Chúa Nhật Ngày 16/06/2013
Chúa Nhật Tuần XI Thường
Niên – Năm C
(Phần I)
BÀI ĐỌC I: 2 Sm 12, 7-10. 13
"Chúa cũng đã tha
tội cho vua rồi và vua sẽ không phải chết".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Nathan thưa cùng Đavít
rằng: "Ngài chính là người đó". Chúa là Thiên Chúa Israel phán rằng: "Ta đã xức dầu phong cho
ngươi làm vua Israel
và đã cứu ngươi khỏi tay Saolê. Ta đã ban cho ngươi nhà của chủ ngươi, trao cả
cung phi của chủ ngươi vào lòng ngươi. Và tặng cho ngươi nhà Israel và Giuđa. Nếu bấy nhiêu đó
còn ít, Ta cho ngươi thêm nhiều nữa. Vậy tại sao ngươi khinh thường lời Chúa mà
làm điều gian ác trước mặt Ta? Ngươi đã dùng gươm giết Uria người Hêthê và bắt
vợ y làm vợ mình, ngươi còn dùng gươm con cái Ammon mà giết y nữa. Do đó, lưỡi
gươm sẽ không rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến muôn đời, vì ngươi đã khinh dể
Ta, và cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ mình". Đavít liền nói với
Nathan rằng: "Trẫm đã phạm tội cùng Chúa". Nathan thưa lại Đavít
rằng: "Chúa cũng đã tha tội cho vua rồi, và vua sẽ không phải chết".
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 31, 1-2. 5. 7. 11
Đáp: Lạy Chúa, Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con (c. 5c)
1)
Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy!
Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có
mưu gian. -
Đáp.
2)
Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che
giấu. Tôi nói: Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ
tội lỗi cho tôi. - Đáp.
3) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều
nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ. - Đáp.
4) Chư vị hiền
nhân, hãy vui mừng hân hoan trong Chúa, và mọi người lòng ngay hãy hớn hở reo
mừng! - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Gl 2, 16. 19-21
"Không phải tôi
sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, anh em biết rằng con người
được công chính hoá không phải do các việc làm của lề luật dạy, nhưng chỉ là
nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Nên chúng ta đã tin vào Đức Giêsu Kitô để được
công chính hoá do lòng tin vào Đức Kitô, chớ không phải do các việc làm của lề
luật dạy. Do đó, không một ai được công chính hoá do các việc làm của lề luật
dạy. Quả vậy, phần tôi, chính do lề luật mà tôi đã chết cho lề luật, để được
sống cho Thiên Chúa. Tôi đã chịu đóng đinh vào thập giá làm một với Đức Kitô.
Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Hiện
giờ tôi sống trong thân xác, là tôi sống trong lòng tin vào Con Thiên Chúa,
Đấng đã yêu mến tôi và đã phó mình vì tôi. Tôi không loại bỏ ơn Thiên Chúa.
Nhưng nếu có sự công chính nào bởi lề luật, thì quả thực Đức Kitô đã chết cách
luống công. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 19, 38
Alleluia,
alleluia! - Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời,
và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 7, 36-50 hoặc 7, 36 - 8, 3
"Tội bà rất nhiều
mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa
Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt
có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong
nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ
bà đứng phía chân Người khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc
lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người
nghĩ thầm rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang
động đến mình là ai và thuộc hạng người nào: là một người tội lỗi". Nhưng
Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với
ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".
-
"Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ
năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai
người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là
kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán
đúng". Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy
người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi;
còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không
hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức
dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo
ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha
ít, thì yêu mến ít".
Rồi
Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng
bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?"
Và Người nói với người đàn bà: "Đức tin con đã cứu con, con hãy về bình
an".
Sau
đó Người rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Nước Thiên
Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được
chữa khỏi tà thần và bệnh tật: Maria gọi là Mađalêna, đã được chữa khỏi bảy quỷ
ám, Gioanna vợ của Cusa viên quản lý của Hêrôđê, Susanna và nhiều bà khác: họ
đã lấy của cải mình mà giúp Người. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Muốn được ơn
tha thứ phải có nhiều lòng tin và lòng mến
Thiên
Chúa đã bỏ qua lỗi lầm cho Ðavít; Chúa Giêsu đã tha tội cho một người phụ nữ.
Những bài Kinh Thánh như vậy đáng được những ai biết mình có tội, đọc lại và
ngẫm nghĩ. Những người chưa thấy ngay tội lỗi của mình cũng hãy đọc lại để
không bỏ mất ơn Chúa. Và nếu họ tiếp tục tưởng mình xa lạ với những câu chuyện
trên, bài thư Phaolô sẽ đến để giúp họ suy nghĩ đúng về đời sống đạo đức.
Do
đó cả ba bài Kinh Thánh ngày hôm nay đều gần chúng ta và muốn xây dựng chúng ta
lớn lên trong ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta hãy đọc lại với lòng yêu mến,
biết ơn.
1. Ðavít Ðược Chiếu Cố
Bài
sách Samuen nhắc lại chuyện Ðavít. Ông là vị hoàng đế được con cái Israen yêu
chuộng. Họ còn tin vào Lời Chúa hứa ban cho dòng dõi Ðavít một triều đại vững
bền. Do đó nghĩ đến Ðavít, con cái Israen chỉ có một lòng kính yêu. Dù vậy, các
tác giả thánh cũng không bỏ qua các lỗi lầm của Ðavít. Các người vẫn còn nhắc
lại. Phải chăng để nói với chúng ta rằng: Chẳng có ai vô tội trước mặt Chúa?
Các tác giả thánh còn nói đến các hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên Ðavít
vì tội lỗi của ông. Há chẳng phải để nói rằng: Chúa vẫn không dung tha lỗi phạm
của cả những người được Người tuyển chọn? Tuy nhiên khi kể lại các tội của
Ðavít, các tác giả thánh dường như chú trọng nhiều hơn đến lòng thống hối ăn
năn của nhà vua được mến chuộng ấy, và để nói lên lòng thương xót vô biên của
Thiên Chúa đối với Ðavít, cả khi ông lỗi phạm. Ít ra đó là những điều chúng ta
gặp thấy trong bài sách Samuen hôm nay.
Ðể
dễ hiểu chúng ta vắn tắt nhắc lại câu chuyện mà nhiều người đã biết. Vào buổi
chiều nọ, Ðavít dậy khỏi giường và đi tản bộ trên sân thượng. Ông thấy một phụ
nữ đang tắm, dáng vẻ rất xinh đẹp. Ông sai người đi hỏi tung tích, mời nàng ấy
đến và rồi nàng có thai. Chẳng may nàng đã có chồng, và ông đang ở ngoài mặt
trận. Ðavít cho người đi, liệu cách giết người chồng xấu số kia và Ðavít cưới
người phụ nữ ấy.
Thiên
Chúa sai tiên tri Natan đến gặp Ðavít. Natan bắt đầu gợi cho Ðavít biết những
tội ông vừa phạm thật là nặng nề. Chúa đã xử với ông quá đại lượng. Người đã
tuyển chọn, đặt ông làm vua, ban cho ông đủ mọi sự; và nếu ông còn cho như thế
là ít, thì Chúa sẽ ban thêm gấp mấy ngần ấy nữa... Thế là ông đã khinh Lời
Chúa; dám làm sự dữ trước mắt Người, đã cướp vợ người khác lại còn dùng gươm đâm
chết chồng người ta, và họ là dân ngoại... Thế nên gươm sẽ không rời khỏi nhà
ông bao giờ nữa.
Ðavít
thấy lỗi của mình. Ông đã phạm những tội tày đình. Ông thật là người nhà giàu
đã đi bắt con chiên nhỏ của người nhà nghèo đem về làm thịt đãi khách, đang khi
ông có cả một đàn chiên lớn. Ông làm cho Danh Thiên Chúa bị nhục trước mặt dân
ngoại. Có lẽ ông đã suy nghĩ không kỹ. Nhưng bây giờ được người của Thiên Chúa
mở mắt cho, ông cúi đầu thú nhận: "Tôi đã phạm tội nghịch với Giavê".
Không
phải ai cũng biết mau nhận lỗi như Ðavít. Càng không có nhà vua nào có thể
khiêm nhường ngay như thế. Rõ ràng Ðavít chưa bỏ mất hẳn tính đơn thật chất
phác của thời được Chúa gọi. Lòng thành nhận biết tội lỗi như thế quả thật đã
kéo xuống được lòng chạnh thương cứu độ của Chúa.
Natan
bây giờ nói với Ðavít: "Cả Giavê nữa, Người cũng bỏ qua lỗi lầm của
ông". Nhưng sự việc này đã để lại trong cuộc đời của Ðavít nhiều hậu quả.
Gươm vẫn không rời khỏi nhà Ðavít. Nhất là một tâm tình hối tiếc ăn năn không
ngớt dâng lên trong lòng nhà vua, khiến ông trở thành hình ảnh gương mẫu cho
những kẻ sám hối và nhiều thánh thi thú nhận tội lỗi đã được truyền tụng như là
của ông.
Tuy
nhiên vẫn có thể nói Ðavít vẫn chưa được phúc như người tội lỗi trong bài Tin
Mừng hôm nay. Ông đã gặp Natan chứ không phải Chúa Giêsu. Và điều này khiến
chúng ta thấy lòng thống hối trong Cựu Ước chưa gặp được niềm hân hoan cứu độ
thực sự. Nhưng chúng ta hãy bắt đầu đọc lại bài Tin Mừng đã.
2. Người Tội Lỗi Ðược Tha
Thứ
Nhiều
người coi đoạn văn này như một kiệt tác của nhà văn Luca. Nhưng phân tách một
chút người ta thấy có một vài nét hơi bất thường. Câu chuyện hai người mắc nợ
lồng trong câu chuyện người phụ nữ được tha thứ, có cần hẳn không? Nó làm cho
bài tường thuật dài ra. Cắt bỏ đi, nó chẳng làm thiệt hại gì. Ðàng khác trong
câu chuyện hai người mắc nợ, Chúa bảo: Ai được tha nhiều thì mến nhiều. Còn câu
chuyện người phụ nữ tội lỗi Chúa lại khẳng định: bà ta được tha nhiều vì mến
nhiều. Như vậy, hai lời tuyên bố không ăn với nhau, khiến hai câu chuyện không
cần và theo lẽ không nên đi với nhau.
Rồi
trong các sách Tin Mừng khác, cũng có chuyện một người phụ nữ xức dầu cho Chúa
Giêsu ở Bêtania. Câu chuyện của Luca kể hôm nay có phải là câu chuyện của các
tác giả kia không? Những thắc mắc này, cuối cùng, như chúng ta sẽ thấy, chỉ làm
tăng giá trị cho bài tường thuật của Luca thôi. Và đó là điều nên để ý.
Thật
ra câu chuyện hai người mắc nợ lồng giữa câu chuyện người phụ nữ tội lỗi không
cần thiết. Nhưng nếu cắt bỏ đi thì thật là tiếc. Nó không làm tăng giá trị cho
câu chuyện chính, nhưng có một tác động tâm lý rất quan trọng để người ta được
điều kiện đón nhận bài học đạo đức sâu xa. Chúng ta cứ xem. Khi Ðức Giêsu vào
nhà người Biệt phái để dùng bữa, người ta để ý quan sát Người biết mấy. Nhất là
khi đột xuất có một người phụ nữ bước vào đi đến gần Người. Ai cũng sửng sốt vì
biết rõ bà ta nổi tiếng tội lỗi ở trong thành. Kìa, bà ta đến đứng đàng sau Ðức
Giêsu, khóc lóc nức nở. Thấy nước mắt mình chảy xuống làm ướt đẫm chân Người,
bà vội cúi xuống, lấy ngay tóc xõa trên đầu cố lau cho sạch, rồi tha thiết hôn
chân Người và lấy dầu thơm đổ xuống. Bằng ấy cử chỉ của bà ta chẳng làm cho
người ta ngạc nhiên. Lạ thật! Họ vẫn suy nghĩ một cách cũ kỹ: Nếu Người là tiên
tri ắt biết đứa động đến mình kia là ai. Nó là đứa tội lỗi mà... Ði thẳng vào
vấn đề và lý luận cho họ hiểu ư, Ðức Giêsu thấy không được. Người phải nhẹ
nhàng lôi cuốn họ đến chân lý. Người dùng khoa sư phạm của các bậc thầy thời
bấy giờ. Người nói với chủ nhà: Simon, tôi có điều muốn nói với ông... Rồi Người
kể một dụ ngôn, tức là câu chuyện về hai người mắc nợ. Người lôi cuốn suy nghĩ
và tâm lý của người ta đến một chân lý dễ hiểu để từ đó so sánh với thực tại họ
đang sống. Và vì là so sánh nên hai việc không nhất thiết phải hoàn toàn giống
nhau. Những câu chuyện trong dụ ngôn chỉ là bàn đạp cần thiết cho người ta nhảy
lên những thực tại tự nhiên khó nhận ra.
Và
quả thật, sau khi nghe câu chuyện hai người mắc nợ, người ta đã được chuẩn bị
tâm lý và tâm hồn để hiểu sự việc đang xảy ra trước mắt. Người ta thấy gì? Một
người đàn bà tội lỗi ư? Không, bà ta đến đây không còn là người tội lỗi nữa. Bà
đã chà đạp dư luận và những cái nhìn phán xét để đến đứng đàng sau Ðức Giêsu.
Bà khóc lóc nức nở, biểu lộ tâm hồn ăn năn hối lỗi; bà lấy tóc mình mà lau chân
Chúa; bà còn hôn chân Người một cách tha thiết. Bà đổ cả dầu thơm nữa. Bà có
lòng mến nhiều. Không ai chối cãi được. Và đây là lòng mến sám hối tìm lại được
con đường thánh thiện. Nó đã xuất từ một niềm tin, tin Ðức Giêsu là Ðấng Thánh,
có thể làm cho mình khỏi tội. Không có niềm tin này, bà đã không làm như vậy.
Niềm tin ấy còn gia tăng, từ khi bà có ý tưởng đến gặp Chúa Giêsu. Thoạt đầu bà
đã dám đến đứng đàng sau Người; rồi bà khóc; rồi không thấy bị đuổi và thấy
nước mắt mình làm ướt chân Người, bà đã vội vụng về lau bằng chính tóc của
mình. Rồi bạo dạn thêm, bà hôn chân Chúa và đổ dầu. Bao nhiêu cử chỉ là bằng ấy
chứng cớ về mức độ gia tăng của lòng tin và lòng mến. Bà không còn là người tội
lỗi nữa. Bà đã đủ điều kiện để được nghe lời an ủi: "Tội của ngươi đã được
tha... Hãy đi bằng yên". Chắc chắn bà đã được sung sướng hơn Ðavít, bà
được tiếp xúc thẳng với Thiên Chúa. Người hiền từ và thông cảm làm sao! Người
bênh vực kẻ tội lỗi. Người ban ơn tha tội. Người để họ ra về bình yên vì Người
đã đổi mới họ.
Tất
cả chúng ta đã được hưởng kinh nghiệm êm ái của người phụ nữ trong bài Tin Mừng
hôm nay. Khi viết câu: "Tội của ngươi đã được tha. Hãy đi bằng yên",
tác giả Luca không ám chỉ đến ơn tha tội và công thức tha tội trong Hội Thánh
của chúng ta sao? Và nếu như vậy, hẳn người cũng đã muốn nói với chúng ta rằng:
muốn được ơn tha thứ, phải có nhiều lòng tin và lòng mến.
Rồi
khi kết thúc bài Tin Mừng hôm nay, Luca viết có nhiều phụ nữ được chữa lành
khỏi quỉ dữ đã đi theo Chúa và phục vụ Người. Tác giả há không muốn ngụ ý rằng:
sau khi được tha tội, chúng ta ra đi bằng yên bằng cách đi theo và phục vụ Chúa
sao? Nhưng phục vụ thế nào?
3. Phaolô Phục Vụ Chúa
Thánh
Tông đồ nêu gương cho chúng ta. Người đang tranh luận với những kẻ muốn duy trì
tinh thần và tập tục Do Thái giáo ở ngay trong Hội Thánh. Họ muốn người dân
Galát phải cắt bì và giữ luật Môsê, cho rằng chỉ những việc này mới ban ơn tha
tội khiến con người được trở nên công chính. Như vậy, Ðức Giêsu Kitô và sự
nghiệp của Người sẽ bằng thừa. Người ta cứ theo luật mà làm thì tội lỗi sẽ được
tha và người ta được nên công chính. Ðức Giêsu Kitô không còn chỗ đứng nào nữa
trong một quan niệm như vậy. Và điều này phủ nhận hẳn kinh nghiệm sâu xa của
Phaolô và làm cho cuộc rao giảng Tin Mừng trở nên vô ích.
Phaolô
là người như ngày nay không phải vì các việc làm theo lề luật. Ngược lại những
việc này đã biến Phaolô nên người hăng say đi tìm bắt những kẻ theo đạo. Chính
nhờ sự tỏ hiện của Chúa Giêsu Kitô và nhờ lòng tin của Người mà Phaolô được ơn
tha thứ và trở nên công chính. Từ đó nhìn lại Luật pháp Môsê, người ta đã thấy
chính Tổ phụ của dân đang giữ luật này cũng đã được công nhận là công chính,
không phải do các việc ông làm, nhưng tự lòng ông đã tin Lời Chúa. Rồi hiện nay
dân Do Thái đang làm không biết bao nhiêu việc theo lề luật, mà tội lỗi họ vẫn
còn y nguyên đó.
Qua
miệng các tiên tri, Thiên Chúa còn nói rõ: nhờ đau khổ, người Tôi Tớ của Người
sẽ công chính hóa các tội nhân. Ðức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm thánh giá không
phải là người Tôi Tớ này hay sao? Do đó Phaolô viết: Ðời sống của tôi lúc này
trong thân xác, tôi sống nó trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu mến
tôi và phó nộp mình vì tôi. Chính Chúa Giêsu Kitô khi bị lề luật đóng đinh vào
thập giá, đã đóng đinh lề luật vào sự chết của Người, để khi sống lại Người ban
cho những ai tin vào Người ơn tha thứ tội lỗi và sự sống mới, không phải sự
sống theo lề luật nữa, nhưng là sự sống làm con Thiên Chúa nhờ lòng tin và lòng
mến.
Chúng
ta đã sung sướng đồng ý với thánh Phaolô rồi khi Người nói: Chính nhờ lòng tin
vào Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh và sống lại mà chúng ta đã được tha thứ tội
lỗi. Chúng ta còn phải thi hành cũng chính lời Người đã nói theo cùng một ý đó
rằng: nay tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi.
Tức là chúng ta phải phát huy sự sống của Ðức Giêsu Kitô Cứu Thế trong thân xác
và cuộc đời của chúng ta. Không những chúng ta phải từ bỏ nếp sống tội lỗi
trước đây, mà còn phải bày tỏ đời sống làm con Thiên Chúa và làm anh em đồng
bào với mọi người.
Chính
Chúa Giêsu, trong mầu nhiệm cử hành nơi bàn thờ bây giờ muốn làm công việc ấy
nơi chúng ta. Người ban ơn tha tội, cho chúng ta nhận lấy Người để chúng ta
được làm con Thiên Chúa hơn và làm anh em với mọi người hơn. Ðời sống của chúng
ta phải là đời sống phục vụ, như chính Chúa Giêsu đã đi trên đường phục vụ khi
ở trần gian. Chúng ta không phải chỉ như người phụ nữ trong bài Tin Mừng: được
tha thứ rồi bà sung sướng đi theo phục vụ Chúa. Chúng ta còn được thay mặt Chúa
để làm công việc cứu thế. Và như vậy hạnh phúc của chúng ta trổi vượt hơn Ðavít
ngày xưa biết mấy. Xin cho chúng ta biết đón nhận và sống ơn Chúa hôm nay ban
như vậy.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật
11 Thường Niên, Năm C
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Nhu cầu
cần xét mình để nhận ra tội và đừng kết án tha nhân.
Trong
cuộc đời, con người thường nghĩ các quyết định của mình là đúng, cho tới giây
phút nào đó, Thiên Chúa gởi người đến soi sáng và vạch ra những sai lầm của
mình. Trong những giây phút được soi sáng như thế, con người phải khiêm nhường
nhìn nhận khuyết điểm thì mới nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa. Nếu không,
giây phút hồng ân đó qua đi và con người sẽ ôm hận suốt đời.
Các
bài đọc hôm nay muốn nêu bật những trường hợp được Thiên Chúa soi sáng. Trong
bài đọc I, tiên tri Nathan sửa lỗi vua David rất khéo, bằng cách kể cho nhà vua
nghe một câu truyện bất công. Thoạt nghe, vua David nổi xung buộc tội anh nhà
giàu giết chiên hàng xóm; nhưng Nathan tuyên án vua David: anh nhà giàu đó
chính là nhà vua! Lúc đó vua David mới nhận ra lỗi mình mà kêu xin lòng thương
xót của Thiên Chúa. Trong bài đọc II, trước biến cố ngã ngựa trên đường đi
Damascus, Phaolô vẫn nghĩ con người có thể được cứu độ bằng việc giữ trọn vẹn
Lề Luật; nhưng sau biến cố được soi sáng đó, Phaolô phải khiêm nhường nhìn
nhận: không ai có thể giữ trọn vẹn Lề Luật. Vì thế, mọi người phải tin vào Đức
Kitô mới được hưởng ơn cứu độ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng kể một câu truyện
và đòi người kinh sư phải trả lời; sau đó Chúa mới vạch trần sự khinh thường
đón khách và sự kết án người khác của anh.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC
1/
Bài đọc I: Tiên tri Nathan giúp cho vua David xét mình.
Để
hiểu rõ trình thuật hôm nay, độc giả cần đọc lại những chương trước; nhất là
câu truyện tiên tri Nathan kể về hai người hàng xóm trước đoạn này (2 Sam
12:1-6).
1.1/
Nhận ra những hồng ân Thiên Chúa đã làm cho nhà vua:
Sau
khi Nathan kể chuyện, vua David bừng bừng nổi giận kết tội anh nhà giàu và ra
hình phạt cho anh. Nhưng Nathan nói với vua David: "Kẻ đó chính là ngài!
Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel ,
phán thế này: Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Israel , chính
Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Saul. Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa
thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi.
Ta đã cho ngươi nhà Israel
và Judah .
Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế
nữa.”
1.2/
Nhận ra tội lỗi nhà vua đã xúc phạm đến Thiên Chúa:
Vua
David biết Nathan ám chỉ mình chính là người giàu có trong chuyện, và những gì
xảy ra trong quá khứ David tưởng không ai biết giờ được Nathan thuật lại từng
chi tiết.
(1)
Tội giết người không vũ khí của David: Nathan tiếp tục: “Vậy tại sao ngươi
lại khinh dể lời Đức Chúa mà làm điều dữ trái mắt Người? Ngươi đã dùng gươm đâm
Uriah, người Hittite; vợ y, ngươi đã cướp làm vợ ngươi; còn chính y, ngươi đã
dùng gươm của con cái Ammonites mà giết. Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng
chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của Uriah,
người Hittite, làm vợ ngươi.” David không trực tiếp dùng gươm đâm, nhưng âm mưu
gởi Uriah ra chỗ mặt trận gay cấn nhất mà không cho quân cứu viện để Uriah phải
tử trận vào tay quân thù. Mục đích là để David lấy được bà Batsheba, vợ của
Uriah.
(2)
Vua David ăn năn thống hối: Bấy giờ vua David nói với ông Nathan: "Tôi đắc tội
với Đức Chúa." Ông Nathan nói với vua David: "Về phía Đức Chúa, Người
đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết.” Kể từ đó, bao nhiêu điều khốn
khổ đã xảy ra trong nhà David; nhưng nhà vua không dám than phiền Thiên Chúa vì
đã biết tội mình.
2/
Bài đọc II: Không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật
dạy.
2.1/
Xét mình theo tương quan với Lề Luật:
Trình
thuật của Thư Galat hôm nay là trọng tâm đạo lý của Thư. Để hiểu tại sao Phaolô
có thể kết luận: “con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì
Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô, nên chúng ta cũng tin vào Đức Giêsu
Kitô, để được nên công chính, nhờ tin vào Đức Kitô, chứ không phải nhờ làm
những gì Luật dạy. Quả thế, không phàm nhân nào sẽ được nên công chính vì làm
những gì Luật dạy.” Chúng ta phải trở lại biến cố đã xảy ra cho Phaolô trên đường
đi Damascus .
Lúc đó, Phaolô còn là một “kinh sư thủ cựu” đang trên đường đi bắt bớ các tín
hữu theo Đức Kitô tại Damascus ;
vì Phaolô nghĩ họ là những người chống lại Lề Luật tốt lành của cha ông để lại.
Nhưng một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống làm ông ngã ngựa và bị mù. Sau đó,
Đức Kitô Phục Sinh thân hành hiện đến với Phaolô và chứng minh cho ông Ngài vẫn
sống.
Sau
đó, Ngài mở mắt cả phần xác lẫn phần hồn cho Phaolô để ông hiểu: Lề Luật tốt
lành, nhưng không một ai có thể giữ tất cả Lề Luật. Theo Lời Chúa phán với
Moses, chỉ cần vi phạm một Luật thôi, con người cũng phải mang án tử. Vì vậy,
không ai trở nên công chính nhờ việc giữ Luật, vì mọi người đều phạm tội. Hậu
quả của tội là mọi người đều phải chết.
2.2/
Tại sao Đức Kitô phải đến?
Vì
không ai có thể nên công chính và được cứu độ, nên Đức Kitô phải đến và lãnh
hình phạt thay cho con người. Khi con người được xóa tội, con người được nên
công chính với Thiên Chúa. Khi đã nên công chính, con người không phải chết
nữa.
Vì
thế, Phaolô xác tín: “Quả thế, tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật,
để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi
không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công
chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức Kitô đã chết vô ích.”
3/
Phúc Âm: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."
Tại
sao ông Pharisee Simon mời Chúa dùng bữa ăn? Chắc hẳn là không như một khách
quí, vì ông đã không chu toàn nhiệm vụ hiếu khách. Chắc hẳn cũng không tìm cách
hại Chúa như các kinh sư khác vì ông gọi Chúa bằng danh xưng Rabbi (Thầy).
Nhưng có lẽ ông là người ở giữa muốn được phổ thông và cũng muốn được nghe Chúa
dạy.
Người
phụ nữ phải là khán giả của Chúa. Chị đã được nghe và cải hóa bởi những lời
giảng dạy nên bày tỏ lòng ăn năn và tình yêu với Chúa. Sự kiện chị ấy xõa tóc
trước công chúng bị coi là hành động không thể chấp nhận của một phụ nữ đứng
đắn; nhưng chị không quan tâm vì chị sống thực lòng mình. Chị biết chị là người
tội lỗi và nghĩ mọi người chung quanh biết điều đó, nên chẳng cần phải che đậy
gì nữa.
Phong
tục của người Do-thái: Khi khách đến thăm, chủ nhà sẽ đặt một tay trên vai
khách và hôn khách, sau đó sẽ lấy nước rửa chân cho khách, sau cùng sẽ nhỏ trên
đầu khách vài giọt dầu thơm. Ông kinh sư này đã không làm bất cứ thủ tục nào
theo truyền thống cho Chúa Giêsu cả.
Không
những thế, ông còn xét đoán cả Chúa và người phụ nữ: "Nếu quả thật ông này
là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ
người nào: một người tội lỗi!"
3.1/
Chúa Giêsu mời ông Pharisee xét mình.
Giống
như trình thuật Nathan-David trong bài đọc I, Chúa Giêsu cũng kể một câu truyện
cho ông kinh sư. Thoạt nghe, ông kinh sư thấy chẳng có gì liên quan đến mình
cả.
(1)
Qua ví dụ hai con nợ: Đức Giêsu lên tiếng bảo ông: "Này ông Simon, tôi có điều
muốn nói với ông!" Ông ấy thưa: "Dạ, xin Thầy cứ nói." Đức Giêsu
nói: "Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một
người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả
hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?" Ông Simon đáp: "Tôi
thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn." Đức Giêsu bảo: "Ông xét
đúng lắm."
(2)
Qua trường hợp cụ thể: Quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Simon: "Ông
thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân
tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông
đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân
tôi. Dầu ôliu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ
lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được
tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít."
3.2/
Chúa Giêsu tha tội cho người phụ nữ.
Rồi
Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi." Bấy
giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được
tội?" Nhưng Đức Giêsu nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu
chị. Chị hãy đi bình an."
Niềm
tin của người phụ nữ biểu lộ qua tình thương chị dành cho Chúa Giêsu. Chúa
không khen tội của người phụ nữ; nhưng Chúa tuyên dương hành động thống hối của
chị. Chị biết mình có tội, và tội rất nhiều; nhưng chị tin vào lòng thương xót
của Chúa Giêsu sẽ tha mọi tội cho chị. Vì chị có tội nhiều, nên chị biết ơn
nhiều khi được tha nhiều. Và chị tìm thấy sự bình an.
Còn
ông Pharisee, chúng ta không thấy trình thuật nói về phản ứng của ông, một lời
xin lỗi Chúa cũng không thấy đề cập đến. Thực ra, mọi người đều có tội. Khi một
người không cảm thấy có tội là do bởi xét mình chưa kỹ thôi. Điều nguy hiểm cho
những người tự cho mình là công chính là họ không cần đến Chúa và tình thương
tha thứ của Ngài.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta cần phải thường xuyên xét mình để nhận ra tội lỗi và khẩn cầu ơn tha
thứ của Chúa. Người không năng xét mình sẽ không nhận ra các tội để chừa.
-
Sau khi đã hòa giải với Thiên Chúa, chúng ta phải rộng lòng tha nhứ cho những
người đã xúc phạm đến chúng ta.
-
Chúng ta cần phải tránh xa việc xét đoán tha nhân. Hãy để việc đó cho Thiên
Chúa. Chúng ta chỉ cần biết một điều: đã là người ai cũng có những giây phút
yếu lòng cả.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
CHỊ
HÃY ĐI BÌNH AN
Tội quá khứ khi được tha lại tạo nên hứng khởi để yêu hơn.
Những vấp ngã được chữa lành lại khởi đầu cho một bước mới, can đảm hơn, quảng
đại hơn và nồng nhiệt hơn.
Suy niệm:
Trong Tin mừng Luca, các người Pharisêu
ba lần mời Đức Giêsu dự tiệc (7, 36; 11, 37;
14, 1).
Xem ra không phải mọi người Pharisêu đều có ác
cảm với Đức Giêsu.
Hôm nay Ngài là khách mời của ông Simon.
Ngài đến với ông như Ngài đã đến với người thu
thuế tội lỗi (7, 34).
Trong bữa tiệc lớn này, thực khách nằm trên
những ghế dài, có gối.
Bất ngờ một phụ nữ mạnh dạn bước vào phòng
tiệc.
Người ta nhận ra chị vốn là một người tội lỗi
trong thành.
Chị đến đây vì biết Đức Giêsu có mặt trong bữa
tiệc.
Ngài là người mà chị đã có lần gặp và nhận được
ơn tha thứ.
Chị đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm
(c. 37).
Hẳn chị đã chuẩn bị kỹ và biết mình sẽ làm gì
cho Đức Giêsu.
Khi đứng ở gần chân Ngài, chị bật khóc nức nở.
Nước mắt chị làm ướt đẫm chân Ngài.
Sau đó chị xõa tóc để lau khô, hôn lên chân và
xức dầu thơm.
Những cử chỉ táo bạo của chị thật là chướng mắt
cho những thực khách.
Ông Simon chủ tiệc không thể hiểu được tại sao
một ngôn sứ như Ngài
lại để cho một phụ nữ tội lỗi làm những cử chỉ
khiếm nhã như vậy.
Nhưng chính vì Đức Giêsu là ngôn sứ của Thiên
Chúa
nên Ngài hiểu rất rõ ý nghĩa của những gì chị
đang làm.
Đó không phải là cử chỉ quyến rũ của cô gái
làng chơi,
nhưng là hành vi tri ân và yêu mến nồng nàn của
người được tha thứ.
Tuyệt đối không có chút nhơ uế nào nơi những cử
chỉ trên.
Đức Giêsu đã đón nhận tất cả với trái tim thanh
khiết của mình.
Dụ ngôn sau đó của Ngài về hai người mắc nợ cho
thấy
người được tha nhiều hơn sẽ bày tỏ tình yêu
nhiều hơn (cc. 40-42).
Chị phụ nữ này chính là người đã được tha
nhiều, nên yêu nhiều.
Lòng yêu mến trào dâng của chị
là kết quả của việc biết mình đã được thứ tha.
Chị là người yêu hơn (c. 42), và yêu nhiều (c.
47), so với ông Simon.
Tội quá khứ khi được tha lại tạo nên hứng khởi
để yêu hơn.
Những vấp ngã được chữa lành lại khởi đầu cho
một bước mới,
can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng nhiệt hơn.
“Tội của chị đã được tha rồi”.
Đức Giêsu khẳng định lại với chị về ơn chị đã
lãnh nhận.
Ngài ca ngợi lòng tin của chị và chúc chị đi
bình an (c. 50).
Chúng ta có thể học được nhiều điều nơi người
phụ nữ này,
nhất là sự táo bạo của chị trong cách diễn tả
tình yêu biết ơn.
Chị đã không nói một lời nào, nhưng nói bằng
hành động.
Lắm khi chúng ta rụt rè khi phải bày tỏ lòng
yêu mến Chúa,
ngại ngùng khi phải diễn tả lòng biết ơn.
Xin cho chúng ta dám trao hiến cả đời mình,
như người phụ nữ đổ bình bạch ngọc chứa dầu
thơm lên chân Giêsu.
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn
con thấy được,
và những
ơn con không nhận là ơn.
Con biết
rằng
con đã
nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao
ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con
thường đau khổ vì những gì
Cha không
ban cho con,
và quên
rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha
vì những gì
Cha cương
quyết không ban
bởi lẽ
điều đó có hại cho con,
hay vì
Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho
con vững tin vào tình yêu Cha
dù con
không hiểu hết những gì
Cha làm
cho đời con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng
Sáu
16 THÁNG
SÁU
Có Thể Tin Tưởng Dù
Ngay Giữa Khổ Đau
“Vì sao
Thiên Chúa đã tạo nên chúng ta?” Câu hỏi ấy đã được đặt ra trong sách giáo lý
Kitô giáo hay trong giáo huấn về đời sống Kitôhữu. Trong ánh sáng đức tin kiên
vững của Giáo Hội, chúng ta (cả người trưởng thành lẫn thanh thiếu niên) cần
phải tâm niệm những lời này: “Thiên Chúa đã tạo nên ta để ta hiểu biết và yêu
mến Ngài trong cuộc sống này và để sống với Ngài mãi mãi trong cuộc sống đời
sau”.
Đó là một
chân lý lớn lao và chắc chắn về Thiên Chúa. Ngài là Cha Trên Trời của chúng ta
và là Đấng hướng dẫn cuộc sống chúng ta bằng sự tiếp xúc êm ái và đầy yêu
thương của Ngài. Ngài muốn chúng ta sống với Ngài mãi mãi.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul
II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
16-6
Chúa
nhật XI Thường Niên
2
Sm 12, 7-10.13; Gl 2, 16.19-21; Lc 7, 36-8,3
LỜI
SUY NIỆM: Trong câu chuyện người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và đã yêu mến
Chúa nhiều. Điều này giúp cho chúng ta cảm nhận ra tỉnh yêu của Thiên Chúa mà
vững tin vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta phải biết chạy đến với
Chúa trong mọi lúc, phải quyết tâm hoán cải; để sửa đổi mình nên tốt hơn. Đồng
thời cũng giúp cho chúng ta biết cọng tác vào kế hoạch yêu thương của Thiên
Chúa, mà luôn biết cầu nguyện cho những kẻ có tội được ăn năn trở lại cùng Chúa và với cộng
đoàn; chứ đừng xầm xì, hất hủi hay có thái độ xa lánh họ. Nếu chúng ta không ý
thức và không tiếp tục cầu nguyện, thì con chiên lạc, lại sẽ bỏ xa đàn lần nữa.
Mạnh
Phương
16 Tháng Sáu
Hãy Ðến Với Ta
Tại Roma có một ngôi
thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, nghĩa là Chúa ở dưới nước... Du khách
đến Roma thường đến viếng thăm ngôi thánh đường này, vì phía trên bàn thờ, có
một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến quỳ trước tượng thánh giá và
cầu nguyện với tất cả thành tâm đều nhận được sức mạnh và niềm an ủi thâm
sâu...
Người ta kể lại rằng
tác giả của tượng thánh giá bằng cẩm thạch này đã mát rất nhiều năm mới hoàn
thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông
lại cho kéo xuống và đập phá đi vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được
điều ông mong muốn...
Sau nhiều năm bỏ dở,
ông lại bắt tay vào công trình lần thứ ba. Nhưng chính lúc ông miệt mài chú tâm
vào công việc thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tỵ
nên tìm cách hạ uy tín của ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau
thương. Người nghệ sĩ chỉ còn biết kêu cầu xin Chúa giúp ông chịu đựng được mọi
gian lao thử thách.
Ai cũng tưởng rằng cơn
thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công
trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Ðức Kitô.
Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá không là một phiến đá lạnh lùng, xa lạ,
mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động
và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ đã muốn tháp thập vào đó.
"Hỡi tất cả những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với
Ta và Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho".
Lời
mời gọi trên đây của Chúa Giêsu hẳn phải đem lại cho chúng ta an ủi đỡ nâng,
nhất là trong những lúc chúng ta gặp đau khổ, thử thách. Chúa Giêsu như muốn nói
với chúng ta rằng Ngài đang có đó, Ngài có mặt trong từng phút giây của cuộc
sống chúng ta, Ngài mang lấy tất cả những sầu đau, buồn tủi của chúng ta. Mãi
mãi, Ngài vẫn là Ðấng Cứu Chuộc chúng ta. Mãi mãi, Ngài đến với chúng ta như
đến với những người phong hủi, những kẻ bệnh tật, kẻ tội lỗi, phường thu
thuế... Ngài đón nhận tất cả mọi khổ nhọc, khó khăn của chúng ta. Và bởi vì
Ngài mang lấy mọi khổ đau của con người, cho nên Ngài cũng tự đồng hóa với con
người, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh. Trên những khuôn mặt gần như
không còn hình tượng của con người nữa, chúng ta phải nhận diện được chính
Ngài. Ngài đã từng nói với chúng ta: "Ai cho những kẻ bé mọn nhất, dù chỉ
một chén nước lã thôi, họ đã cho chính Ta vậy".
Trút
lên Ngài tất cả gánh nặng của khổ đau, được ngài nâng đỡ bổ sức, chúng ta cũng
hãy mang lại an ủi đỡ nâng cho mọi người xung quanh. Sự đau khổ nào cũng có sức
liên kết con người. Kết hiệp với Ðức Kitô trên thập giá, chúng ta cũng dễ dàng
liên đới, cảm thông với mọi người đang đau khổ...
(Lẽ Sống)
16-6
Thánh Gioan Phanxicô Regis
(1597-1640)
S
|
inh trong một gia đình giầu có ở Narbonne, Languedoc nước Pháp,
ngay từ nhỏ, vì quá mến mộ các thầy giáo Dòng Tên nên Gioan Phanxicô luôn ao
ước gia nhập dòng này. Và ngài đã thực hiện ý định ấy khi 18 tuổi. Trong thời
gian tu tập, mặc dù học trình rất nghiêm nhặt nhưng ngài đã dành nhiều thì giờ
cầu nguyện hàng đêm.
Sau khi được thụ phong linh mục, Cha Regis đi truyền giáo trong
một vài thành phố ở Pháp. Ðặc biệt, ngài lưu tâm đến người nghèo và rất siêng
năng thi hành mục vụ. Ngay từ sáng sớm ngài đã có mặt ở tòa giải tội sau khi cử
hành Thánh Lễ; vào buổi chiều ngài đi thăm các bệnh nhân và tù nhân. Vào năm
1631, khi trận dịch hạch tấn công thành phố, ngài làm việc trong bệnh viện ở Toulouse với "những
công việc tầm thường nhất ở trong bếp nhưng lúc nào cũng vui vẻ và sẵn sàng."
Vào thời bấy giờ, vì thiếu giám mục và các linh mục thì chểnh
mảng, giáo dân không biết gì đến bí tích có trên 20 năm. Nhiều hình thức Tin
Lành phát triển mau chóng trong khi hàng giáo sĩ vẫn giữ thái độ lãnh đạm trong
nhiều lãnh vực. Trong ba năm trường, Cha Regis đã đi khắp địa phận, tổ chức các
buổi học hỏi, xưng tội trước khi mời đức giám mục đến thăm. Ngài thành công
trong việc hoán cải nhiều người và đã đưa họ trở về với đời sống đạo tốt lành.
Về đời sống cá nhân, ngài càng khó khăn với chính mình bao nhiêu
thì ngài lại nhân từ với người khác bấy nhiêu. Thức ăn của ngài thường là rau
trái và bánh thô, nhiều khi vì số người đến xưng tội quá đông đến độ ngài không
còn thời giờ để ăn uống. Ðể hy sinh hãm mình, mỗi đêm, ngài ngủ không quá ba
giờ đồng hồ.
Mặc dù Cha Regis ao ước đi truyền giáo cho người da đỏ Bắc Mỹ ở
Gia Nã Ðại, nhưng suốt cuộc đời ngài đã tận tụy phục vụ Thiên Chúa trong những
nơi hoang vu nhất ở ngay quê hương của ngài. Ở đó ngài phải chịu sự khắc nghiệt
của thời tiết và nhiều thiệt thòi khác. Tuy nhiên, sự thánh thiện của ngài ngày
càng gia tăng và được nhiều người biết đến.
Trong bốn năm cuối đời, ngài rao giảng và làm việc trong các tổ
chức xã hội, nhất là cho người tù, người bệnh và người nghèo. Vào mùa thu năm
1640, dù cảm thấy cái chết đã gần kề, Cha Regis vẫn cố gắng trong công tác mục
vụ, nhằm đưa các linh hồn về với Chúa. Sau khi làm việc cả ngày Giáng Sinh
không ngừng nghỉ, vào ngày hôm sau, sau khi lên toà giảng ngài đã ngất xỉu vì
kiệt sức. Bốn ngày sau đó, trước khi thở hơi cuối cùng, ngài đã thốt lên:
"Lạy Chúa Giêsu, con phó linh hồn con trong tay Chúa." Lúc ấy
ngài mới 43 tuổi.
Ngài được phong thánh năm 1737.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét