Thứ Tư Ngày 05/06/2013
Tuần IX Thường Niên – Năm C
BÀI ĐỌC I: Tb 3, 1-11. 24-25 (Hl 1-11. 16)
"Lời cầu nguyện
của hai người trước tôn nhan vinh quang của Thiên Chúa Cao Cả, được chấp
nhận".
Trích sách Tôbia.
Trong những ngày ấy, Tôbia thổn thức và khóc
lóc cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, Chúa công bình, mọi sự xét đoán của Chúa
đều công minh, mọi đường lối của Chúa là từ bi, chân lý và phán quyết. Lạy
Chúa, giờ đây xin hãy nhớ đến con, xin đừng báo oán tội lỗi con, xin đừng nhớ
đến những lỗi lầm của con và của cha ông con. Bởi chúng con đã không vâng theo
các giới răn của Chúa, nên Chúa để cho chúng con bị cướp bóc, tù đày, chết
chóc, nhạo báng, và khinh bỉ nơi các dân mà chúng con bị lưu đày. Lạy Chúa, giờ
đây sự xét xử của Chúa thật cao cả và công bình, vì chúng con không sống theo
giới răn Chúa, và không thành tâm tiến bước trước thánh nhan Chúa. Lạy Chúa,
giờ đây xin cứ đối xử với con theo thánh ý Chúa, và xin hãy cho linh hồn con
được an nghỉ; vì thà con được chết còn hơn sống!"
Cũng trong ngày đó, xảy ra là Sara, con gái
của Raguel, người thành Mêđi, cũng bị một đứa đầy tớ gái của cha cô lăng mạ,
bởi vì cô đã kết hôn với bảy người đàn ông, nhưng khi họ vừa đến gần cô, thì bị
quỷ Asmođêô giết chết ngay. Vậy khi một đứa tớ gái có lỗi, cô quở mắng nó, nó liền
trả lời rằng: "Đồ sát chồng, chúng tôi sẽ không nhìn thấy con trai con gái
của bà trên mặt đất này. Nào bà muốn giết tôi như đã giết bảy người chồng của
bà đó sao?" Nghe lời đó, cô liền đi thẳng lên lầu nhà cô, và trong ba ngày
đêm, cô không ăn uống gì cả, cô chỉ cầu nguyện, khóc lóc than van cùng Thiên
Chúa, mong Người cứu thoát cô khỏi cảnh nhục nhã ấy.
Lúc ấy, lời cầu nguyện của hai người trước tôn
nhan vinh quang của Thiên Chúa Cao Cả, được chấp nhận. Chúa liền sai thiên thần
Raphael đến để cứu giúp hai người trong chính lúc họ dâng lời cầu nguyện lên
trước tôn nhan Chúa. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 24, 2-4a. 4b-5ab.
6-7bc. 8-9
Đáp: Lạy Chúa, con vươn linh hồn lên tới Chúa (c. 1b).
1)
Con tin cậy vào Chúa, xin đừng để con tủi hổ. Xin đừng để quân thù hoan hỉ về
con. Phàm ai trông cậy Chúa, ắt chẳng hổ ngươi, hổ ngươi sẽ là những kẻ liều
thân phản bội. - Đáp.
2)
Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của
Ngài. Vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con, và con luôn luôn cậy trông vào
Chúa. - Đáp.
3)
Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn
có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài,
thân lạy Chúa. - Đáp.
4)
Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối, Ngài
hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối
của Ngài. - Đáp.
ALLELUIA: Tv 129, 5
Alleluia,
alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa.
- Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 12, 18-27
"Người không phải
là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến cùng Chúa
Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng: "Thưa Thầy,
luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết đi, để lại một
người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em
mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ
hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả
bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống
lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả
bảy anh em đã cưới người đó làm vợ". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Các
ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa,
như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì không lấy
vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ chết sống
lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên
Chúa phán cùng Môsê rằng: 'Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp'.
Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống. Vậy các ông
thật lầm lạc". Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Có sự sống lại
Tin
Mừng hôm nay mô tả cuộc đụng độ đầu tiên giữa Chúa Giêsu và nhóm người Sađốc.
Những người Sađốc thuộc về hàng tư tế quí tộc. Về mặt chính kiến, họ theo bọn
xâm lược. Về mặt tôn giáo, họ rất bảo thủ. Ðối với họ, lề luật phải tuân theo
chỉ có trong năm cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh. Họ phi bác mọi giáo
thuyết xuất hiện sau này do các tiên tri và các bậc trí giả giảng dạy, chẳng
hạn việc kẻ chết sống lại. Do đó chẳng có gì ngạc nhiên khi họ tấn công Chúa
Giêsu về vấn đề này.
Thật
thế, dựa vào niềm tin mà họ cho là đúng đắn, những người Sađốc bắt đầu hỏi Chúa
Giêsu bằng bộ luật Môsê, theo đó khi người chồng chết, nếu người vợ anh ta chưa
có con, thì người anh (hoặc em) chồng phải cưới bà này để nối dõi tông đường.
Họ
đặt ra trường hợp một người đàn bà có bảy đời chồng, vào lúc sống lại, bà ấy sẽ
là vợ của ai trong bảy người anh em vì tất cả đã lấy bà làm vợ? Những người
Sađốc hỏi thế, không phải vì thành tâm tìm kiếm để sống theo sự thật, mà chỉ để
đùa giỡn với sự thật mà thôi.
Chúa
Giêsu biết rõ họ ngoan cố và cố ý thử thách Ngài, nhưng Ngài vẫn điềm tĩnh và
chỉ cho họ thấy sự dốt nát lầm lẫn của họ: Thứ nhất, họ thiếu hiểu biết Kinh
Thánh và quyền năng của Thiên Chúa; thứ hai, hoàn cảnh con người sau khi sống
lại hoàn toàn thay đổi, không giống như lúc còn sống ở trần gian này. Chúa
Giêsu nói rõ có sự sống lại, nhưng sở dĩ họ không tin là vì họ thiếu hiểu biết
Kinh Thánh. Thật thế, trong sách Môsê, đoạn nói về bụi gai, Thiên Chúa phán:
"Ta là Chúa của Abraham, Chúa của Isaac, Chúa của Yacob", Ngài không
là Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Hơn nữa, nếu Thiên Chúa đã phán một lời
liền có mọi sự, chẳng lẽ Ngài không thể làm cho kẻ chết sống lại sao? Sự sống
và sự chết đều do Thiên Chúa, vì thế sự sống lại cũng thuộc về Thiên Chúa. Lại
nữa, khi sống lại từ cõi chết, thân xác con người được biến đổi hoàn toàn, nó
sẽ giống như các thiên thần, giống như Chúa Kitô Phục Sinh, nên không còn phải
chết và cũng chẳng phải dựng vợ gả chồng nữa.
Từ
khi Chúa Giêsu mạc khải về sự thật này, biết bao người đã tin vào Thiên Chúa và
đã sống trọn vẹn với niềm tin đó; biết bao người đã can đảm sống sự thật được
mạc khải, dù phải hy sinh mạng sống, dù phải từ bỏ mọi danh lợi trần gian. Ðó
là gương của những vị anh hùng tử đạo qua bao thế hệ nơi các dân tộc.
Nguyện
xin Chúa soi lòng mở trí chúng ta hiểu biết và mộ mến Lời Chúa dạy trong sách
Kinh Thánh, để chúng ta am tường các mầu nhiệm của Chúa và thực thi thánh ý
Chúa. Xin cho chúng ta trân trọng sự sống, trau dồi cuộc sống tại thế tốt đẹp để
được sống đời đời với Chúa.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 9 TN1, Năm lẻ
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Có sự
sống lại và cuộc sống đời sau.
Niềm
tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau là một mặc khải tiệm tiến. Mặc dù đã
có tiềm ẩn trong Cựu Ước; nhưng chỉ với mặc khải của Chúa Giêsu và sự sống lại
của Ngài, niềm tin này mới rõ ràng và chắc chắn hơn.
Các
Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy sự nhầm lẫn và đau khổ của con người khi
không có niềm tin này. Trong Bài Đọc I, cả ông Tobit và cô Sarah đều cầu nguyện
xin Thiên Chúa cho họ chết đi, vì không chịu nổi những đau khổ và nhạo báng xảy
đến cho họ trong cuộc đời. Trong Phúc Âm, khi những người Sadducees muốn dùng
Lề Luật để chứng minh không có sự sống lại, Chúa Giêsu đã mặc khải rõ ràng về
có sự sống lại qua lời Thiên Chúa nói với Moses trong Xuất Hành 3:6, và thân
xác phục sinh của con người sẽ không còn phải chịu ảnh hưởng của các định luật
vật lý nữa, và họ sẽ sống như các thiên thần trên trời.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Sự quan phòng của Thiên Chúa
1.1/
Trường hợp của ông Tobit: Có hai lý do làm ông u sầu: thứ nhất, vì ông phải chứng kiến và
chịu quá nhiều những đau khổ: bị cướp phá tàn nhẫn bởi Dân Ngoại, bị lưu đày,
bị mù; thứ hai, bị châm biếm bởi kẻ thù, và nhất là chịu mỉa mai từ người vợ
của mình. Ông không dám trách Thiên Chúa, vì ông biết đó là hậu quả của việc
xúc phạm đến Ngài từ cha ông, và ngay cả từ chính cá nhân ông: "Vâng, các
phán quyết của Ngài thì nhiều và chân thật; Ngài đối xử như thế với con vì tội
lỗi con, bởi chúng con đã không thi hành mệnh lệnh Ngài và đã chẳng sống theo
chân lý trước nhan Ngài."
Vì
không có niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau, nên ông Tobit không tìm
được một lý do nào để tiếp tục sống giữa bao đau khổ và nhạo cười; nên ông nghĩ
chỉ còn một cách: xin Thiên Chúa chấm dứt cuộc đời trên cõi dương gian:
"Xin truyền rút sinh khí ra khỏi con, để con biến khỏi mặt đất và trở
thành bụi đất. Quả thật, đối với con, chết còn hơn sống, vì con đã nghe những
lời nhục mạ dối gian khiến con phải buồn phiền quá đỗi. Lạy Chúa, xin truyền
lệnh cho con được giải thoát khỏi số kiếp gian khổ này. Xin để con ra đi vào
cõi đời đời. Lạy Chúa, xin đừng ngoảnh mặt không nhìn con. Quả thật, đối với
con, thà chết còn hơn là suốt đời phải nhìn thấy bao nhiêu gian khổ, và phải
nghe những lời nhục mạ."
1.2/
Trường hợp của cô Sarah: Có hai lý do làm cô u sầu: thứ nhất, cô đã 7 lần lấy chồng,
nhưng người chồng nào cũng chết yểu bởi quỉ Asmodeus; thứ hai, cô bị đầy tớ
châm biếm là "đồ sát phu!" và nguyền rủa cho cô cũng bị chết theo
những người chồng đó. Vì không có niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời
sau, nên cô định lên lầu thắt cổ tự tử; nhưng cô nghĩ đến người cha sẽ phải
chịu đau khổ: Người ta sẽ nhục mạ cha cô và châm biếm: "Ông chỉ có một cô
con gái yêu quý, thế mà vì bạc phận, cô đã thắt cổ tự tử! Như vậy, tôi sẽ làm
cho tuổi già của cha tôi phải buồn phiền đi xuống âm phủ. Nên tốt hơn là tôi
đừng thắt cổ tự tử, mà phải cầu xin Chúa cho tôi chết đi, để đời tôi không còn
phải nghe những lời nhục mạ nữa." Nghĩ như thế, cô dang hai tay về phía
cửa sổ, cầu nguyện rằng: "Chúc tụng Chúa, lạy Thiên Chúa từ nhân! Chúc
tụng danh Chúa đến muôn đời, và mọi công trình của Chúa phải chúc tụng Ngài
muôn muôn thuở."
Sự
quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: "Ngay lúc ấy, lời cầu xin của hai người
là Tobit và Sarah đã được đoái nghe trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa."
2/
Phúc Âm: Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.
2.1/
Bẫy giăng của những người Sadducees: Đây là những người thuộc nhóm thống trị và
giàu có của Do-thái. Chức Thượng-tế thường đến từ nhóm người này. Khác với
Pharisees là những người tin cả vào luật bất thành văn và truyền thống, họ chỉ
tin vào luật thành văn, và chú trọng ưu tiên cho Bộ Ngũ Thư. Họ không tin có sự
sống lại, thiên thần, và các thần khí. Trong trình thuật hôm nay, họ muốn dùng
Lề Luật của Moses để chứng minh không có sự sống lại. Theo Sách Đệ Nhị Luật
25:5-6, "Khi có những anh em ở chung với nhau, và một trong những người đó
chết mà không có con trai, thì vợ của người chết không được lấy một người xa
lạ, ngoài gia đình; một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và
chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với nàng. Đứa con đầu lòng
nàng sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết; như vậy tên của người
chết sẽ không bị xoá khỏi Israel ."
Dựa
trên khoản luật này, họ nghĩ ra một trường hợp không thực tế cho lắm để thử
Chúa. Họ hỏi Người: "Thưa Thầy, ông Moses có viết cho chúng ta rằng:
"Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ mà không để lại con, thì
người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình." Vậy có
bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không để lại một đứa
con nối dòng. Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết mà không để lại một đứa
con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. Cả bảy người đều không để lại một đứa con
nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết. Trong ngày sống lại, khi họ sống
lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ? Vì bảy người đó đã lấy bà làm vợ."
2.2/
Câu trả lời của Chúa Giêsu: gồm 2 phần chính:
(1) Thân xác phục sinh
khác với thân xác trần thế: Thân xác phục sinh sẽ không bị chi phối bởi các định luật
vật lý mà con người đang chịu bây giờ; vì thế, "khi người ta từ cõi chết
sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần
trên trời." Sách Enoch cũng đã từng nói: "Các anh sẽ có nguồn vui vĩ
đại như các thiên thần trên trời." Sách Khải Huyền của Baruch cũng nói:
"người công chính sẽ được tạo thành như thiên thần trên trời."
(2)
Chúa Giêsu dùng chính những gì người Sadducees tin để chứng minh có sự sống
lại: Trong
Sách Xuất Hành 3:6, nói về thị kiến từ bụi gai của Moses, mà Chúa Giêsu trưng
dẫn hôm nay, Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Moses: "Ta là Thiên Chúa của
Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Jacob." Chúa Giêsu thêm:
"Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống."
Điều này chứng tỏ các Tổ-phụ, Abraham, Isaac, và Jacob, đang sống; vì thế,
những người Pharisees đã lầm to khi không tin có sự sống lại.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta cần cố gắng tìm hiểu cho biết thấu đáo mọi sự để niềm tin của chúng ta
được vững chắc. Một sự hiểu biết lờ mờ sẽ dẫn chúng ta đến chỗ khủng hoảng đức
tin, và sống phất phơ như liễu trước gió.
-
Chúng ta biết chắc Thiên Chúa sẽ công bằng phán xét và trả cho mỗi người tùy
theo công phúc và tội họ đã làm khi còn sống ở đời này. Bổn phận của chúng ta
là cố gắng chu toàn thánh ý Chúa và sống ngay thật mọi ngày trong cuộc đời.
-
Niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau là chân lý căn bản của đức tin
Kitô Giáo. Niềm tin này đã từng được mặc khải cách tiềm ẩn trong Cựu Ước, nhưng
đã được mặc khải cách minh bạch và rõ ràng bởi Chúa Giêsu và sự phục sinh vinh
hiển của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 9 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu
mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Thứ Tư :
Mc 12,18-27
A. Hạt giống...
1. Những đối thủ mà hôm nay Chúa Giêsu phải
gặp là những người Sađóc, giới tư tế. Vì họ không tin có việc kẻ chết sống lại
nên họ đặt ra một câu chuyện (một phụ nữ lấy 7 anh em trai theo tục lệ
"thế huynh") để cho thấy sống lại là một sự lố bịch.
2. Trả lời họ, Chúa Giêsu không những chứng
minh có việc sống lại, mà còn cho biết cuộc sống sau khi sống lại sẽ như thế
nào :
- không giống cuộc sống hiện tại, cho nên
không cần lưu truyền nòi giống và bởi thế không cần có vợ có chồng.
- cuộc sống ấy "giống như các thiên
thần" : nghĩa là không quan tâm đến gì khác ngoài việc yêu mến và thờ
phượng Thiên Chúa.
B.... nẩy mầm.
1. Những người phái Sađóc tuy là tư tế
nhưng không quan tâm tới những việc đạo đức cho bằng tới những đặc quyền đặc
lợi của họ. Để bảo vệ những quyền lợi ấy, họ sẵn sàng ủng hộ bất cứ chế độ nào
đang cầm quyền, cho dù đó là chính quyền đế quốc Rôma đang xâm lược đất nước
họ.
Họ không tin sự sống lại và không tin đời
sau là phải, bởi vì ai càng coi trọng đời này và những giá trị đời này thì càng
coi nhẹ đời sau và các giá trị đời sau. Càng thiên về xác thịt thì càng yếu về
tinh thần.
2. Cuộc sống đời này chỉ là chuẩn bị cho
cuộc sống đời sau, vốn là cuộc sống thật. Mà sống thật là sống "như các
thiên thần" nghĩa là không quan tâm gì khác ngoài yêu mến và phụng thờ
Thiên Chúa. Xin Chúa giúp con ngày càng bớt sống cho vật chất thế gian, để thêm
phần sống vì Chúa và cho Chúa.
3. Thiên Chúa không để cho con người sống
mãi trong cuộc sống tại thế này, bởi vì còn có một cuộc sống đáng quý hơn, đó
là cuộc sống vĩnh cửu. Có những giá trị cao cả gấp bội phần so với sự sống, sức
khoẻ và mọi thứ của cải trên thế gian. Sống thật chính là dệt nên cuộc sống
vĩnh cửu ấy qua từng khoảnh khắc trong cuộc sống tại thế.
4. "Quả vậy, khi người ta từ cõi chết
sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần
trên trời" (Mc 12,25)
Lời Chúa hôm nay như choáng ngợp lòng con.
Con cảm thấy lòng mình mở ra cho vô hạn và
bước đi trên con đường thênh thang, con đường một chiều dẫn đến sự sống, sự
sống tràn đầy và mãi mãi.
Từ đó, con cảm nhận rằng : Con bất toàn
nhưng đường đời là nhịp nối đưa con đến hoàn thiện. Những cố gắng hôm nay sẽ
theo con trên đường đến đích. Những mơ ước nhỏ bé là mầm sống cho những dự
phóng lớn lao. Những gặp gỡ yêu thương sẽ có ngày tái ngộ.
Lạy Chúa, xin cho niềm hy vọng ấy chiếu
sáng cuộc đời con. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI –
Gp. Cần Thơ
05/06/13 THỨ TƯ ĐẦU
THÁNG TUẦN 9 TN
Th. Bôniphát, giám mục, tử đạo
Mc 12,18-27
Th. Bôniphát, giám mục, tử đạo
Mc 12,18-27
TIN VÀO CHÚA CỦA KẺ SỐNG
“Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là của
kẻ sống.” (Mc 12,27)
Suy niệm: Nhiều người thời nay vẫn quan niệm dương sao âm vậy, nghĩa là khi
sống ăn uống, sinh hoạt làm sao, thì khi chết cũng vẫn như vậy. Những người
thuộc nhóm Sađốc xưa cũng nghĩ như thế khi họ đưa ra vấn nạn một người phụ nữ
đã cưới bảy đời chồng, khi chết sang thế giới bên kia sẽ là vợ của ai. Họ muốn
“đánh đố” Chúa Giêsu để dựa vào đó mà bác bỏ niềm tin vào sự sống lại và sự
sống đời sau. Đây là dịp thuận tiện để Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta giáo lý
về sự sống đời sau trên Nước Chúa: Lúc đó, con người không còn ăn uống, không
còn lấy vợ lấy chồng nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.
Mời Bạn: Tin vào sự sống đời sau, và muốn được sống mãi trong đời sống mới
là khát vọng của cả nhân loại. Đức Kitô đã mặc khải cho chúng ta cuộc sống hạnh
phúc đích thực và vĩnh cửu của cuộc đời mai hậu với một thực tại siêu việt,
thần thiêng. Và hơn nữa Ngài còn mời gọi chúng ta đi vào chung hưởng cuộc sống
đó trong tình thân với Ngài.
Chia sẻ: Có những Kitô hữu, tuyên bố tin vào sự sống đời sau, nhưng vẫn
sống theo quan niệm “dương sao âm vậy” và thực hành mê tín dị đoan. Làm thế nào
để niềm tin vào Đức Kitô phục sinh của bạn toả sáng tinh thần lạc quan vui sống
ở đời này và tràn đầy hy vọng đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu đời sau?
Sống Lời Chúa: Thánh hoá các công việc thường ngày của để đạt tới cuộc sống vĩnh
cửu đời sau, bằng cách làm mọi việc: 1) với ý hướng yêu thương phục vụ tha
nhân; và 2) trong tâm tình kết hợp với Chúa Kitô.
Cầu nguyện: Đọc kinh Trông Cậy.
Thiên
Chúa của kẻ sống
Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau qua kinh Tin Kính.
Nhưng sống niềm tin ấy giữa thế giới vật chất và vô tín là điều không dễ. Chỉ
xin cho vất vả lo toan đời này không làm ta quên đời sau.
Suy niệm:
Khi được hỏi về cuộc sống mai hậu,
Đức Khổng Tử đã trả lời đại khái như
sau:
chuyện đời này còn chưa nắm hết, nói
gì đến chuyện đời sau.
Nhưng chuyện đời sau vẫn là thao
thức muôn thuở của con người.
Con người muốn biết sau cuộc sống
ngắn ngủi này, mình sẽ đi về đâu.
Đi mà không rõ đích đến thì sẽ đi
lông bông vô định.
Tiếc là có người đã tin rằng chẳng
có gì sau cái chết!
Nhóm Xađốc cũng thuộc hạng người
trên.
Họ là những tư tế Do thái giáo bảo
thủ, không chấp nhận các ý tưởng mới
như chuyện người chết sống lại hay
sự hiện hữu của các thiên thần.
Trong Kinh Thánh, họ chỉ dựa vào Ngũ
Thư, trong đó có sách Đệ nhị luật.
Sách này có nói đến chuyện một người
trong họ hàng gần (Đnl 25, 5-10),
phải lấy bà vợ góa không con của anh
em mình, để có người nối dõi.
Nhóm Xađốc đã đưa ra một trường hợp
hãn hữu và buồn cười (cc. 20-23),
để cho thấy chuyện sống lại là vô
lý, và Môsê cũng chẳng tin chuyện đó.
“Khi sống lại, bà ấy sẽ là vợ của
ai? Vì cả bảy người đều đã lấy bà làm vợ.”
Đức Giêsu đã nặng lời chê các tư tế
trong nhóm này (c. 24).
Họ đã hiểu cuộc sống đời sau như một
thứ kéo dài cuộc sống hiện tại,
nơi đó người ta vẫn cưới vợ, lấy
chồng, vẫn sinh con đẻ cái.
Đức Giêsu cho thấy một bộ mặt khác
hẳn của đời sau.
Người được sống lại là người bước
vào cuộc sống hoàn toàn mới.
Họ sống “như các thiên thần trên
trời” (c. 25),
nghĩa là sống trọn vẹn cho việc
phụng sự Thiên Chúa,
với một thân xác đã được biến đổi
nên giống thân xác Đấng phục sinh.
Nhưng đừng hiểu thiên đàng là nơi
mất đi sự ấm áp của tình người.
“Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên
thiên đàng” (Lc 23, 43).
“Thầy đi dọn chỗ cho anh em, để Thầy
ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,3).
Tình yêu với Thầy Giêsu và những mối
dây thân ái giữa người với người,
chẳng có gì bị phá vỡ, nhưng trở nên
hoàn hảo vững bền.
Người ta sẽ không cưới hỏi hay sinh
con,
nhưng tình nghĩa vợ chồng được nâng
lên một bình diện mới.
Đức Giêsu trưng dẫn sách Xuất hành
để minh chứng có sự sống lại.
Thiên Chúa nhận mình là Thiên Chúa
của các tổ phụ Ítraen (Xh 3,15).
Mà người Do thái tin là Ngài không
gắn mình với các anh hùng đã chết.
Vậy Abraham, Ixaác và Giacóp phải là
những người đang sống,
nghĩa là những người đã chết và đã
được phục sinh.
Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời
sau qua kinh Tin Kính.
Nhưng sống niềm tin ấy giữa thế giới
vật chất và vô tín là điều không dễ.
Chỉ xin cho vất vả lo toan đời này
không làm ta quên đời sau.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do
ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp
hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới
đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên
trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui
tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước
Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ
quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong
chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
SUY
NIỆM Mc 12,18-27
Cuộc sống
đời sau vẫn là một thách đố cho niềm tin của con người. Thật sự, ai cũng muốn
biết một cách tỏ tường về tình trạng của mình sau cuộc sống ngắn ngủi ở đời
này. Và thực tế, nhiều người vẫn không tin có đời sau. Đối với họ, chẳng có gì
hay chẳng còn gì sau cái chết.
Nhóm Sađốc
trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay là những người không tin có sự sống lại. Họ
đến với Đức Giêsu và đơn cử một trường hợp cụ thể để qua đó, buộc Đức Giêsu
phải giải thích lập trường của Ngài, và cũng để chứng minh với Đức Giêsu chuyện
sống lại là vấn đề vô lý. Họ thí dụ rằng: một người đàn ông lấy vợ nhưng chết
đi mà vẫn chưa có con. Người thứ hai, thứ ba… và cả thảy bảy anh em đều lần
lượt lấy nàng làm vợ, đều chết và vẫn không có con nối dòng. Vậy trong ngày
sống lại, nàng sẽ là vợ của ai trong bảy người từng là chồng của nàng?
Đức Giêsu
cho thấy tình trạng khác hẳn của đời sau, nơi đó, những định luật của sự sống
cũ sẽ không còn giá trị nữa. Sau cuộc sống đời này, họ bước vào cuộc sống mới.
Dĩ nhiên khi ấy, diễn tiến của thân xác sẽ được nâng lên một bình diện mới. Do
đó, họ chẳng còn và chẳng
cần lấy vợ lấy chồng như cuộc
sống cũ. Và họ giống như các thiên thần.
Là một Kitô
hữu, tôi vẫn tin và tuyên xưng vào sự sống đời sau. Thế nhưng lắm lúc, tôi vẫn
sống như thể chỉ có đời này, chẳng có đời sau.
Mong
sao, niềm tin vào sự sống đời sau giúp tôi can đảm từ chối những cám dỗ sống
thấp hèn trong cuộc đời này.
Mong
sao, tôi biết dùng đời này để mưu cầu hạnh phúc cho tôi ở đời sau.
Lm. AN NAM
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Sáu
5 THÁNG SÁU
Mạc Khải Và Thuyết Tiến Hóa
Trong thời hiện đại của chúng
ta, giáo thuyết mạc khải rằng con người được tạo dựng như một hữu thể gồm cả
hồn lẫn xác đã gặp một khó khăn đặc biệt do thuyết tiến hóa dấy lên. Nhiều nhà
khoa học nghiên cứu nguồn gốc con người chủ trương rằng không những có một mối
liên kết giữa con người và toàn bộ thế giới tự nhiên mà, hơn nữa, con người đã
tiến hóa từ các động vật thượng đẳng. Vấn đề nguồn gốc con người đã taọ ra sự
tranh luận công khai và rộng rãi. Nó đã trở thành mối quan tâm chủ yếu của
nhiều nhà khoa học trong hơn một thế kỷ nay.
Câu trả lời của huấn quyền
được tìm thấy trong Thông Điệp Humani generis(1950) của Đức Piô XII: “Huấn
quyền Giáo Hội không có gì chống lại học thuyết tiến hóa, trong mức độ mà
thuyết tiến hóa tìm kiếm nguồn gốc của thân xác con người nơi một chất thể sống
động và hiện hữu trước – vì đức tin Công Giáo khẳng định rằng linh hồn người ta
do Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng…” (DS 3896).
Vì thế, từ quan điểm giáo
thuyết, không có gì trở ngại để tin rằng thân xác con người đã tiến hóa từ các
loài động vật thượng đẳng. Song cũng cần phải nhớ rằng thuyết tiến hóa cũng chỉ
là một giả thuyết. Nó nêu lên một khả tính rằng một điều gì đó có thể đúng. Nó
không phải là một sự chắc chắn về mặt khoa học. Đàng khác, giáo huấn đức tin
dạy chúng ta một cách chắc chắn rằng linh hồn thiêng liêng của con người được
Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng.
Nói vậy có nghĩa là thân xác
con người có thể đã được chuẩn bị từng bước cho con người, theo một thứ tự do
Đấng Tạo Hóa vạch định. Nhưng, linh hồn con người không thể phát xuất từ vật
chất, vì linh hồn có bản tính thiêng liêng. Và chính linh hồn là yếu tố quyết
định định mệnh cuối cùng của con người.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Bônifatiô,
giám mục tử đạo
Tb 3, 1-11a.
16-17a; Mc 12, 18-27
LỜI SUY NIỆM: “Quả vậy, khi người ta từ
cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên
thần trên trời.” (Mc 12,25).
Đọc trong các
Sách Tin Mừng, chúng ta đều biết Chúa Giêsu đã từng cho nhiều kẻ chết sống lại
như: người con gái mười hai tuổi của ông Giaia (Mc 5,21), hay người thanh niên
con của bà góa thành Naim (Lc 7,!5) cũng như Ladarô (Ga 11,1), đây chỉ là sự
phục hồi sự sống để sống thêm một thời gian; rồi sau đó cũng phải chết. Còn sự
sống lại thật mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu là một sự hóa thân toàn
diện; là một công trình ân huệ ân sủng của Thiên Chúa ban cho mỗi một con người
với quyền năng của Thiên Chúa. Trong quyền năng ấy Chúng ta được Thiên Chúa tái
sinh. Để được sống lại, và được sống giống như các thiên thần trên trời.
Mạnh Phương
Gương Thánh nhân
Ngày 05-06
Thánh BÔNIFACIÔ
Giám Mục Tử Đạo
(673 - 754)
Thánh Bônifaciô
có tên sơ khởi là Winfrid. Ngài là người Saxon miền nam, sinh ở Creditôn gần
Exêter, năm 673, thời đó, phong trào truyền giáo rất mạnh mẽ ở nước Anh. Gia
đình Ngài thường là nơi dừng chân của rất nhiều nhà truyền giáo. Winfrid rất
thích gần gũi ở những con người thánh thiện này và không bỏ mất một lời nào các
Ngài kể lại và năng hỏi thăm về những chân lý các Ngài rao giảng. Một ngày kia
Winfrid hỏi các Ngài phải làm gì để được cứu rỗi ? Các vị thừa sai trả lời: - Phải
nỗ lực để nên tốt lành với mọi người và đừng nghĩ đến mình.
Nghe những lời
này, Winfrid muốn lên đường ngay để rao giảng Tin Mừng cho lương dân. Ngài đã
xin cha đi tu nhưng cha Ngài đã từ chối. Ngài ngã bệnh khiến cha Ngài hốt hoảng
và đã chấp nhận.
Winfrid nhập
dòng ở Exeter và vì thiện chí học hỏi của Ngài, người ta gởi Ngài tới Nursling
để học kinh thánh, thơ văn và văn phạm, năm 717, Winfrid đã trở thành một giáo
sĩ nổi bật của miền nam Saxon và được đề nghị làm tu viện trưỏng tu viện
Nursling. Nhưng Ngài đã quyết định gia nhập nhóm truyền giáo. Angle-saxon lên
đường tới Frisia. Vẫn quan tâm đến các công việc của nước Anh cho đến hết đời,
Ngài giữ liên lạc thư từ rất thường xuyên nhưng không hề viếng nước Anh lần nào
nữa.
Miền đất
Winfrid muốn đến rao giảng Tin Mừng là một vùng thuộc nước Đức và nằm giữa hai
giòng sông Rhin và Danube . Cả người Rôma lẫn
người Pháp đã không thuần hoá được dân chúng hung dữ của miền này. Nhưng một
cuộc chiến bùng nổ giữa bá ước Ratborol và Charles Martel, khiến Ngài không cập
bến được. Ngài hướng về Roma với một nhóm hành hương và xin sự chẩn nhận của
Đức giáo hoàng. Đức Thánh cha Grêgoriô II đã chúc lành cho tu sĩ này và ban cho
mọi người quyền hạn để mang Nước Chúa đến cho dân Đức còn đang thờ ngẫu tượng.
Rời Rôma, Người
rảo qua các miền Lombardie, Baviere và Thuringia
học hiểu ngôn ngữ và giữ các phong tục địa phương của đám dân. Ngài muốn truyền
bá Tin Mừng. Ngài đã đến Frisia, đến giữa nước Đức, và lập được nên một nhà
nguyện, một tu viện ở Hambourg. Thành quả này làm phấn khởi cũng như thúc đẩy
tình yêu nơi vị tông đồ. Những cuộc trở lại đạo này ngày một nhiều.
Năm 722 Đức
giáo hoàng gọi Winfrid về Roma và tấn phong Ngài làm giám mục. Đức Giáo hoàng
nói : - Từ nay con sẽ mang tên là Bônifaciô, nghĩa là "người thi ân".
Đây là lần đầu tiên một tòa giám mục ở xa đã theo thực hành địa phương của
Italia và đã tỏ bày sự tuân phục đối với Đức Giáo hoàng .
Bônifaciô lại
lên đường truyền giáo với tư cách giám mục. Ngài sẽ không ở Frisia dưới quyền
Willibord, nhưng muốn mở ra một lãnh địa mới ở Tây Đức. Ngài đã bắt đầu ở Hesse
miền Thuringia là nơi Ngài đã đến đốn một cây
sồi cổ thụ. Dân chúng đặt tên cho cây sồi này là "sức mạnh thần
Jupiter". Thánh nhân đã triệt hạ cây cổ thụ cách dễ dàng lạ lùng rồi dùng
cây dựng nhà thờ kính thánh Phêrô. Dân chúng thờ ngẫu thần đã giận dữ vì sợ bị
thần minh oán phạt. Họ tuốn đến đe dọa thánh nhân. Nhưng khi nghe Ngài nói rất
hay và đầy tình đầy nghĩa, nhiều người đã trở lại đạo.
Charles Martel
lúc ấy sẵn sàng đem binh lực phục vụ Kitô giáo. Tuy nhiên Đức Giám mục
Bônifacio đã không muốn cậy dựa vào sức mạnh mà chỉ dùng tình thương để cải hóa
các tâm hồn. Ngài đã thiết lập nhiều tu viện và kêu gọi sự trợ giúp từ nước Anh
gởi tới. Đã có nhiều linh mục, nghệ sĩ, văn sĩ, tới góp công và nhiều người
khác đóng góp của cải cho việc truyền giáo. Cứ như thế mà thánh Bônifacio đã có
thể trao phó cộng đoàn nhỏ bé và mới mẻ cho các tu sĩ coi sóc rồi lại lên đường
tiếp tục mở mang nước Chúa.
Đức giáo hoàng
Gregoriô III phong đức Bônifacio lên chức Tổng giám mục và trao cho trách nhiệm
thiết lập các toà giám mục ở nước Đức. Sau cuộc viếng thăm Rôma lần thứ ba,
Ngài nhận sứ mệnh tổ chức Giáo hội ở hữu ngạn sông Rhin. Suốt 7 năm đi rao
giảng Tin Mừng ở Hesse, Ngài đi vào khu rừng phân cách Hesse và Thuringia . May mắn, nhà truyền giáo được hứơng dẫn tiến
về thung lũng Fuloda. Cùng với các tu sĩ, Ngài phá rừng đào đất và xây dựng tu
viện Fulda . Tu
viện này sẽ trở nên thành trì của đời sống tôn giáo trí thức của dân man rợ
thời Trung Cổ.
Đức Tổng giám
mục Bônifacio chọn Mayence làm toà tổng giám mục. Carlôan con của Charles
martel chọn đời sống tu trì và nhường quyền kế vị cho Pépin. Ông này muốn được
một đức giám mục lớn phong vương. Trong một lễ nghi long trọng ở Soissons , vị tông đồ đã
đặt vương miện lên đầu Pépin le Brej. Sau đó không kể gì đến tuổi già, Ngài lại
lên đường truyền giáo.
Ngài xuống
thuyền với 50 người tùy tùng gồm có các linh mục, tu sĩ và các sinh viên. Đoàn
thuyền tới giữa các cánh đồng lầy lội. Cư dân của vùng này còn sống rất hoang
dại. Các nhà truyền giáo rao giảng Tin Mừng cho họ. Đức cha Bônifacio hẹn các
tân tòng ở Dokum, gần bờ bể, ngày 5 tháng 6 năm 756, hôm ấy là lễ Chúa Thánh
Thần hiện xuống. Lúc vừa cử hành thánh lễ thì một đoàn người mang khí giới xông
tới, Bônifacio quay về với các bạn và nói: - Can đảm lên, khí giới này không
làmgì được linh hồn.
Các lương dân
xông vào sát hại các nhà truyền giáo. Một nhát búa bổ xuống Đức Tổng giám mục
và cuốn Phúc âm Ngài đang cầm trong tay.
Xác thánh nhân
được đưa về chôn cất ở nhà thờ chánh tòa Fulda .
Thư viện còn lưu giữ được cuốn sách bị chặt đứt của thánh nhân.
(daminhvn.net)
05 Tháng Sáu
Hãy Cho Một Nụ Cười
Một bệnh nhân nọ được đưa vào một bệnh viện
do các tu sĩ điều khiển. Người ta không để cho anh nằm điều trị trong một căn
phòng riêng rẽ mà lại đặt anh nằm chung với các bệnh nhân khác trong một phòng
lớn. Vừa mới được khiêng vào căn phòng, người đàn ông đã bị các bệnh nhân khác
tuôn đến bao xung quanh. Người thì kéo chăn, kẻ nắm áo, kẻ bứt tóc. Không mấy
chốc, anh bị quăng xuống khỏi giường giữa những tiếng cười đùa của các bệnh
nhân khác.
Không chịu đựng nổi trò chơi quái ác của
các bệnh nhân, người đàn ông mới la hét để kêu cầu vị phụ trách. Anh trình như
sau: "Tại sao ông lại đưa tôi vào đây. Tất cả các bệnh nhân xung quanh tôi
đều cười đùa, nghịch ngợm như một đám con nít. Hẳn họ không đau yếu như
tôi".
Vị phụ trách mỉm cười đáp: "Họ còn đau
yếu hơn cả anh. Nhưng tất cả đều khám phá ra một bí quyết, một bí quyết mà ít
người ngày nay biết đến hoặc có biết đến, họ cũng không tin".
Người đàn ông muốn biết bí quyết ấy. Vị phụ
trách bệnh viện mới lấy một cái cân có hai đĩa ở hai đầu. Ngài lấy một hòn đá
đặt vào một đĩa cân, đĩa cân ở đầu bên kia liền được nhắc lên... Ngài giải
thích như sau: Tôi vừa trình bày cho ông một bí quyết của các bệnh nhân ở đây.
Chiếc cân này là biểu trưng của tình liên đới giữa con người với nhau. Hòn đá
biểu hiện cho nỗi đau khổ của ông. Khi đau khổ đè nặng trên ông, thì ở đầu cân
bên kia, niềm vui có thể đến với một người nào đó. Niềm vui và nỗi khổ thường
sánh vai với nhau. Nhưng nỗi khổ cần phải được đón nhận và dâng hiến, chứ không
phải để giữ riêng cho mình. Hãy làm cho những người khác trở thành trẻ thơ, hãy
làm cho nụ cười được chớm nở trên môi của người khác cho dẫu ta đang hấp
hối".
Cái chết của Ðức
Kitô là cái chết của một người cho tất cả mọi người. Ðó là Tình Yêu được dâng
hiến cho tất cả mọi người. Ðó là Hy Sinh cho tất cả mọi người. Ðó là Lý Tưởng
của một người sống và chết cho mọi người.
Nhìn ngắm Ðức Kitô
trên thập giá, chúng ta thấy được định nghĩa đích thực về con người: con người
chỉ có thể thể hiện được trọn vẹn tính người khi sống cho người khác. Càng sống
cho tha nhân, con người càng tìm lại được chính bản thân. Càng chia sẻ với
người khác, con người càng trở nên phong phú...
Có của cải, có thì
giờ, có niềm vui để chia sẻ đã đành, nhưng con người còn có cả một kho tàng
khác để chia sẻ cho người khác: đó là nỗi đau khổ, sự bất hạnh, những hy sinh
âm thầm của mình.
Âm thầm đón nhận
một đau khổ mà không than trách, không phàn nàn, nhưng luôn để lộ trên khuôn
mặt sự vui tươi, tinh thần lạc quan: đó là một trong những chia sẻ cao độ nhất
mà chúng ta có thể dành cho người khác.
Vác lấy khổ đau để
trở thành gánh nặng cho người khác: đó là một trong những chia sẻ cao quý nhất
mà chúng ta có thể dành cho người khác.
Dâng từng khổ đau,
hy sinh và âm thầm phục vụ từng ngày để cầu nguyện cho tha nhân: đó là một
trong những chia sẻ cao đẹp nhất, bởi vì chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của
sự chia sẻ ấy.
(Lẽ Sống)
Thứ Tư 5-6
Thánh Boniface
(672-754)
T
|
hánh Boniface, vị tông đồ của người Ðức, là một đan sĩ
người Anh thuộc Dòng Biển Ðức, đã hy sinh vinh dự khi được chọn làm đan viện
trưởng để tận hiến cuộc đời trong việc hoán cải các sắc tộc ở Ðức. Ngài có hai
đặc tính nổi bật: Kitô Giáo chính truyền và trung thành với đức giáo hoàng ở
Rôma.
Thánh Boniface, tên thật là Wilfrith, sinh ở Anh Quốc. Ngay
khi còn nhỏ, hình ảnh cao quý của các đan sĩ truyền giáo đã in sâu trong tâm
khảm của ngài, do đó, khi bảy tuổi ngài đã nài nỉ xin theo học trường dòng, dù
rằng cha ngài mong muốn cho con một sự nghiệp ở ngoài đời.
Lớn lên, ngài làm giám đốc một trường học ở Nursling, Winchester , tại đây ngài
là người đầu tiên viết về văn phạm Latinh bằng tiếng Anh, cũng như sáng tác
nhiều bài diễn giảng được nhiều người sao chép và phổ biến.
Năm ba mươi tuổi, ngài được thụ phong linh mục và đi rao
giảng ở Friesland (thuộc Hòa Lan bây giờ), nhưng không bao lâu ngài phải trở về
Nursling vì cuộc chiến giữa vua ngoại giáo của Friesland và Charles Martel của
Pháp.
Sau cái chết của đan viện trưởng, các đan sĩ ở Nursling tìm
cách giữ chân ngài bằng cách bầu ngài làm đan viện trưởng, nhưng ngài đã từ
chối để tận hiến cho công cuộc truyền giáo.
Năm 718, ngài đến Rôma để gặp Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô II,
là người sai ngài đi truyền giáo cho người Ðức ở Hesse và Bavaria .
Ở Hesse , trước sự hiện
diện của đám đông người ngoại giáo rất tin dị đoan, ngài đã chặt cây Sồi Thần
Linh ở Geismar to lớn và già nua, được dân ngoại dâng cúng cho thần Thor. Người
ta kể chỉ sau vài nhát rìu, cây sồi đã lung lay và sụp đổ, tách ra làm bốn cho
thấy sự mục nát bên trong. Ðó là khởi đầu của một công cuộc truyền giáo rất
thành công của Thánh Boniface và cũng là hạt giống đức tin cho một giáo hội đầy
sinh lực ở Ðức, mà sau này Thánh Boniface được tấn phong làm giám mục ở đây.
Ngài xin các Kitô Hữu ở Anh hỗ trợ công cuộc truyền giáo của ngài và họ đã đáp
ứng với tài chánh, sách vở, vật liệu, và nhất là thường xuyên cung cấp các đan
sĩ để giúp đỡ ngài trong việc giảng dạy.
Thánh Boniface không chỉ hạn chế hoạt động ở nước Ðức. Ngài
còn giúp hình thành sự tương giao giữa Ðức Giáo Hoàng và các vua ở Ý cũng như ở
Pháp. Ngài thúc giục các thái tử kế vị vua Charles của Pháp triệu tập công đồng
để cải tổ giáo hội trong các phần đất của họ, là nơi chức giám mục được bán cho
những người trả giá cao nhất.
Ngài không bao giờ quên sự thất bại ở Friesland ,
do đó khi về già, ngài từ chức giám mục và trở về hoạt động ở đây với sự thành
công đáng kể. Vào một ngày trong tháng Sáu năm 754, khi ngài đang chuẩn bị cho
người Friesland chịu phép Thêm Sức thì tất cả
bị tấn công và bị giết chết bởi các chiến sĩ ngoại giáo.
Lời Bàn
Thánh Boniface xác nhận một quy tắc của Kitô Giáo: Theo Ðức
Kitô là theo con đường thập giá. Ðối với Thánh Boniface, con đường đó không chỉ
là sự đau khổ phần xác hay cái chết, mà cả sự đau khổ vì bị sỉ nhục, vô ơn
trong việc cải tổ Giáo Hội. Vinh dự của truyền giáo là đem người ngoại giáo trở
về với Giáo Hội. Nhưng dường như, việc chấn chỉnh đức tin ngay trong lòng Giáo
Hội, là một việc rất cần thiết, thì ít người lại cho đó là một vinh dự.
Lời Trích
Chúng ta phải bền vững trong những gì là
chân lý và chuẩn bị linh hồn cho những thử thách... Ðừng là những con chó không
dám sủa hay im lặng nhìn xem, và cũng đừng là người tôi tớ trốn chạy trước đàn
sói. (Thánh
Boniface).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét