơn lành để có sức thi hành thánh ý
Người. Xin Người thực hiện nơi anh em điều đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô.
Kính dâng Đức Kitô vinh quang đến muôn thuở muôn đời. Amen.”
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một
tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái.
2.1/
Lời cầu xin cho được khôn ngoan của vua Solomon: Người khôn ngoan là người biết
Thiên Chúa, biết mình, và biết người. Vua Solomon chứng minh ông là người khôn
ngoan ngay cả trước khi ông cầu xin cho được khôn ngoan.
(1)
Solomon biết học hỏi kinh nghiệm của người đi trước: Sống dưới sự giáo dục của
vua cha David, Solomon chắc chắn đã học hỏi rất nhiều tính tốt nơi cha của mình
như: lòng tin tưởng tuyệt đối và kính sợ Thiên Chúa, tâm hồn công chính ngay thẳng,
luôn thương yêu và lo lắng cho những người dưới quyền mình. Tuy nhiên, Solomon
cũng đã được biết tội lỗi của cha và những hậu quả tai hại đã xảy đến cho gia
đình và đất nước; hậu quả của việc không biết xét xử công minh. Thực ra, lời
Thiên Chúa hỏi Solomon: " Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ ban cho!" là một lời
thử thách nguy hiểm; vì nếu không biết điều mình xin, những gì Thiên Chúa ban
cho sẽ gây thiệt hại cho Solomon nhiều hơn là làm lợi. Ví dụ: xin cho được sống
trường thọ trong khi cơ thể già yếu và bệnh tật; hay xin cho được giàu có mà
không biết sự giàu có sẽ làm cho gia đình tan nát hay làm con người xa Thiên
Chúa.
(2)
Solomon nhận ra khả năng giới hạn của mình trong việc điều khiển đất nước: Người
lãnh đạo phải là người khôn ngoan sáng suốt, thì mới có thể chỉ đường cho dân
chúng đi; ngược lại, nếu người lãnh đạo mù quáng, làm sao ông có thể chỉ đường
cho dân chúng? Đúng như lời Chúa Giêsu chỉ trích các biệt phái và kinh sư:
"Mù dẫn mù, cả hai cùng lăn xuống hố!" Nhận ra sự quan trọng của khôn
ngoan trong việc lãnh đạo quốc gia và giới hạn của bản thân, Solomon cầu xin với
Thiên Chúa: "Con chỉ là một thanh niên bé nhỏ, không biết cầm quyền trị nước.
Con lại ở giữa dân mà Chúa đã chọn, một dân đông đúc, đông không kể xiết, cũng
không đếm nổi. Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai
trị dân Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân
Chúa, một dân quan trọng như thế?"
2.2/
Thiên Chúa hài lòng và hứa ban điều vua Solomon xin.
(1)
Thiên Chúa hài lòng và ban cho Solomon điều vua ước nguyện: Lời xin của Solomon
đẹp lòng Thiên Chúa, vì vua không chỉ quan tâm đến bản thân, nhưng biết để ý đến
việc chăn dắt Dân Chúa. Ngài phán với vua: "Bởi vì ngươi đã xin điều đó,
ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ
thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta
làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi
trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp."
(2)
Có khôn ngoan là có tất cả: Solomon có thể nhìn thấy trước những gì khôn ngoan
sẽ mang lại. Khi biết cách lãnh đạo, đời sống dân chúng sẽ phát triển, đất nước
sẽ thái bình thịnh trị; người lãnh đạo khôn ngoan sẽ được vinh quang và hưởng mọi
nguồn phú túc giàu sang từ dân chúng. Ngược lại, với một người không biết lãnh
đạo, đời sống dân chúng sẽ lầm than khổ sở, đất nước sẽ rơi vào tình trạng
nghèo đói, nhà lãnh chắc chắn sẽ phải lãnh nhận hậu quả và bị khai trừ để người
khác thay thế. Vì vậy, biết cách xin đúng đắn như Solomon là biết cách giải quyết
mọi vấn đề. Lịch sử chứng minh triều đại của Solomon là triều đại huy hoàng và
thịnh vượng nhất trong số tất cả các vua của Israel.
3/ Phúc Âm: Hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà
nghỉ ngơi đôi chút.
3.1/
Người tông-đồ cần quí trọng sự thanh vắng để được nghỉ ngơi bồi dưỡng: Các
tông-đồ cũng giống như chúng ta dễ cảm thấy mừng vui khi nhìn thấy kết quả những
gì mình đã hy sinh và được dân chúng hoan ngênh nhiệt liệt. Những lúc như thế,
đa số sẽ sẵn sàng hy sinh, ngay cả việc ăn uống, ngủ nghỉ, để có thời giờ làm
việc hơn nữa để đáp ứng mọi nhu cầu của dân chúng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã
khôn ngoan nhắc nhở các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh
vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Có nhiều lý do cho lời khuyên khôn ngoan này:
- Thân xác con người có giới hạn của nó:
Khi con người làm việc mệt mỏi, họ cần được nghỉ ngơi dưỡng sức; nếu không họ sẽ
dễ dàng bị quá tải, và làm việc sẽ không đạt hiệu năng.
- Hoạt động tông đồ cần được thăng bằng
qua đời sống cầu nguyện: Nếu không dành thời giờ cho việc cầu nguyện, người
tông-đồ sẽ không có sức mạnh tinh thần cho những đòi hỏi của việc tông-đồ.
Thánh phụ Đa-minh đã thăng bằng 2 cuộc sống bằng cách rao giảng ban ngày và cầu
nguyện ban đêm.
3.2/ Con người khao khát được dạy dỗ và lắng
nghe Tin Mừng: Tuy đã cùng với các tông-đồ xuống thuyền để xa cách dân chúng để
Thầy trò có thể nghỉ ngơi dưỡng sức, nhưng khi ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một
đám người rất đông đã chờ đợi sẵn, Ngài chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên
không người chăn dắt. Người lại bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
Xưa cũng như nay, nhu cầu săn sóc phần hồn
cho dân chúng luôn khẩn trương cần thiết, vì:
(1) Chiên không người chăn sẽ không biết
đường đi: Người mục-tử tinh thần cần chỉ cho đoàn chiên của mình đường đi tới
Thiên Chúa, đích điểm của cuộc đời. Không có đích điểm này, con người sẽ dễ lạc
hướng, và sẽ bị cuốn hút vào những mời gọi bất chính của quỉ thần và thế gian.
(2) Chiên không người chăn sẽ không kiếm
được thức ăn bổ dưỡng: Người mục-tử tinh thần cần chính mình nuôi dân hay chỉ
cho dân tới những thức ăn tinh thần như Lời Chúa, các bí-tích, và đời sống cầu
nguyện kết hợp với Thiên Chúa.
(3) Chiên không người chăn sẽ làm mồi cho
thú dữ: Người mục-tử tinh thần cần sớm nhận ra và chỉ cho đoàn chiên biết những
cám dỗ nguy hiểm và cạm bẫy của cuộc đời: lối sống ích kỷ, hưởng thụ, tôn thờ vật
chất, giết hại thai nhi, thay vợ đổi chồng, tự do quá trớn …
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mối liên hệ giữa mục-tử và đoàn chiên
đòi hai chiều: mục-tử cần yêu thương và lo lắng cho đoàn chiên; trong khi đoàn
chiên cần vâng lời và giúp đỡ mục tử chu toàn nhiệm vụ. Cả hai cần phải thi
hành thánh ý của Thiên Chúa, làm sao cho mọi người đạt được ơn cứu độ mà Chúa
Giêsu đã chuẩn bị.
- Mục tử cần cầu xin cho có được sự khôn
ngoan của Thiên Chúa, để biết cách dẫn dắt đoàn chiên sống theo lề luật của
Thiên Chúa và tránh khỏi mọi nguy hiểm của ba thù.
- Các hoạt động tông đồ cần được thăng bằng
với đời sống cầu nguyện. Một đời hoạt động tông đồ không có cầu nguyện sẽ lạc
hướng và dễ rơi vào chán chường, thất vọng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét