Trang

Thứ Bảy, 8 tháng 6, 2013

09-06-2013 : (phần 2) CHÚA NHẬT X MÙA THƯỜNG NIÊN năm C

Chúa Nhật Ngày 09/06/2013
Tuần X Thường Niên – Năm C
(Phần II)



Giáo Lý Phúc Âm - Chúa Nhật X Quanh Năm C – ngày 9.6. 2013 
CHÚA NHẬT X QUANH NĂM, NĂM C
Sách Các Vua quyển I 17.17-24; Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Galata 1.11-19
và Phúc Âm Thánh Luca 7.11-17
I.               Giáo Huấn P.Â.:   
Thiên Chúa, Đấng toàn năng ban cho con người sự sống. Trong Cựu Ước, tiên tri Êlia, người của Thiên chúa, cầu xin Chúa ban sự sống cho con trai bà góa thành Sarépta.

Trong Tân Ước, Thiên Chúa toàn năng được nhìn thấy qua con người của Chúa Giêsu, đấng quyền năng và giàu lòng thương xót. Chúa chạnh lòng thương xót bà góa thành Naim và dùng quyền năng ban sự sống cho con trai bà.
II.      Vấn nạn P.Â.    
Tiên Tri Êlia
Elia sống dưới thời vua Ahab, Ahaziah và Giêhôram, tức tiền bán thế kỷ 9 trước Công Nguyên. Elia có nghĩa “Yahvê là Chúa” Tên gọi nầy nhằm diễn tả sứ mệnh của Elia: Bênh vực Thiên Chúa, chống lại thần Baal. Thời ấy Vua Omri, nước Israel đã cưới Izabel, công chúa nước Tyr, cho Akhab hoàng tử kế vị ông. Những hoàng hậu ngoại giáo du nhập thần ngoại giáo vào Israel, cụ thể là hoàng hậu Izabel của vua Ahab.  Bà này đưa tà giáo vào cung điện, quảng bá thần Baal, một thần được coi như nắm giữ mưa nắng ở trên trời và do đó cả mùa màng dưới mặt đất.  Tiên tri Êlia chủ trương độc thần: Yahvê là Chúa duy nhất của Israel.. Tiên tri Elia thi tài và chiến thắng 450 tư tế của Hoàng hậu Izabel. Dân chúng nổi dậy, giết hết tư tế ngoại giáo. Hoàng hậu Izabel ra lệnh lùng bắt Elia. Ông trốn chạy lên núi thánh Chúa là Horeb mất 40 ngày (Sách các vua quyển I, chương 18 và 19)  
           
Tiên Tri Êlia là người được thấy Chúa và vinh quang Thiên Chúa trên núi Horeb. Nhưng Ông cũng là người bị săn đuổi và bị bách hại vị bảo vệ niềm tin độc thần của Do Thái. Ông đã đói lã nằm hôn mê trên đường lên núi Chúa. Sứ thần Chúa đã hiện ra cho Ông bánh và nước để tiếp tục hành trình lên núi thánh (Sách Các Vua quyển I chương 19) Cuộc đời của Tiên Tri là cuộc đời chiến đấu với tà giáo để bảo vệ độc thần.
Trong bài đọc một, trích sách các Vua quyển I hôm nay cho thấy Tiên Tri Êlia là người của Thiên Chúa. Ông đã áp người lên mình cậu bé con trai bà góa Sarépta ba lần để truyền thần lực, tức sức sống của Thiên Chúa từ Ông sang người chết. Quyền năng Chúa đã làm cho cậu bé sống lại. Chúng ta nghĩ ngay đến câu chuyện sáng tạo, “Chúa thổi hơi vào cục đất sét và ban cho con người sự sống. Thân thể người chết vô tri có khác gì đất sét, nhưng với quyền năng Chúa, sự sống truyền sang và thân thể người chết sống dậy.

Chúng ta cũng không quên là Tiên Tri Êlia đã tuyên sấm chúc dữ cho Israel vì tôn thờ Baal là phải bị hạn hán đói kém. "Yavê hằng sống! Thiên Chúa của Israel, Ðấng tôi chầu hầu, những năm tới đây sẽ không có sương, cũng không có mưa, trừ phi là thừa lệnh của tôi" (I Các Vua 17.1). Ông muốn chứng minh cho quyền năng Thiên Chúa, chính Thiên Chúa làm chủ thời tiết chứ không phải Baal.

Tiên tri trốn chạy hoàng hậu Izabel độc ác và đến với góa phụ nghèo và giàu lòng nhân ái thành Sarépta. Bà đã đón người của Thiên Chúa vào nhà, làm bánh thết đãi Tiên tri bằng chính  mớ bột và dầu sau cùng trong mà bà có ý dành cho con trai và cho bà ăn lần cuối. Lòng nhân ái bà đã được đãi ngộ: bột và dầu không bao giờ cạn và như hôm nay, con trai bà được cứu sống. Thiên Chúa quyền năng tỏ lòng nhân ái với những ai có lòng nhân ái.
Qua những ơn lạ Chúa ban cho bà góa Sarepta, chúng ta thấy Êlia, là người chuyển cầu hay là khí cụ của lòng thương xót Chúa.Trong Sách Các Vua, cuốn I, Êlia thách thức 450 tiên tri của Baal dám thử các vị thần của họ xem ai là người đáp ứng lời cầu nguyện bằng cách thiêu đốt hy lễ: Thần Baal hay Thiên Chúa? Dĩ nhiên, ngẫu thần Baal không đáp lại được lời cầu xin, dù bị Êlia khéo léo nói khích (Các Vua quyển I. chương 8.27).
Phần Êlia, khi chuẩn bị dâng hy lễ, ông nói với dân: “Hãy đến gần tôi” (Các Vua quyển I. 18.30). Êlia nói thế là để mời dân cùng cầu nguyện với ông để xin cho dân từ bỏ ngẫu thần. Đáp lại lời cầu nguyện của Êlia, Thiên Chúa đã biểu lộ lòng trung thành, lòng thương xót và sức mạnh cứu rỗi của Người qua việc cho lửa từ trời xuống thiêu đốt hy lễ của ông. Người cũng giúp dân trở lại với Người và tiếp tục giữ lại Giao Ước Người từng ký với cha ông họ.
“Một ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân người!”- Liên hệ giữa Tiên Tri Êlia và Chúa Giêsu
Phúc Âm nói: Đó là thái độ mọi người sau khi chứng kiến việc Chúa cho con trai bà góa  thành Naim sống lại. Lời ca ngợi nầy không phải tự phát hay ngẫu hứng, nhưng đã có trong Sách Đệ Nhị Luật chương 18.15-19 khi Ông Môisen tiên báo về một Đấng Messiah, một tiên tri lớn sẽ xuất hiện giữa dân.  Người Do Thái rất thấm nhuần Kinh Thánh Cựu Ước, nên những phản ứng của họ rất “có đạo” hay rất là Kinh Thánh. Họ có thể nói vanh vách những câu Kinh Thánh trong Cựu Ước để tỏ lòng ngưỡng mộ kỳ công của Chúa. Bài Magnificat của Đức Mẹ Maria được ghi lại trong Luca 1.46-55 cũng thế. Nó được mô phỏng theo bài ca của bà Anna trong Sách Tiên Tri Samuel quyển I chương 2.1-10 khi bà biết mình mang thai Samuel theo chương trình của Thiên Chúa.
Niềm mong đợi Đấng Messiah luôn âm ỉ trong tâm hồn người Do Thái. Nên khi thấy Chúa Giêsu làm được những việc lạ phi thường như cho người chết sống lại thì họ sẽ tôn vinh là tiên tri vĩ đại xuất hiện ở giữa dân. Kinh Thánh Tân Ước ghi nhận Chúa Giêsu đã được ca tụng là tiên tri lớn ở giữa dân như trong Phúc Âm Matthêô 13.57; Luca 7.16; Gioan 4.19 và TĐCV. 3.22. Khi ca tụng Chúa Giêsu là tiên tri lớn qua việc cho con trai bà góa thành Naim sống lại, chắc chắn người Do Thái không quên việc Êlia cho con trai bà góa Thành Sarépta sống lại. Nếu Êlia là một tiên tri thì chắc chắn Giêsu cũng phái là một tiên tri. 
Nhưng sao Chúa Giêsu lại được coi là tiên tri cao trọng hơn các tiên? Chúng ta hãy so sánh giữa việc Elia cho con trai bà góa Sarépta sống lại và việc Chúa Giêsu cho con trai bà góa Thánh Naim sống lại:

Mục đích đạt được là sự phục sinh từ trong cõi chết.
Trình bày cho mọi người thấy quyền năng của Thiên chúa: Chúa là Đâng ban sự sống và giàu long thương xót.

Cách thức có khác nhau:
Tiên tri Êlia bồng lấy đứa bé trai, đưa lên phòng, đặt trên giường và kêu cầu Thiên Chúa. Ông nằm áp trên cậu bé ba lần và kêu cầu Thiên chúa cứu sống cậu bé.
Còn Chúa Giêsu “chạnh lòng thương và nói: bà đừng khóc nữa! Rồi người sờ vào quan tài và phán “Này thanh niên! Tôi bảo anh chổi dậy!” Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Chúa Giêsu không cầu khẩn, nhưng truyền lệnh cho thanh niên sống lại. Chúa Giêsu không chạm vào thanh niên nhưng phán.. Trước mắt mọi người, Chúa Giêsu quả thật cao trọng hơn các tiên tri. Trong tín lý thần học, chúng ta nhận ra ngay một hành động sáng tạo của Thiên Chúa. Chúa muốn có ánh sáng! Ánh sáng liền có. Ý muốn thành hiện thực là sáng tạo. Chỉ có Tạo Hóa mới sáng tạo. Vậy Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Tạo Hóa quyền năng.

Khi Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor, có Môsê và Êlia đến đàm đạo. Có 17 tiên trị Cựu Ước, tại sao chỉ có Êlia được chọn để đàm đạo với Chúa? Như chúng ta đã nói: Êlia có nghĩa ‘Yahvê là Chúa’. Ông được chọn làm tiên tri để chống tà thần và giúp dân thờ phượng  Thiên chúa độc thần. Ông bị bách hại và trốn chạy. Ông được diện kiến Thiên Chúa trên núi Horeb. Kinh Thánh còn nói là ông về trời bằng xe lửa trong Sách các Vua quyển II chương 2.11 “ Hai ông tiếp tục đi và nói chuyện, thì này đây có một xe bằng lửa và ngựa cũng bằng lửa phân rẽ hai người; và trong cơn gió lốc, Êlia lên trời. Êlisê thấy vậy kêu lên: "Cha ơi, cha ơi, cha là xe và là người đánh xe Israel".

Chúa Giêsu biến hình trên đường xuống Giêrusalem để chịu khổ hình và chịu chết. Chúa Giêsu thực sự mang thân phận bị bách hại của một tiên tri vì sứ mạng cứu độ. Elia xuất hiện đàm đạo trong lần biến hình để nói lên ý nghĩa: hai cuộc đời nhưng một mục đích là trung thành với sứ mạng, là để thánh ý Cha được tròn..Elia đã từng gặp Chúa trên núi cao. Trong lần biến hình, ông xuất hiện và muốn chứng minh rằng: Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng mà Ông đã phụng thờ và diện kiến.

III.         Thực hành P.Â.:
1)    Chúa chạnh lòng thương xót bà góa thành Naim mất con và cho con bà sống lại.

Tôi nhận tin dữ từ những người thân quen. Người chồng, người Cha mới 48 tuổi bị ung thư gan, trướng bụng và chết. Người vợ thành góa phụ. Những đứa con chưa thành thân đã thành mồ côi Cha. Nợ nhà cửa còn đó. Tương lai gia đình thật bấp bênh. Những tiếng kêu khóc thật buồn thảm qua điện thoại. Tiếng người đàn bà góa chồng nấc nghẹn: Không dám trách phiền gì cả, nhưng thật quá đau lòng, chồng chết.. con chưa thành người… làm sao một thân một mình có thể gồng gánh nỗi hỡi trời! Chết còn sướng hơn là sống mà gánh chịu quá nhiều đau khổ thế nầy.

Tôi nghe lời than tiếng khóc mà chạnh lòng thương xót, nhưng tôi làm được gì cho người thân quen? Chúa còn “chạm đến quan tài, người khiêng đứng lại và Chúa truyền cho : thanh niên chổi dậy! Người chết ngồi lên và bắt đầu nói!” Còn tôi chỉ chạnh lòng thương xót và bó tay bất lực.

Nhưng tôi cũng nhớ rằng: Trong suốt ba năm truyền đạo, Chúa chỉ cho có 3 người chết sống lại: Con trai bà góa thành Naim; Con gái Ông Giairô và Lazarô… Chắc chắn số người chết nhiều hơn 3 người nầy. Nhưng tại sao Chúa không cho họ sống lại tất cả? Không! Chúa cho người chết sống lại để chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa, Chúa là sự sống và Chúa có lòng thương xót từ tâm trước cảnh khổ của người khác. Tuy nhiên Chúa không cho tất cả người chết sống lại vì: sinh ra làm người, ai cũng phải chết. Chết thể xác không là kết thúc nhưng là chuyển tiếp sang cuộc sống lại mai sau trên thiên quốc. Ba người chết được cho sống lại rồi cũng sẽ chết. Và nếu Chúa cứ tiếp tục cứu sống người chết này sang người chết khác thì không thể có giai đoạn chuyển tiếp sang cuộc sống vĩnh cửu.

Cái Chúa muốn tôi làm khi chứng kiến hay khi nghe biết cảnh tượng thương tâm là chạnh lòng thương xót và chạm đến quan tài, tức nhìn ra thực tế của đời người và cầu cho người chết được có cuộc sống trường sinh hạnh phúc. Tôi không thể nói mình bó tay trong việc tỏ lòng thương xót và cầu nguyện cho người chết.

2)    Góa bụa – Góa phụ -  cô phụ.

Tất cả những danh từ trên đều diễn tả người đàn bà chết chồng, sống cảnh cô đơn. Kinh Thánh ca ngợi nhiều bà góa, như bà góa thành Zarépta, bà góa bỏ hai xu vào hòm tiền dâng cúng. Kinh Thánh cũng nói rằng Chúa bênh vực góa phụ và con côi. Phong tục và văn chương Việt Nam đều nói đến cảnh đáng thương của “mẹ góa con côi!”

Nhưng lạ thay không có từ đặc biệt nào để gọi người đàn ông chết vợ. Dường như họ bị quên lãng chăng? Chết vợ cũng không có gì đáng thương và giúp đỡ chăng? Thật sự không phải thế, nhưng người đàn Ông, cả trong Kinh Thánh và trong văn chương Việt Nam được ví như cây tùng cây bách, đứng sừng sững giữa trời. Còn phụ nữ thì ví như liễu yếu đào tơ. Người yếu đuối thì được quan tâm nâng đỡ đặc biệt. Tâm lý chung là vậy.

Tôi muốn nói đến long thương xót dành cho đời sống cô đơn của những người già nua tuổi tác nói chung, cả những người góa vợ hay góa chồng. Tôi có dịp sống chung với 7 linh mục hưu trí. Tất cả đã ngoài tám mươi. Ngày sống của họ thật dài và buồn. Tuy nhiên, bản chất con người không bao giờ muốn mình trở thành vô dụng hay hết xài. Nên các Ngài rất vui khi được nhờ làm chuyện gì đó. Cuộc tiếp xúc hay nói chuyện bao giờ cũng quá ngắn với họ. Họ không thích ai đó chỉ đứng ở cửa nói đôi câu cần thiết rồi bỏ đi, nhưng vào phòng, từ từ ngồi ghế, uống tách trà và chuyện trò lai rai kéo dài.

Họ có khuynh hướng quan trọng hóa vấn đề như chỉ cần làm một việc nhỏ thôi, các Ngài cũng dành giờ để chuẩn bị và thiết kế làm cho mọi chuyện thành nghiêm trọng và mất giờ. Chỉ nhờ chụp hình thôi, nhưng cũng mang chân máy chụp ra dàn dựng, rồi kiểu ngắm, bộ đứng sao cho đúng cách….Nếu ai không biết chạnh lòng thương xót, sẽ nản lòng và không còn nhờ họ nữa. Họ rất buồn khi không được nhờ…

Cuốn Phim tôi tạm đặt tên là “Chạnh lòng thương xót” mô tả những linh mục già yếu ở Việt Nam đã gây xúc động cho vô số giáo dân Việt Nam khi nhìn thấy những linh mục già nua, sau nhiều năm tháng phục vụ, giờ đây sống cô đơn, tay run run không sao cầm nổi ly nước uống hay tô cháo mà ăn. Cần ít là thêm một cuốn phim “Chạnh lòng thương xót” khác để trình bày về cảnh sống cô đơn, đôi khi buồn chán và có cảm tưởng bất cần, vô dụng của những nữ tu già nua, bệnh hoạn hay gần chết.

Rối cũng cần thêm vài cuốn phim “Chạnh lòng thương xót” để mô tả những ông bà cao niên người Việt Nam ở trong nước và ngoài nước. Họ từng là những người có tên tuổi và hữu dụng, nhưng giờ đây sống âm thầm trong một căn hộ mướn, ở xứ người. Họ cố gắng đi lễ và nhất là đóng góp tài chánh cho giáo xứ theo số tiền hạn chế của mình…. nhưng nhiều khi bị khinh thường, bị đào thải và bị lãng quên. Mong các giáo xứ hải ngoại có một “chạnh lòng thương xót” thật sự với người cao niên, già yếu, cô đơn. Tuổi già, sức yếu, cô đơn! Ai rồi cũng sẽ trải qua. Hãy chạnh lòng thương xót để được xót thương. Amen

Lm. Phêrô Trần thế Tuyên 


09/06/13 CHÚA NHẬT TUẦN 10 TN – C
Lc 7,11-17

SỰ VĨ ĐẠI CỦA THIÊN CHÚA
“Một vị ngôn sứ vĩ đại xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa thăm dân Người.” (Lc 7,16)
Suy niệm: Dân chúng vô cùng thán phục khi chứng kiến việc Chúa Giê-su làm cho con trai bà góa thành Na-in chỗi dậy từ cõi chết. Họ ca tụng Ngài là vị ngôn sứ vĩ đại, và qua Ngài, Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Dấu chỉ để họ nhận ra sự vĩ đại của Thiên Chúa là làm cho kẻ chết sống lại –bởi đặc tính của Ngài là làm cho sống. Nhưng một vài trường hợp được sống lại từ cõi chết –như trường hợp này, hay La-da-rô chết chôn bốn ngày sống lại (Ga 11,1-45)– chỉ là dấu chỉ cho một công trình vĩ đại hơn. Thiên Chúa viếng thăm không chỉ một số người Ít-ra-en, mà là toàn thể nhân loại; không chỉ hoàn sinh để rồi lại chết, mà là sự sống trường cửu, sự sống đời đời mà được ban cho nhân loại nhờ sự phục sinh của chính Ngài. Rất tiếc, nhiều người không nhận ra sự vĩ đại này của Thiên Chúa!
Mời Bạn: Có khi chính chúng ta cũng không nhận ra sự vĩ đại đó: Chúng ta tạ ơn Chúa khi được tai qua nạn khỏi, nhưng lại rất khó chấp nhận –chẳng hạn– việc Chúa gọi chúng ta từ bỏ cõi đời này để vào cõi vĩnh hằng với Ngài. Tin vào sự vĩ đại của Thiên Chúa để được sống đời đời: Thật đơn giản, đó chính là tin vào Đức Ki-tô, bởi: “Ai tin vào Ngài thì dù có chết cũng sẽ được sống” (Ga 11,25).
Sống Lời Chúa: Hãy siêng năng đến với Bí tích Thánh Thể, vì Đấng Vĩ Đại từng nói: “Ai ăn thịt và uống máu Ta sẽ có sự sống đời đời” (Ga 6,54).
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa là sự sống lại và là sự sống. Xin ban thêm niềm tin cho chúng con, để chúng con cùng vác thập giá với Chúa trong cuộc đời để sẽ được cùng sống lại với Chúa.

THIÊN CHÚA VIẾNG THĂM DÂN NGƯỜI

Suy nim:
Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim.
Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông.
Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain.
Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra.
Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ.
Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết.
Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng,
và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận.
Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường.
Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết,
dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai.
Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ.
Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa.
Bà đã dự đám tang của người chồng.
Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất.
Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi.
Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ.
Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất.
Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu?
Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt.
Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13).
Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác.
Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33),
Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34).
Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy:
Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15).
Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết.
Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì.
Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại.
Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn,
chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái.
Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14).
Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh.
Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23).
Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu?
Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác.
Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ,
khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui.
Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16).
Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44),
Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới.
Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác,
và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.
Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim.
thì đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.
Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Lectio: Chúa Nht X Thường Niên (C)

Chúa Nht, 9 Tháng 6, 2013
Đức Giêsu cho con trai một bà góa thành Na-in sống lại
Chúa Giêsu chạnh lòng thương
Lc 7:11-17


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa Thánh Thần, sức sống của linh hồn con, con thờ lạy Chúa.  Xin Chúa soi sáng, hướng dẫn con, tăng sức, phù trợ con, dạy cho con luôn tuân theo Thánh Ý của Chúa Cha.  Xin Chúa hãy giúp con biết Chúa muốn gì:  con hứa là sẽ dâng trọn tất cả những gì Chúa muốn nơi con và chấp nhận tất cả những gì xảy đến với con. 
Amen.
(ĐHY Désiré Mercier)
2.  Bài Đọc

a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:

Bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta câu chuyện con trai của bà góa thành Na-in được sống lại.  Một cái nhìn vào bối cảnh văn học của chương 7 theo sách Tin Mừng Luca sẽ giúp chúng ta hiểu được câu chuyện này.  Tác giả Phúc Âm muốn cho thấy rằng Chúa Giêsu mở đường cho chúng ta bằng cách cho chúng ta thấy một điều gì đó mới mẻ về Thiên Chúa như nó đến với chúng ta trong lời loan báo Tin Mừng.  Đây là cách mà sự chuyển đổi và cởi mở sắp xảy ra:  Đức Giêsu lắng nghe lời cầu khẩn của dân ngoại, không phải là người Do Thái (Lc 7:1-10) và cho con trai một bà góa sống lại (Lc 7:11-17).  Cách thức mà Chúa Giêsu mặc khải về Nước Thiên Chúa đến như một sự bất ngờ cho những người anh em Do Thái lá những người không quen với lối cởi mở này.  Đó cũng là một điều ngạc nhiên cho ông Gioan Tẩy Giả là kẻ đã sai người đến hỏi thăm:  “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”  (Lc 7:18-30).  Chúa Giêsu chế giễu tính hay thay đổi của những kẻ đương thời với Người:  “Họ giống như lũ trẻ ngồi ở giữa chợ mà gọi nhau:  ‘Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than’” (Lc 7:31-35).  Cuối cùng, chúng ta trông thấy sự cởi mở của Chúa Giêsu đối với phụ nữ (Lc 7:36-50).

b)  Bài đọc

Trích Tin Mừng theo thánh Luca (7:11-17)
11 Sau đó, Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. 12 Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà góa. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. 13 Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: "Bà đừng khóc nữa! " 14 Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói: "Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy! " 15 Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. 16 Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người".17 Lời này về Đức Giêsu được loan truyền khắp cả miền Giuđêa và vùng lân cận.

c)  Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:

Lc 7:11-12:  Cuộc gặp gỡ của hai đám rước
Lc 7:13:  Lòng trắc ẩn trong hành động
Lc 7:14-15:  “Này người thanh niên, Ta bảo anh:  hãy trỗi dậy!”
Lc 7:16-17:  Các hệ quả

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống của chúng ta.

4. Một vài câu hỏi gợi ý

Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm và cầu nguyện cá nhân.

a)  Văn bản cho chúng ta biết rằng có hai nhóm người.  Nhóm người nào được Chúa Giêsu để ý đến?
b)  Động lòng trắc ẩn, Chúa Giêsu cho con trai bà góa sống lại.  Sự đau khổ của người khác có làm tôi động lòng trắc ẩn như thế không?
c)  Tôi phải làm những gì để giúp đỡ người khác vượt qua được sự đau khổ và mở ra một đời sống mới cho họ?
d)  Thiên Chúa đã ghé thăm dân Người.  Tôi có nhận ra được nhiều chuyến viếng thăm của Thiên Chúa trong đời tôi và trong đời sống người ta không?
e)  Tôi có biết ơn, tôi có ngợi khen và tạ ơn Chúa vì rất nhiều những điều tốt đẹp tôi đã nhận được không?

5.  Dành cho những người muốn đào sâu hơn vào chủ đề

a)  Lời bình giải về văn bản  

Lc 7:11-12:  Cuộc gặp gỡ của hai đám rước
“Sau đó, Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người.  Khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà góa. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà.”
Thánh Luca giống như một họa sĩ.  Với một ít chữ, ông đã phác họa ra một bức tranh rất đẹp về cuộc gặp gỡ của hai đám đông hay đám rước, một đám tang đang rời thành và cùng đi với bà mẹ góa đưa người con trai duy nhất của bà ra nghĩa trang; một đám đông khác đang đi theo Chúa Giêsu tiến vào thành.  Cả hai gặp nhau tại một quảng trường nhỏ gần cổng thành Na-in.

Lc 7:13:  Lòng trắc ẩn trong hành động
“Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: ‘Bà đừng khóc nữa!’"  Vì chạnh lòng thương nên đã khiến Chúa Giêsu nói và làm.  Lòng thương xót hay lòng trắc ẩn, theo nghĩa đen, có nghĩa là cùng chịu đau khổ với, cảm thông được nỗi đau khổ của người khác, đặt mình trong cùng hoàn cảnh và đồng cảm với nỗi đau khổ của người khác.  Đó là lòng thương xót đã khơi nên quyền năng trong Chúa Giêsu, quyền năng của sự sống vượt thắng cái chết, quyền năng của sự tác tạo.

Lc 7:14-15:  “Này người thanh niên, Ta bảo anh:  hãy trỗi dậy!”

“Rồi Chúa Giêsu tiến lại gần, chạm vào quan tài và nói: ‘Này người thanh niên, Ta truyền cho anh: hãy trỗi dậy!’  Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói.  Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ”.  Đôi lúc, khi có nỗi đau khổ lớn lao vì cái chết của người thân yêu, người ta nói rằng:  “Vào thời của Chúa Giêsu, khi Chúa bước đi trên trái đất này, đã có hy vọng không mất đi người thân yêu bởi vì Chúa Giêsu có thể làm cho người ta sống lại”.  Những người như thế đã nghĩ đến việc con trai bà góa thành Na-in được cho sống lại như là một việc gì đó đã xảy ra trong quá khứ, khiến chúng ta nghĩ về quá khứ và nhất định có chút ghen tị. Tuy nhiên, ý định của Tin Mừng không phải là để chúng ta nghĩ về quá khứ hoặc đưa đến lòng đố kỵ, mà là để giúp chúng ta có thể hiểu rõ hơn về sự hiện diện sống động của Chúa Giêsu ở giữa chúng ta. Chính Chúa Giêsu, Đấng có quyền năng chiến thắng cái chết và nỗi đau đớn về cái chết, và là Đấng tiếp tục sống ở giữa chúng ta.  Người đang ở với chúng ta hôm nay và khi đối mặt với các khó khăn có khả năng dìm chúng ta xuống thì Người lại nói một lần nữa:  “Ta truyền cho ngươi, hãy chỗi dậy!”  

Lc 7:16-17:  Các hệ quả
“Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: ‘Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người’.  Lời này về Đức Giêsu được loan truyền khắp cả miền Giuđêa và vùng lân cận.”  Đây là vị ngôn sứ đã được báo trước bởi ông Môisen (Đnl 18:15).  Thiên Chúa Người đến viếng thăm chúng ta là “Cha của các cô nhi và là Đấng che chở cho các quả phụ (TV 68:6; xem Gđt 9:11).

6.  Lời nguyện  Thánh Vịnh 68:5-9: 

5 Hãy hát mừng Thiên Chúa, đàn ca kính danh Người,
hãy dọn đường cho Đấng ngự giá đằng vân.
Danh Người là ĐỨC CHÚA;
trước Thánh Nhan, hãy vui mừng hớn hở.

6 Cha nuôi dưỡng cô nhi, Đấng đỡ bênh quả phụ,
chính là Thiên Chúa ngự trong thánh điện Người.
7 Kẻ cô thân, Thiên Chúa cho nhà cửa,
hạng tù đày, Người trả lại tự do hạnh phúc,
còn quân phản nghịch phải ở nơi khô cằn.

8 Lạy Thiên Chúa,
thuở Ngài lãnh đạo đoàn dân riêng xuất trận,
thuở Ngài tiến bước trong sa mạc hoang vu,
9 đất đã chuyển rung, trời cũng tan chảy,
trước mặt Thiên Chúa, Đấng xuất hiện tại núi Xi-nai,
trước mặt Thiên Chúa là Thiên Chúa của Ít-ra-en.

7. Lời Nguyện Kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu được ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con khả năng để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét