Thứ Sáu sau Chúa Nhật 5 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm I) St 2, 18-25
"Các
ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh".
Bài
trích sách Sáng Thế.
Con
rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi dã thú mà Thiên Chúa tạo thành.
Nó
nói với người nữ rằng: "Có phải Thiên Chúa đã bảo: "Các ngươi không
được ăn mọi thứ cây trong vườn?"
Người
nữ trả lời con rắn: "Chúng tôi được ăn trái cây trong vườn; nhưng trái cây
ở giữa vườn, thì Thiên Chúa bảo: "Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu
không, sẽ phải chết".
Rắn
bảo người nữ: "Không, các ngươi không chết đâu. Nhưng Thiên Chúa biết rằng
ngày nào các ngươi ăn trái ấy, mắt các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ biết thiện
ác như thần thánh".
Người
nữ thấy cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh.
Bà
hái trái cây ăn, rồi lại đưa cho chồng, người chồng cũng ăn. Mắt họ liền mở ra
và họ nhận biết mình trần truồng, nên kết lá vả che thân.
Bấy
giờ hai người nghe tiếng Thiên Chúa đi trong vườn địa đàng lúc chiều mát.
Ađam
và vợ ông liền núp trong lùm cây trong vườn địa đàng cho khuất mặt Thiên Chúa.
Ðó
là Lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv. 31, 1-2, 5, 6, 7
Ðáp: Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm. (1a)
Xướng
1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy!
Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có
mưu gian! - Ðáp.
2)
Tôi xưng ra cùng Chúa, tội tôi đã phạm, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu.
Tôi nói: "Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ
tội lỗi cho tôi. - Ðáp.
3)
Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cùng Chúa, trong thời buổi khốn khó
gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nỗi những người nầy.
- Ðáp.
4)
Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong
niềm vui ơn cứu độ. - Ðáp.
* * *
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 11, 29-32; 12, 19
"Israel lìa bỏ nhà Ðavít".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Khi ấy, Giêroboam từ Giêrusalem đi ra,
thì tiên tri Ahia, người Silô mặc áo choàng mới, gặp ông dọc đường. Lúc đó chỉ
có hai người ở ngoài đồng. Ahia cầm lấy áo choàng mới ông đang mặc, xé ra làm
mười hai phần và nói với Giêroboam rằng: "Ông hãy cầm lấy mười phần cho
ông, vì Chúa là Thiên Chúa Israel phán thế này: 'Ðây, Ta sẽ phân chia vương quốc
từ tay Salomon, và Ta sẽ cho ngươi mười chi tộc. Vì Ðavít tôi tớ Ta, và vì
thành Giêrusalem mà Ta đã lựa chọn trong mọi chi tộc Israel, Ta sẽ dành cho
Salomon một chi tộc' ". Như thế, Israel lìa bỏ nhà Ðavít cho đến ngày nay.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 80, 10-11ab. 12-13. 14-15
Ðáp: Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, ngươi hãy nghe Ta răn bảo (c. 11a
& 9a).
Xướng: 1) Ở nơi ngươi đừng có một chúa
tể nào khác cả, ngươi cũng đừng thờ tự một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là
Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra ngoài Ai-cập. - Ðáp.
2) Nhưng dân tộc của Ta chẳng có nghe
lời Ta, Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho chúng cứng
lòng để chúng sinh hoạt tuỳ theo sở thích. - Ðáp.
3) Phải chi dân tộc của Ta biết nghe lời
Ta, Israel biết theo đường lối của Ta mà ăn ở: thì lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ
thù của chúng, và để đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ trở tay! - Ðáp.
* * *
Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin dạy
bảo tôi về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn tôi trong chân lý của Ngài. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mc 7, 31-37
"Người làm cho kẻ điếc nghe được
và người câm nói được".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô,
qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh.
Người ta đem đến cho Người một kẻ điếc
và xin Người đặt tay trên kẻ ấy.
Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt
ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh.
Ðoạn
ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở
ra", tức thì tai anh được sõi sàng.
Chúa
Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả.
Nhưng
Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn.
Họ
đầy lòng thán phục, mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ
điếc nghe được và người câm nói được".
Ðó
là Lời Chúa.
Suy
Niệm:
Ngôn
ngữ là phương tiện cần thiết để con người liên hệ với tha nhân và thế giới.
Không thể nghe để hiểu, không thể nói để truyền thông tư tưởng, thì chẳng khác
gì con người đã chết về mặt tâm lý, trước khi phải chết về mặt thể lý. Ðức
Giêsu đã cứu anh câm điếc, và đưa anh trở lại với thế giới vui tươi sinh động
này.
Cầu
Nguyện:
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con cũng bị cắt đứt với thế giới yêu thương tươi mát này, khi
chúng con sống ích kỷ, hẹp hòi; khi chúng con ghen tuông, đố kỵ... Xin Chúa
giúp chúng con mở tai để lắng nghe tiếng Chúa, tiếng kêu cứu của tha nhân. Xin
cho chúng con biết mở miệng ra để ca tụng Chúa, để an ủi, để trao niềm vui cho
anh chị em chúng con. Nhờ đó, cuộc đời chúng con mới bước đi trong hạnh phúc.
Amen.
Suy
Niệm:
Hãy
mở ra
Michel-Angelo
là một trong những danh họa đã để lại nhiều tác phẩm bất hủ nhất, bất hủ vì giá
trị nghệ thuật siêu vượt thời gian đã đành, mà còn bất hủ vì sự sống động mà
ông đã mặc cho các tác phẩm của ông, điển hình là bức tượng Môsê. Người ta kể lại
rằng sau khi hoàn thành bức tượng này, Michel-Angelo đứng chiêm ngắm một cách
say sưa, và sự sống động của pho tượng làm ông ngây ngất đến độ ông đã cầm búa
gõ vào và thốt lên: "Hãy nói đi".
Quả
thật, lời nói là một trong những biểu lộ sống động nhất của sự sống. Khi chúng
ta mở miệng thốt ra lời, là lúc chúng ta muốn biểu lộ sự sống, đồng thời nói
lên rằng chúng ta đang sống cùng và sống với người khác. Sự hiện diện của chúng
ta trong thế giới này cần phải được xác nhận bằng tiếng nói của chúng ta. Những
người câm điếc một phần nào bị hạn chế trong sự liên lạc với thế giới xung quanh,
sự hiện diện của họ dễ bị người khác quên lãng. Nhưng đáng thương hơn, có lẽ là
những người thấp cổ bé miệng, những người mà tiếng nói không được nhìn nhận, những
người bị tước đoạt quyền được lên tiếng, quyền sống của họ gần như bị khước từ.
Sống
xứng với phẩm giá con người, đó là phải được có tiếng nói. Có lẽ đó cũng là điều
mà Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể cũng muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống
và cái chết của Ngài. Phép lạ chữa người câm điếc như được ghi lại trong Tin Mừng
hôm nay, không chỉ là một chữa lành bệnh tật thân xác, mà còn là dấu chỉ của một
thực tại cao siêu hơn, đó là sự sống đích thực mà Chúa Giêsu muốn mang lại cho
con người. Khi phục hồi người câm điếc trong khả năng nghe và nói, có lẽ Chúa
Giêsu muốn nói với chúng ta rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn
bằng Lời Chúa nữa; con người chỉ có thể sống thực, sống trọn phẩm giá con người,
khi nó biết mở rộng tâm hồn đón nhận và sống Lời Hằng Sống của Chúa.
Cử
chỉ Chúa Giêsu trong phép lạ chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo
Hội lặp lại khi cử hành Bí tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một
phép lạ trong đó chúng ta được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới. Trong
phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Ephrata, Hãy mở ra.
Hãy mở lớn đôi tai để nghe được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của
cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người
khác. Hãy mở miệng để cảm tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa; để nói những
lời của yêu thương và hòa bình, của cảm thông và tha thứ.
Chúa
Giêsu mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Hằng Sống của Chúa, chính
Ngài là lương thực mang lại sự sống đích thực cho chúng ta. Xin cho sự sống ấy
tràn ngập tâm hồn chúng ta để chúng ta lớn lên trong tình yêu Chúa và không ngừng
yêu thương, liên đới, chia sẻ với mọi người xung quanh.
Suy niệm:
Đức Giêsu đã đi một vòng khá xa : từ vùng Tia đi
lên phía bắc để đến Xiđon,
rồi ngài phải quẹo sang hướng đông để đến bên kia Hồ Galilê,
và cuối cùng đi về miền nam để đến vùng Thập Tỉnh.
Vùng này là nơi ngài đã từng trừ quỷ và cho chúng nhập vào bầy heo (Mc 5, 1-20).
Người được khỏi bệnh đã đi rao truyền khắp vùng về điều Đức Giêsu làm cho anh.
Có thể vì thế mà khi ngài trở lại đây,
người ta đã đem đến cho ngài một người bị câm điếc.
Họ chỉ xin một điều đơn giản : xin ngài đặt tay trên anh.
rồi ngài phải quẹo sang hướng đông để đến bên kia Hồ Galilê,
và cuối cùng đi về miền nam để đến vùng Thập Tỉnh.
Vùng này là nơi ngài đã từng trừ quỷ và cho chúng nhập vào bầy heo (Mc 5, 1-20).
Người được khỏi bệnh đã đi rao truyền khắp vùng về điều Đức Giêsu làm cho anh.
Có thể vì thế mà khi ngài trở lại đây,
người ta đã đem đến cho ngài một người bị câm điếc.
Họ chỉ xin một điều đơn giản : xin ngài đặt tay trên anh.
Đức Giêsu chữa cho anh một cách cầu kỳ.
Ngài kéo anh khỏi đám đông, đặt những ngón tay mình vào tai anh,
rồi ngài nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh (c. 33).
Tay của ngài chạm đến những cơ quan bị khiếm khuyết của anh.
Sau đó ngài ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói “Ép-pha-ta.”
“Ép-pha-ta” , “Hãy mở ra!” : đây không phải là một câu thần chú bí ẩn,
nhưng là một lời quyền năng có sức giải phóng anh khỏi những trói buộc từ lâu.
Ngài kéo anh khỏi đám đông, đặt những ngón tay mình vào tai anh,
rồi ngài nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh (c. 33).
Sau đó ngài ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói “Ép-pha-ta.”
“Ép-pha-ta” , “Hãy mở ra!” : đây không phải là một câu thần chú bí ẩn,
nhưng là một lời quyền năng có sức giải phóng anh khỏi những trói buộc từ lâu.
“Lập tức
tai anh được mở ra.”
Người điếc là người tai bị khép lại, nên không nghe được,
bị bưng bít, không tiếp xúc được với thế giới bên ngoài,
không hiểu được điều người khác muốn nói.
Ngày nay người ta nói nhiều đến nghệ thuật lắng nghe,
bởi lẽ đôi lúc chúng ta đã mất khả năng nghe, hay trở nên lãng tai.
Người điếc là người tai bị khép lại, nên không nghe được,
bị bưng bít, không tiếp xúc được với thế giới bên ngoài,
không hiểu được điều người khác muốn nói.
Ngày nay người ta nói nhiều đến nghệ thuật lắng nghe,
bởi lẽ đôi lúc chúng ta đã mất khả năng nghe, hay trở nên lãng tai.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
Xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
Xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
Xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
Xin biến đổi tai con.
Xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
Xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
Xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn
Sau mỗi lần gặp Chúa.
Sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
Trong nụ cười của con,
Thấy sự dịu dàng của Chúa
Trong lời nói của con.
Trong nụ cười của con,
Thấy sự dịu dàng của Chúa
Trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu
Có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
Cùng đi với Chúa và với tha nhân
Trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen
Cùng đi với Chúa và với tha nhân
Trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen
Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu, S.J.
10/02/12 THỨ SÁU TUẦN 5
TN
Th. Côláttica, trinh nữ
Mc 7,31-37
*****
ÉPPHATHA, HÃY MỞ RA!
Người ngước mắt lên trời, thở dài và nói: “Ép-pha-tha, hãy mở ra!”
Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
(Mc 7,34-35)
Suy niệm: Đã không nghe lại không nói được, cuộc đời của người câm
điếc như bị đóng lại trước một thế giới đang mở ra. Anh giống như người tù biệt
giam không thể có mối tương quan nào với tha nhân. Chúa Giêsu không chữa
lành cho anh theo kiểu người thợ chữa một cái máy. Thái độ ân cần của Chúa “kéo
riêng anh ra khỏi đám đông” và những cử chỉ chăm sóc tận tình, đụng chạm đến
tai anh, xức nước miếng vào lưỡi anh, đã giúp anh tái lập mối tương quan với
Ngài trước khi mở lại mối quan hệ với người khác. Khi “tai được mở ra và lưỡi hết
bị buộc lại” là lúc anh ta cũng được mở ra với thế giới và có khả năng cần thiết
để nối kết tương giao với mọi người.
Mời Bạn: Về phương diện thiêng liêng, có lẽ lắm khi chúng ta cũng
đã từng bị câm điếc mà không biết. Điếc là đóng tai lòng lại, làm ngơ trước Lời
Chúa, và lời giảng dạy của những người có trách nhiệm. Câm là hờ hững, sợ sệt
không dám mở miệng loan báo Tin Mừng. Để chữa bệnh câm điếc thiêng liêng, trước
tiên mời bạn mỗi ngày hãy mở sách Tin Mừng để đọc và suy niệm Lời Chúa, và xin
Chúa mở lòng bạn để tâm hồn bạn được đánh động và biến đổi nhờ Lời Chúa. Lúc đó
môi miệng bạn mới sẵn sàng để mở ra và loan báo Tin Mừng.
Sống Lời Chúa: Cầu nguyện mỗi sáng khi thức dậy: “Lạy Chúa Trời
xin mở miệng con, để con nói lời của Chúa.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa, nhiều lúc tâm hồn con đã bị đóng lại không
nghe và không nói Lời Chúa. Xin Chúa nói lời “Ép-pha-tha” với tâm hồn con như
xưa Chúa đã nói với người câm điếc.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Scholastica, trinh nữ; 1V 11, 29-32; 12,19; Tin Mừng
theo Thánh Mc 7, 31-37.
LỜI SUY NIỆM: Người ta đem một người vừa
điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo
riêng anh ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà
bôi vào lưởi anh. (Mc 7, 32-33).
Những cử chỉ của Chúa Giêsu đối với người khuyết tật này cho chúng ta thấy sự
quan tâm của Chúa Giêsu hết sức tế nhị, và yêu thương anh ta, Ngài giúp cho anh
ta tránh khỏi những mặc cảm mà anh thường phải gánh lấy một cách khó chịu và
đau khổ khi phải tiếp xúc với người khác. Trong đời sống người Ki-tô hữu của
chúng ta cũng có những khuyết tật trong linh hồn của mình, chúng ta đôi khi
cũng cố tránh những cuộc tiếp xúc với những người khác. Những khuyết tật này
chúng ta cần phải đến với Chúa Giêsu. Ngài có quyền năng và đầy yêu thương,
Ngài biết rõ nguyên nhân và Ngài sẽ chữa lành cho chúng ta.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 10-02
Thánh SCÔLASTICA
Đồng
trinh (480-543)
Thánh Scholastica là em gái thánh Benêdictô, tổ
phụ của những đời sống khổ tu bên Tây phương. Ngài còn được nối kết với thánh
nhân như người em sinh đôi, nhưng không chắc chắn lắm. Chúng ta biết được chút
ít về đời sống của thánh nữ là do cuốn Dialogue, tập hai, của thánh Grêgôriô cả,
cuốn sách ghi lại đời sống thánh Bênêdictô và các phép lạ của Ngài. Như anh của
Ngài, thánh nữ Scholastica đã sinh ra tại quận Sabina miền Nursia và cha mẹ
Ngài được giả thuyết cho là những người dòng dõi quí phái tai miền quê.
Vào một lúc nào đó, có lẽ khi còn rất trẻ,
Scholastica đã tu kín và trong những năm cuối cùng đời Ngài, chúng ta thấy Ngài
sống gần Montê Cassinô, để có thể gặp được anh mình mỗi năm một lần.
Khi thánh Bênêdictô thiết lập tu viện tại Montê
Cassiô, Scholastica cùng với các trinh nữ quây quần bên Ngài đã đến ở bên núi,
lập thành tu viện Palumbariola, Ngài đặt mình dưới sự hứơng dẫn của anh, vì
Ngài biết rằng: không có ai có thể hướng dẫn các linh hồn về trời cách chắc chắn
hơn.
Nhưng Ngài không hề làm rộn anh mình và chỉ gặp
anh mỗi năm một lần vào trước mùa chay, trong một trang trại của tu viện ở miền
núi. Một nguyện đường đã được dựng nên tại đây để ghi nhớ những giây phút khôn
tả, mà thánh Bênêdictô thông cho em mình ánh sáng thần linh Ngài thụ lãnh được
và dạy dỗ em mình đường trọn lành của tu sĩ trong thống hối và yêu thương.
Nhưng lần ấy họ đã trải qua một ngày để khen ngợi
Chúa và cầu xin hạnh phúc trên trời, bên ngoài khí trời tươi mát vì đã vào
xuân, bầu trời trong sáng lạ thường, thánh Scholastica say sưa cảm nếm hương vị
của câu chuyện đàm thọai trong khi màn đêm buông dần xuống... lúc đó thánh
Scholastica nới với thánh Bênêdictô: - Anh ơi trời khuya rồi, làm sao anh về được.
Thôi mình tiếp tục nói chuyện tới sáng về niềm vui cuộc sống trên trời đi.
Thánh Bênêdictô trả lời: - Em nói chi, anh không
thể nhận lời em được. Anh không thể qua đêm ở ngoài nhà dòng được đâu.
Thánh Scholastica dấu mặt vào đôi lòng bàn tay
và nức nở khóc. Ngài nói với Chúa ước muốn êm ái của lòng mình. Và Thiên Chúa
là đấng đã chúc phúc cho cả một cuộc sống hiến dâng, lại sắp gọi thánh nữ về với
mình, nên như người cha chiều con vậy, đã muốn ban cho Ngài niềm an ủi dịu dàng
cuối cùng. Một trận cuồng phong nổi lên. Mưa đổ xuống như thác lũ với sấm sét dữ
dằn. Chẳng ai còn có thể nghĩ tới việc ra đi nữa.
Thánh Bênêdictô bối rối, Ngài nói: - Này em, em
làm gì vậy ?
Thánh Scholastica êm ái trả lời: - Em đã xin
anh, nhưng anh chẳng muốn nghe em. Em đã cầu xin Chúa và Ngài đã nhận lời. Bây
giờ nếu có thể được, anh hãy về nhà dòng đi.
Lúc ấy thánh Bênêdictô cảm tạ lòng thương xót
Chúa, Ngài tiếp tục nói chuyện về hạnh phúc đang chờ đón những người Chúa chọn.
Lời Ngài dâng cao như những chùm ánh sáng.
Đến sáng cơn giông ngừng. Anh em mỗi người một
ngả và không còn gặp nhau trên trần gian này lần nào nữa.
Ba ngày sau, khi thánh Bênêdictô đang đứng bên cửa
sổ đã thấy linh hồn em mình bay lên như ánh chim câu, phủ đầy ánh sáng thiên
đàng. Say mê với thị kiến này, Ngài cất cao giọng hát bài thánh Ca. Đó chính là
lúc thánh Scholastica êm ái tắt hơi trong tu viện mình. Thánh Bênêdictô sai các
tu sĩ đi tìm xác em để chôn trong ngôi mộ dọn sẵn cho mình.
Một tháng sau nhà ẩn tu vĩ đại cũng từ giã cõi
thế để hợp với thánh Scholastica trong hạnh phúc của các thánh nhân mà họ đã
tha thiết khơi dậy.
(Daminhvn.com)
+++++++++++++++++
10 Tháng Hai
Liều Thuốc Dành Cho Kẻ Chán Ðời
Một người đàn ông chán đời
nọ đang đứng nhìn dòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông đốt một điếu thuốc cuối
cùng trước khi kết liễu cuộc đời.
Ông không còn lối thoát
nào khác hơn nữa. Ông đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường trong tâm hồn.
Ông đã đi đây đi đó, ông đã tìm lạc thú trong các cuộc vui trác táng, ông đã chạy
đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng chán chường vẫn cứ chán chường.
Ông thử thời vận lần cuối cùng bằng một cuộc hôn nhân, nhưng không có một người
đàn bà nào có thể ở bên cạnh ông được vài tháng, bởi vì ông đòi hỏi quá nhiều,
nhưng lại không biết nghĩ đến người khác. Ông nhận ra rằng ông đã chán chường
mà cũng không ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có dòng sông may ra mới mang
lại cho ông sự thanh thản.
Người đàn ông chưa hút
xong điếu thuốc thì cũng có một người hành khất cũng đi qua chiếc cầu. Con người
rách rưới đó dừng lại nhìn người đàn ông và chìa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông
chán chường không ngần ngại rút cả ví tiền và trao cho người hành khất. Ông giải
thích rằng bên kia thế giới ông không cần tiền bạc nữa. Người hành khất cầm lấy
chiếc ví một lúc rồi trao lại cho khổ chủ. Ông ta nhìn thẳng vào đôi mắt của kẻ
chán đời và nói: "Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế. Tuy là
một người hành khất, nhưng tôi không là một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ lại tiền của
ông và đem qua bên kia thế giới của ông". Nói xong, người hành khất ném cả
ví tiền xuống dòng sông rồi lặng lẽ bước đi, bỏ mặc kẻ chán đời tiếp tục gặm nhấm
nỗi đắng cay chua xót của ông.
Ðã hút xong điếu thuốc,
nhưng kẻ chán đời vẫn muốn chưa kết liễu cuộc đời. Ông nhìn theo người hành khất
đang khuất xa dần. Tự nhiên, ông không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt lại chiếc
ví để trao tặng cho người hành khất. Chưa một lần trong đời, ông biết mở ví
trao tặng cho bất cứ người nào. Giờ phút này. ông muốn mở rộng tâm hồn, mở rộng
đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống. Nghĩ như thế, kẻ chán đời đứng thẳng
lên, rời bỏ cây cầu và tiếp tục đuổi theo cho kỳ được người hành khất.
Không gì buồn chán cho bằng
sống không có định hướng, không có lẽ sống. Sống mà không biết tại sao mình sống,
mình sẽ đi về đâu là điều làm cho con người chán chường và đau khổ nhất.
Ai cũng khao khát hạnh
phúc, ai cũng đi tìm hạnh phúc nhưng lắm khi người ta chỉ chạy theo ảo ảnh của
hạnh phúc. Ai cũng biết rằng tiền tài, danh vọng và lạc thú trong cuộc sống tự
nó không phải là hạnh phúc và lắm khi chúng cũng không mang lại hạnh phúc cho
con người.
Hạnh phúc không phải là
một nơi để đi đến, hạnh phúc là một hướng đi. Có đi theo hướng đó, con người mới
cảm thấy được hạnh phúc. Vậy hướng đi của chúng ta là gì?
Chúa Giêsu, Ðấng là Ðường,
là Sự Thật và là Sự Sống, đã vạch ra cho chúng ta hướng đi ấy. Và hướng đi Ngài
đã vạch ra chính là Sống cho tha nhân. Ai càng tích trữ và chiếm giữ cho mình,
người đó càng nghèo nàn và khốn khổ. Ai càng đóng kín quả tim và khép chặt bàn
tay, người đó sẽ không được nhận lãnh. Hạnh phúc đích thực chính là trao ban, bởi
vì như Thánh Phaolô đã ghi lại lời của Chúa Giêsu: "Cho thì có hạnh phúc
hơn nhận lãnh".
Cho là liều thuốc chữa trị
được căn bệnh trầm trọng nhất trong tâm hồn chúng ta: đó là sự chán sống. Cho
cũng là liều thuốc xoa dịu được mọi khổ đau trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta
đang đau khổ vì bị phản bội, vì thất chí, vì bệnh tật hay vì bất cứ một nguyên
do nào: chúng ta hãy thử mở rộng tâm hồn để trao ban, để san sẻ. Chúng ta sẽ cảm
thấy được xoa dịu trong tâm hồn.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần V TN2
Bài đọc: Gen 3:1-8; I Kgs
11:29-32, 12:19; Mk 7:31-37.
1/ Bài đọc I (năm lẻ):
1 Rắn
là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên
Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo:
"Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?
2 Người
đàn bà nói với con rắn: "Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn.
3 Còn
trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: "Các ngươi không được ăn,
không được động tới, kẻo phải chết."
4 Rắn
nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu!
5 Nhưng
Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà
sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác."
6 Người
đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho
mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó
với mình; ông cũng ăn.
7 Bấy
giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố
che thân.
8 Nghe
thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày,
con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Đức
Chúa là Thiên Chúa.
2/ Bài đọc I (năm chẵn):
29 Một
hôm, khi Gia-róp-am từ Giê-ru-sa-lem đi ra, thì dọc đường gặp ngôn sứ
A-khi-gia, người Si-lô; ông này khoác một chiếc áo choàng mới. Lúc ấy chỉ có
hai ông ở ngoài đồng. 30 Ông A-khi-gia lấy chiếc áo mới mình
đang mặc, xé ra làm mười hai mảnh.
31 Rồi
ông nói với Gia-róp-am: "Anh cầm lấy mười mảnh, vì Đức Chúa, Thiên Chúa
Ít-ra-en phán như sau: "Này Ta sẽ giựt vương quốc khỏi tay Sa-lô-môn để
trao cho ngươi mười chi tộc.
32 Nó
vẫn còn được một chi tộc, vì nể Đa-vít, tôi tớ Ta, và vì Giê-ru-sa-lem thành đô
Ta đã chọn trong tất cả chi tộc Ít-ra-en.19 Thế là Ít-ra-en ly khai với nhà Đa-vít
cho tới ngày nay.
3/ Phúc Âm:
31 Đức
Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh. 32 Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng
đến với Đức Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh.
33 Người
kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng
mà bôi vào lưỡi anh.
34 Rồi
Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Ép-pha-tha", nghĩa
là: hãy mở ra!
35 Lập
tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.
36 Đức
Giê-su truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền
bảo họ, họ lại càng đồn ra.
37 Họ
hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm
cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được."
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Sa ngã và tội lỗi
Tại sao con người phạm tội?
Người Do-thái, qua những tài liệu của Qumran, quan niệm cuộc đời là bãi chiến
trường giữa Thiên Chúa và ma quỉ, giữa sự thiện và sự ác, giữa con cái của ánh
sáng và con cái của bóng tối. Thiên Chúa muốn con người làm những sự tốt lành
vì họ là con cái của ánh sáng. Ngược lại ma quỉ muốn con người làm những điều
gian ác, để thuộc về con cái của bóng tối giống như chúng. Con người bị giằng
co giữa hai bên, và phải xử dụng tự do để quyết định những gì nên làm và nên
tránh.
Để giúp con người trở nên tốt
lành và gìn giữ con người khỏi tội lỗi và sự chết, Thiên Chúa dạy dỗ để con người
biết phân biệt tốt khỏi xấu, và báo trước những hậu quả của các hành động vâng
phục hay bất tuân lệnh của Ngài. Ngược lại, để cám dỗ con người phạm tội, ma quỉ
phô trương ra những điều hấp dẫn bên ngoàii và ẩn giấu đi những điều thiệt hại
bên trong; vì nếu phô trương ra sự thật, làm sao chúng có thể lôi kéo con người!
Chúng làm con người hy vọng những gì Thiên Chúa nói là sai, và hậu quả mà Thiên
Chúa báo trước sẽ không như vậy.
Các Bài Đọc hôm nay cho thấy
tội lỗi xảy ra khi con người lạm dụng tự do để bất tuân lệnh truyền của Thiên
Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả Sách Sáng Thế Ký trình bày sự sa ngã đầu
tiên của Adong và Evà. Ông bà sa ngã vì đã tin vào những gì ma quỉ cám dỗ qua
con rắn, qua việc ăn trái cây biết thiện và ác mà Chúa đã ngăn cấm. Trong Bài Đọc
I, năm chẵn, Thiên Chúa chia cắt vương quốc của ông thành 12 mảnh: Ngài trao
cho Jeroboam 10 mảnh, dòng họ David chỉ còn giữ lại được một mảnh là Judah, với
thủ đô đặt tại Jerusalem. Đây là hậu quả của tội của vua Solomon, đã bỏ Thiên
Chúa để tôn thờ bụt thần của các bà vợ. Trong Phúc Âm, mặc dù Chúa Giêsu đã
ngăn cấm con dân chúng đừng loan truyền phép lạ Chúa làm, họ vẫn bất tuân và
loan truyền khắp nơi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Sa ngã đầu tiên của con người
1.1/ Ma quỉ và con người:
Ma quỉ được tác giả so sánh như loài rắn, vì sự ma lanh và quỉ quyệt của nó: “Rắn
là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên
Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo:
"Các ngươi không được ăn hết mọi trái
cây trong vườn không?” Cám dỗ của ma quỉ đầu tiên là phóng đại lệnh truyền của
Thiên Chúa, với mục đích làm cho con người thấy sự vô lý của lệnh truyền và sự
khắc nghiệt của Thiên Chúa. Lần cám dỗ đầu tiên, người đàn bà nhận ra sự thật,
và đã sửa sai con rắn về tính phóng đại của nó: "Trái các cây trong vườn,
chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: "Các
ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết."”
1.2/ Ma quỉ biết rõ những
gì con người muốn: Kế tiếp, rắn cám dỗ con người về hậu quả của việc làm. Rắn
nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày
nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị
thần biết điều thiện điều ác." Chúng ta thấy sự ma lanh của rắn ở đây: Nó
phủ nhận sự chết, nhưng nhấn mạnh đến việc trở thành “những vị thần biết điều
thiện điều ác,” như tên Thiên Chúa gọi “cây cho biết thiện và ác.” Chúng biết
con người thích tự do, độc lập; và không muốn tùy thuộc vào ai trong việc làm
quyết định. Nếu biết thiện và ác, con người sẽ không cần lắng nghe những gì
Thiên Chúa dạy dỗ, và sẽ không lệ thuộc vào Thiên Chúa nữa. Con người sa ngã vì
cả những hấp dẫn bên ngoàii của trái cây và ước muốn được trở nên thần thánh
bên trong: “Người đàn bà thấy trái cây đó hấp dẫn để ăn, trông thì đẹp mắt, và
đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa
cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn.”
1.3/ Hậu quả của việc bất
tuân lệnh truyền của Thiên Chúa: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình
trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân. Nghe thấy tiếng Đức Chúa là
Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn
vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Đức Chúa là Thiên Chúa.” Đúng như
tên gọi của cây: ông bà biết điều thiện và điều ác; thay vì chỉ biết điều thiện
như trước đây. Ông bà không những biết điều xấu, mà còn biết xấu hổ vì đã làm
điều xấu.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Này Ta sẽ giựt vương quốc khỏi tay Solomon để trao
cho ngươi mười chi tộc.
Vì vua Solomon đã phản bội
Thiên Chúa, Ngài quyết định chia cắt đất nước thành hai. Jeroboam được Thiên
Chúa chọn để lãnh đạo vương quốc Israel miền Bắc, trong khi con vua Solomon là
Rehoboam sẽ lãnh đạo vương quốc Judah miền Nam. Jeroboam là con ông Nebat, người
Ephraim, thuộc Zeredah; bà Zerua mẹ ông là một quả phụ. Ông đã từng phục vụ vua
Solomon. Vua thấy Jeroboam là người có khả năng và đảm đang công việc, nên đặt
chàng phụ trách toàn thể dân công nhà Giuse.
2.1/ Hành động biểu tượng của
việc xé áo thành 12 mảnh: "Một hôm, khi Jeroboam từ Jerusalem đi ra, thì dọc
đường gặp ngôn sứ Ahijia, người quê ở Shiloh; ông này khoác một chiếc áo choàng
mới. Lúc ấy chỉ có hai ông ở ngoài đồng. Ông Ahijia lấy chiếc áo mới mình đang
mặc, xé ra làm mười hai mảnh." Ngôn sứ của Thiên Chúa không chỉ nói những
gì Thiên Chúa muốn, nhưng đôi khi còn biểu tỏ những hành động biểu tượng như việc
xé áo thành 12 mảnh hôm nay. Mục đích là để cho dân chúng hiểu rõ hơn những gì
Thiên Chúa muốn.
2.2/ Ý nghĩa của việc xé
áo: Rồi ông nói với Jeroboam: "Anh cầm lấy mười mảnh, vì Đức Chúa, Thiên
Chúa Israel phán như sau: "Này Ta sẽ giựt vương quốc khỏi tay Solomon để
trao cho ngươi mười chi tộc. Nó vẫn còn được một chi tộc, vì nể David, tôi tớ
Ta, và vì Jerusalem thành đô Ta đã chọn trong tất cả chi tộc Israel." Một
người có thể đặt câu hỏi ngay sau khi đọc những lời này: Vẫn còn thiếu một chi
tộc nữa. Lý do có thể là lúc đó chi tộc Simeon đã được tháp nhập thành một với
chi tộc Judah.
Nhìn lại lịch sử, vua David
có công thống nhất 12 chi tộc của Israel; nhưng sự thống nhất này chỉ được khoảng
80 năm: 40 năm cai trị của David và 40 năm cai trị của Solomon. Sau thời của
Solomon, đất nước lại bị chi cắt làm hai: 10 chi tộc phía Bắc thành lập lên
vương quốc Israel với thủ đô đặt tại Samaria, và hai chi tộc phía Nam, Judah và
Simon, làm thành vương quốc Judah, với thủ đô đặt tại Jerusalem. Sự chia cắt
này còn tồn tại cho tới ngày nay.
Giống như trường hợp của
vua David, tội lỗi cá nhân không chỉ ảnh hưởng đến nhà vua, nhưng còn ảnh hưởng
đến gia đình và quốc gia; tội của vua Solomon cũng thế, nó không chỉ ảnh hưởng
đến việc tiêu tan quyền lực của nhà vua, nhưng còn ảnh hưởng đến sự đoàn kết của
các chi tộc của Israel.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chữa một người ngọng và điếc.
3.1/ Cách Chúa chữa bệnh: Trình thuật kể: “Người
kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng
mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói bằng tiếng Aramaic:
"Ephphatha!" nghĩa là: Hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như
hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.” Một người có thể nhìn thấy sự khác lạ
của phép lạ này nếu đem so sánh với các phép lạ khác; vì trong hầu hết các phép
lạ khác, người bệnh cứ ở vị trí của mình, Chúa Giêsu chỉ cần phán là người bệnh
được khỏi. Sở dĩ Chúa phải kéo riêng anh ra một nơi, vì anh điếc không nghe được
những gì Ngài truyền; và cũng để tránh việc anh có thể làm trò cười cho thiên hạ
khi anh không hiểu ý Ngài. Lý do tại sao Chúa phải dùng những cử động có lẽ cho
lợi ích của bệnh nhân, để anh biết nguyên nhân của bệnh.
3.2/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu và phản ứng của
dân chúng:
(1) Tại sao Chúa Giêsu ngăn cấm họ không được
rao truyền? Trong Tin Mừng Marcô, chúng ta thường thấy Chúa Giêsu ngăn cấm dân
chúng không cho loan truyền những phép lạ Ngài làm, vì lý do “bí mật của Đấng
Thiên Sai.” Người Do-thái, cũng như đa số con người, dễ chấp nhận một Đấng
Thiên Sai uy quyền, làm các phép lạ vĩ đại để cứu thóat con người, và giải
phóng quốc gia họ khỏi quyền lực ngọai bang. Họ không thể chấp nhận một Đấng
Thiên Sai hiền lành, chịu đánh đòn và đóng đinh trên Thập Giá, và giải thóat
con người bằng yêu thương và chịu đau khổ. Chúa Giêsu làm phép lạ vì thương
dân, không muốn dân chịu đau khổ vì bệnh tật; đồng thời Ngài cũng muốn cho dân
tin vào Ngài qua uy quyền làm phép lạ. Điều Ngài không muốn là dân chúng chỉ
quen với hình ảnh một Đấng Thiên Sai uy quyền, không để ý đến những điều Ngài
giảng dạy, và mất niềm tin khi thấy Ngài chịu treo trên Thập Giá.
(2) Phản ứng của dân chúng: “Nhưng Người
càng truyền bảo, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông ấy
làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được."”
Dân chúng nghĩ việc loan truyền những điều Chúa làm là phải, để mọi người có cơ
hội biết đến và tin vào Ngài. Chúa Giêsu lại không muốn những niềm tin đặt căn
bản trên phép lạ, vì nó sẽ phai lạt nhanh chóng khi không còn phép lạ nữa. Ngài
cần những niềm tin đặt trên hiểu biết và yêu thương, mới có thể giúp con người
vượt qua những sóng gió đau khổ của cuộc đời. Chỉ cần quan sát cảnh tượng xảy
ra tượng xảy ra dưới chân cây Thập Giá, một người có thể cảm thấy sự mong manh
của những niềm tin đặt căn bản trên phép lạ; cũng như những niềm tin đặt trên
cơm bánh.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa dựng nên mọi sự tốt lành, và những
gì Ngài truyền cho con người phải giữ là cho sự tốt lành của con người. Chúng
ta cần tuân giữ để có được và bảo vệ những tốt lành đó.
- Mọi sự xấu xa và tội lỗi là do ma quỉ và con
người gây nên, vì con người đã không biết xử dụng tự do Thiên Chúa ban để tuân
giữ những gì Thiên Chúa truyền dạy.
- Chúng ta không thắng được ma quỉ bằng sức
riêng của mình; chúng ta cần được hướng dẫn bởi Lời Chúa để nhận ra tình yêu và
đường lối của Thiên Chúa cho con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Ngày 10
Thánh Côlatttica, trinh nữ
Cát ờ đâu? Tảng đá ờ đâu?
Thánh Côlatttica, trinh nữ
Cát ờ đâu? Tảng đá ờ đâu?
Lạy Chúa! con không muốn trách Chúa như thánh Phêrô đã làm
(Mc 8,32). Con biết rõ điều Chúa sẽ trả lời (Mc 8,33). Nhưng phải thú nhận rằng
thực khó mà bước theo Chúa. Những tư tưởng của con không giống như của Chúa
nhưng cho con trình bày với Chúa một tỉ dụ. Một người dâng hiến để cầu nguyện,
dạy dỗ trong Danh của Chúa, tha thứ tội lỗi trong Danh Chúa, thực hiện nhiều điều
kỳ diệu trong Danh Chúa (Mt 7,22). Con có ý tưởng rằng người này đã xây dựng cuộc
đời họ trên tảng đá, và từ trời Chúa đón nhận họ như một tôi tớ tốt đẹp và
trung thành, (để bước vào niềm vui của chủ mình. Nhưng không phải là hết! Chúa
lại xác quyết con người này xây cuộc đời mình trên cát (Mt 7,26) và trong ngày
phán xét, Chúa nói với người ấy: Hãy đi khỏi mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác.
(Mt 7,23).
Lạy Chúa! con đã nghe Lời Chúa và không muốn gì khác là đem ra thực hành. Chúa muốn con hiểu rằng không một thụ tạo nào, cho dù đầy tràn ân sủng, cũng không bao giờ vượt trên Chúa cả? Còn Chúa, Chúa đã dâng hiến cả cụộc đời trên trái đất này chỉ để thực hiện ý Thiên Chúa. Ý của Chúa Cha, đó là điều duy nhất mà con người có thể nhìn vào trong Danh Chúa.
Lạy Chúa! con đã nghe Lời Chúa và không muốn gì khác là đem ra thực hành. Chúa muốn con hiểu rằng không một thụ tạo nào, cho dù đầy tràn ân sủng, cũng không bao giờ vượt trên Chúa cả? Còn Chúa, Chúa đã dâng hiến cả cụộc đời trên trái đất này chỉ để thực hiện ý Thiên Chúa. Ý của Chúa Cha, đó là điều duy nhất mà con người có thể nhìn vào trong Danh Chúa.
James Haggerty
Thánh nữ Scolastica
Trinh nữ
Người Ý (480-547?)
1. Mồ côi mẹ từ nhỏ: Người ta không biết nhiều về thánh Côlastica. Cô là người nước Ý, là em sinh đôi với thánh Benedictô. Hai
anh em mồ côi mẹ từ nhỏ và sống dưới tình thương của người cha hiền lành đạo đức. Trong cuốn
“Cuộc Đối thoại” của thánh Gregoriô Cả, ta biết được ít nhiều về 2 vị thánh
này:
2. Anh em đều lập dòng: Thanh niên Benedictô học tại Rôma,
nhưng quyết định hiến cuộc đời để tìm Thiên Chúa . Ông đã lập được mấy tu viện,
nhưng tu viện nổi tiếng nhất là tu viện trên đỉnh núi Monte Casinô. Sau đó,
Côlastica giúp anh mình lập tu viện cho nữ giới, cách xa tu viện nam chừng 8
cây số. Cha Benedictô huấn luyện cho các nữ tu, còn Côlastica là bề trên.
3. Gặp nhau lần chót: Hàng năm hai anh em gặp nhau một lần để nói chuyện về đời sống thánh thiện. Lần gặp gỡ cuối cùng tại nhà dòng các cha, trời đã tối, Côlastica
còn muốn nói truyện thêm, có lẽ bà biết đây là lần cuối cùng anh em gặp nhau
trên dương thế? Anh Bênêdicto không bằng lòng, vì luật dòng không cho phép ở
ngoài tu phòng mình ban đêm, nhưng em cúi đầu xin Chúa, tức thì một cơn mưa lớn
đổ xuống, khiến anh không thể từ nhà khách về phòng được. Anh em lại tiếp tục
nói truyện thiêng liêng cho tới sáng. Ba hôm sau Côlastica qua đời. Từ trong
phòng mình, cha Benedictô thấy linh hồn em như chim bồ câu bay về trời.
Ngài đã nhờ các thầy đem xác em mình về chôn trong ngôi mộ dành sẵn cho ngài
trong tu viện núi Casinô, ngày nay vẫn còn đó. Thánh Gregorio Cả viết thêm về
thánh Côlastica: "Ngài có thể làm nhiều hơn, vì ngài yêu nhiều hơn".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét