16/02/2014
CHÚA NHẬT VI MÙA THƯỜNG NIÊN năm A
(phần I)
Bài
Ðọc I: Sir 15,16-21
"Người
không truyền dạy cho một ai làm điều gian ác"
Bài
trích sách Ðức Huấn ca.
Nếu
người muốn tuân giữ các giới răn:
việc
trung thành giữ các giới răn là tùy ở ngươi.
Người
đặt trước mặt ngươi nước và lửa,
ngươi
muốn cái gì, thì giơ tay ra trên đó.
Trước
mặt con người là sự sống và sự chết, sự lành và sự dữ,
họ
thích thứ nào, thì được thứ ấy.
Bởi
chưng, Thiên Chúa đầy khôn ngoan, hùng dũng và toàn năng.
Người
luôn luôn nhìn thấy mọi loài.
Chúa
nhìn đến những kẻ kính sợ Người,
và
thấu suốt mọi hành động của con người.
Người
không truyền dạy cho một ai làm điều gian ác,
và
không cho phép một ai phạm tội.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv. 118,1-2, 4-5, 17-18, 33-34
Ðáp: Phước đức những
ai tiến thân trong luật pháp của Chúa.
Xướng
1) Phước đức những ai có đường lối tinh tuyền, họ tiến thân trong luật pháp của
Chúa. Phước đức những ai giữ lời Chúa răn bảo, những người đó tận tâm tìm kiếm
Chúa. - Ðáp.
2)
Phần Chúa, Chúa ban bố huấn lệnh, để chúng được tuân giữ hết sức ân cần. Nguyện
cho đường nẻo tôi vững chắc, để tuân giữ thánh chỉ của Chúa. - Ðáp.
3)
Xin gia ân cho tôi tớ Chúa được sống, để tuân giữ những lời Chúa răn. Xin mở rộng
tâm hồn con mắt của tôi, để quân chiêm những điều kỳ diệu trong Luật Chúa. -
Ðáp.
4)
Lạy Chúa, xin tỏ cho tôi biết đường lối thánh chỉ Ngài, để cho tôi được hoàn
toàn tuân giữ. Xin giáo huấn tôi, để tôi tuân cứ luật pháp của Ngài, và để tôi
hết lòng vâng theo luật đó. - Ðáp.
Bài
Ðọc II: 1Cor 2,6-10
"Thiên
Chúa đã tiền định từ trước muôn thuở, để làm nên sự hiển vinh của chúng
ta".
Bài
trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Corintô.
Anh
em than mến, chúng tôi có bàn giải sự khôn ngoan
với
những người toàn thiện, mà đó không phải là sự khôn ngoan của thế gian,'
cũng
không phải của những bậc vua chúa thế trần,
hạng
người đã bị dồn vào chỗ hư vong.
Nhưng
chúng tôi thuyết sự khôn ngoan đầy nhiệm mầu của Thiên Chúa,
vẫn
được giấu kín, mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn thuở,
để
làm nên sự hiển vinh của chúng tôi.
Sự
khôn ngoan đó, không một ai trong các vua chúa thế trần đã biết tới:
vì
giả thử nhận biết, hẳn họ đã không đóng đinh Chúa sự hiển vinh.
Nhưng
chúng tôi rao giảng như lời đã chép:
"Sự
mắt chưa từng thấy và tai chưa từng nghe,
và
lòng người cũng chưa từng mơ ước tới,
đó
là tất cả những điều Thiên Chúa đã làm ra cho những ai yêu mến Người".
Bởi
chưng Thiên Chúa đã mạc khải điều đó cho chúng tôi,
do
Thánh Thần của Người.
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia:
Joan 1,14 và 12b
Alleluia!
Alleluia! Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe; Chúa có lời ban sự sống
đời đời. Alleluia!
Phúc
Âm: Mt 5, 17-37
"Người
xưa đã bảo như thế, còn Ta, Ta bảo thật các con thế này".
Bài
trích Phúc Âm theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:
"Các
con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri:
Ta
không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Ta bảo thật các con:
Cho
dù trời đất có qua đi, thì một chấm một phẩy trong bộ luật
cũng
không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành.
Bởi
vậy, ai hủy bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất,
và
dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời;
Trái
lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó,
sẽ
được kể là người cao cả trong Nước Trời.
Nếu
các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái,
thì
các con chẳng được vào Nước Trời đâu.
Các
con đã nghe dạy người xưa rằng:
Không
được giết người.
Ai
giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án.
Còn
Ta, Ta bảo các con: Bất cứ ai phẩn nộ với anh em mình,
thì
sẽ bị toà án luận phạt.
Ai
bảo anh em là ngốc, thì bị phạt trước công nghị.
Ai
rủa anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa địa ngục.
Nếu
ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ
mà
sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với ngươi,
thì
ngươi hãy để của lễ lại trước bàn thờ,
đi
làm hòa với người anh em ngươi trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ.
Hãy
liệu làm hòa với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó,
kẻo
kẻ thù sẽ đưa ngươi ra trước mặt quan tòa,
quan
tòa lại trao ngươi cho tên lính canh và ngươi sẽ bị tống ngục.
Ta
bảo thật cho ngươi biết:
"Ngươi
sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng bạc cuối cùng!"
Các
con đã nghe nói với người xưa rằng:
"Chớ
ngoại tình". Còn Ta, Ta bảo các con:
"Hễ
ai nhìn xem phụ nữ mà ước ao phạm tội với họ,
thì
đã ngoại tình với họ trong lòng rồi.
Nếu
con mắt phải của con nên dịp tội cho con,
thì
hãy móc nó mà ném xa con; vì thà mất một chi thể
còn
lợi hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục.
Và
nếu tay phải con nên dịp tội cho con, thì hãy chặt mà ném nó xa con;
vì
thà mất một chi thể còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục".
Cũng
có lời dạy rằng: "Ai ly dị vợi mình,
trừ
trường hợp tà dâm, thì làm cớ cho vợ ngoại tình;
và
ai cưới người vợ đã ly dị, cũng phạm tội ngoại tình".
Các
con cũng đã nghe có lời bảo người xưa rằng:
"Chớ
thề gian, nhưng hãy giữ trọn lời mình thề với Chúa".
Còn
Ta, Ta bảo các con:
"Ðừng
thề chi cả; đừng lấy trời mà thề,
vì
trời là ngai Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì đất là bệ chân Người;
đừng
lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả.
Cũng
đừng chỉ đầu ngươi mà thề,
vì
ngươi không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hay đen được.
Nhưng
lời nói của các con phải là: Có thì nói có,
không
thì nói không, thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Giáo
huấn chung của Tân Ước
Phụng
vụ Mùa Thường niên không đề cao một mầu nhiệm nào đặc biệt, nhưng chỉ trình bày
giáo huấn thông thường của Hội Thánh liên quan đến đời sống hàng ngày của tín hữu.
Hôm nay chúng ta vừa được nghe một đoạn sách Huấn ca, một khúc thơ Phaolô và một
số lời Tin Mừng theo thánh Mátthêô. Nếu được phép tổng hợp, chúng ta có thể nói
Lời Chúa hôm nay khuyên chúng ta hãy lựa chọn đường lối khôn ngoan của Thiên
Chúa và đến với Ðức Yêsu Kitô là Ðấng đang rao giảng sự khôn ngoan của Thiên
Chúa cho loài người.
A.
Chúng Ta Hãy Lựa Chọn Ðường Lối Khôn Ngoan
Huấn
ca là một tác phẩm trong loại sách khôn ngoan của Thánh Kinh Cựu Ước. Ngay
trong đoạn trích đọc vắn tắt hôm nay, người ta đã có thể nhận ra mấy sắc thái
chính yếu của tác phẩm cũng như của loại sách khôn ngoan này. Tác giả kêu gọi sự
tự do lựa chọn của con người. Không có sự tự do, không thể nói đến triết học và
khôn ngoan. Do đó các sách khôn ngoan không có tính cách giáo điều. Luôn luôn độc
giả được kêu mời tự do lựa chọn. Hơn nữa, hạnh phúc mà người ta tìm kiếm nằm
ngay ở tầm tay của họ. Giơ tay nắm lấy cái gì, hạnh phúc hay bất hạnh, thì người
ta sẽ được ngay cái đó.
Như
vậy, tư tưởng của Thánh Kinh không có gì là "định mệnh" cả. Chính con
người làm chủ vận mạng của mình. Và điều này, ngay trang đầu của bộ Kinh Thánh
cũng đã khẳng định. Thiên Chúa bấy giờ dựng nên Ađam-Evà. Người đặt họ trong
"vườn địa đàng" có đủ mọi thứ cây ngon lành có thể thỏa mãn sự thèm
khát của con người. Nhưng giữa vườn cũng có một cây "lành dữ", mà nếu
giơ tay bất quả nó mà ăn, con người sẽ có kinh nghiệm mất mát tất cả những gì
đang có và bắt được những gì ngược hẳn với nếp sống hiện nay. Lúc này họ đang sống
trong tình giao hữu hạnh phúc với Thiên Chúa là nguồn mọi sự sống. Bứt quả cây
trái cấm mà ăn, họ sẽ rơi vào tình trạng thù địch với Người và nếm biết sự chết
đời đời. Ađam-Evà đã được đặt trong tình trạng tự do để lựa chọn tương lai cho
mình và con cháu. Trái cây hạnh phúc và bất hạnh ở ngay tầm tay của họ. Họ có
thể lựa chọn giữa sự sống và sự chết, giữa "lửa và nước" như lời sách
Huấn ca hôm nay viết, bởi vì "lửa" là hình ảnh về sức mạnh tiêu diệt,
tàn phá và chết chóc, còn "nước" lại nói lên nguồn mạch sinh ra sự sống
và sự sống dồi dào. Con người muốn lựa chọn đàng nào cũng được.
Ađam-Evà
đã lựa chọn thế nào thì chúng ta ai cũng đã biết. Chúng ta có thể tức vì tại
hai ông bà đã chọn điều dữ, nên loài người chúng ta ngày nay đang sống trong
tình trạng sa đọa. Nhưng ngay trong tình trạng này, con người chúng ta vẫn có sự
tự do lựa chọn. Mặc nhiên, mọi người đều tin như vậy. Chỉ mấy triết gia suy đi tính
lại tỉ mỉ quá mức mới dám hoài nghi: không biết cuối cùng con người có còn tự
do hay không? Hay là họ đã nằm trong bàn tay của một "con tạo đa
đoan" và định mệnh của họ đã được ghi khắc một lần thay vì tất cả ngay cả
từ trước khi họ sinh ra ở đời. Hai câu cuối của bài sách Huấn ca hôm nay phi
bác mọi luận điệu như thế. Tác giả viết: Thiên Chúa không truyền cho ai phạm tội;
Người không ủy lạo kẻ dối trá. Ngược lại truyền thống Thánh Kinh luôn khẳng định:
vì là Ðấng tốt lành, Thiên Chúa không muốn ai phải chết: Người luôn ra tay cứu
độ; tất cả những gì Người làm chỉ là hướng dẫn con người về đường ngay nẻo
chính để họ được sống và được sống dồi dào. Lựa chọn sự dữ và bất hạnh là quyền
lợi - nói đúng hơn, là quyền hạn - của con người. Ðúng hơn nữa, đó là lạm dụng
quyền tự do mà Thiên Chúa đã ban cho mình.
Chúng
ta có nhiều kinh nghiệm về thái độ của nhiều người khác. Rõ ràng họ được tự do
hoàn toàn để lựa chọn điều hay, hay là điều dở, đặc biệt trong các quan hệ với
chính chúng ta. Chúng ta tạo mọi điều kiện để giữa họ và ta có những tương quan
thuận lợi. Thế mà dường như có một cái gì như cố chấp ở nơi họ. Mối tình giữa họ
và ta chẳng sao xây dựng được và khả quan hơn. Tất cả, theo quan điểm của ta,
chỉ vì họ không muốn.
Có
lẽ bài sách Huấn ca đã đi từ kinh nghiệm ấy. Tác giả mở đầu bằng mấy chữ
"nếu muốn". Nếu muốn thì con người sẽ giữ lệnh truyền của Chúa; và
như vậy họ sẽ được sống. Bằng không họ sẽ tra tay vào lửa và lựa chọn sự chết.
Tư tưởng của Thánh Kinh vì thế đề cao sự tự do của con người . "Từ đầu
Thiên Chúa đã dựng nên họ và trao họ cho tâm thuật của họ" (Hc 15,14), tức
là để cho họ được tự do làm theo ý mình. Tuy nhiên "Người biết hết mọi sự
và toàn năng". Mắt Người nhìn xuống những kẻ kính sợ Người�
Thế
nên sự khôn ngoan của sách Huấn ca cũng như của tư tưởng Kinh Thánh là con người
hãy đi theo đường lối của Thiên Chúa. Chính đó là sự khôn ngoan. Con người giữ
lệnh truyền của Thiên Chúa sẽ chắc chắn đi trong đường lối khôn ngoan dẫn đến sự
sống, vì sự "khôn ngoan của Thiên Chúa thật vạn năng".
Chân
lý này, người tín hữu nào cũng công nhận. Khó khăn nằm ở chỗ thực hành. Trong đời
sống thực tế, không phải lúc nào cũng dễ tuân giữ lệnh truyền của Thiên Chúa.
Chính dân Israel ngày xưa cũng vậy. Mặc cho các tiên tri kêu gọi họ trở về đường
lối mà Chúa đã vạch ra trong Luật pháp, họ vẫn đi theo đường lối của họ. Nói
đúng hơn, họ muốn sống như mọi dân tộc khác và khước từ cố gắng chu toàn ơn gọi
làm Dân Riêng của Chúa. Chúng ta, những kẻ ở trong Dân Mới của Người, cũng
không hơn gì họ. Chính vì vậy mà chúng ta cần lắng nghe lời khuyên bảo của
thánh Phaolô.
B.
Sự Khôn Ngoan Của Thiên Chúa
Thư
1 Côrinthô quen được coi như thư riêng của người Công giáo, theo nghĩa những
người này thích đọc nó như người Tin lành thường thích đọc thư Rôma. Và quả thật,
thư 1 Côrinthô có nhiều yếu tố để nói với các cộng đồng Công giáo. Nó có cả những
đề tài, như lời mở đầu đoạn trích đọc hôm nay cho biết, dành cho những
"người thành toàn", tức là những người đã tiến bộ trong đức tin và đời
sống tín hữu. Trong số đó có đề tài về sự khôn ngoan mà bài đọc I hôm nay đã đề
cập.
Sự
khôn ngoan của đạo chúng ta, kể từ lời mạc khải đầu tiên cho đến lời Kinh Thánh
cuối cùng, không phải là sự khôn ngoan của đời tạm này. Càng không phải là sự
khôn ngoan của những đầu mục của đời tạm này. Nó là sự khôn ngoan của Thiên
Chúa, sự khôn ngoan mà các sách khôn ngoan trong Thánh Kinh Cựu Ước thường đem
ra bàn. Tác giả sách Huấn ca đã thấy nó nằm trong các lệnh truyền của Thiên
Chúa. Và những tác giả khác cũng đồng ý bảo nó nằm nơi Luật pháp mà Chúa đã ban
cho Dân Riêng của Người.
Tuy
nhiên Luật pháp thì dài và lệnh truyền thì nhiều. Hơn nữa dù vẫn nghe Luật pháp
và Tiên tri trong các ngày Hưu lễ nơi Hội đường, người dân Israel ngày xưa vẫn
không nhận ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Dường như vẫn còn có một tấm màn
che mắt họ, khiến họ nghe đọc mà chẳng hiểu, xem thấy mà chẳng nhận ra. Mãi đến
khi tấm màn trong Ðền thờ rách toang ra vào Giờ Chúa Yêsu chịu chết trên Thập
giá, sự khôn ngoan của Thiên Chúa mới tỏ hiện. Người ta mới biết Ðức Yêsu là
ai. Người là Ðấng Cứu thế! Và Thiên Chúa đã muốn tỏ hiện sự khôn ngoan của Người
ở nơi Ngài: "Ngài là Con Chí Ái của Ta, các ngươi hãy nghe Ngài".
Chính
vì vậy mà thánh Phaolô viết rằng, sự khôn ngoan của Thiên Chúa vẫn giữ kín từ đời
đời cho đến lúc bấy giờ. Trước đó người ta đã được nghe nói về đường lối khôn
ngoan cứu độ của Thiên Chúa. Người ta cũng đã thấy rất nhiều kỳ công mà Người
đã làm. Tuy nhiên tất cả như còn là tiền ảnh và biểu tượng và như còn được nói
bằng "dụ ngôn". Nhưng mọi sự đã trở nên sáng tỏ và mới hẳn trong mầu
nhiệm của Ðức Yêsu Kitô, cách riêng trong biến cố Tử nạn - Phục sinh của Người.
Ðứng trước mạc khải này, những người được ơn khôn ngoan nhất, cũng bàng hoàng
như thể trong mơ. Không vậy thì người Dothái đã không đóng đanh Ðức Yêsu; và
ngay các Tông đồ đã không lấy việc sống lại làm khó hiểu. Chỉ khi đã chắc chắn
về biến cố Phục sinh, các môn đệ mới thấy Ðức Yêsu là "Chúa"; họ mới
tuyên xưng Người là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa; họ mới thấy Luật pháp và Tiên
tri trước kia đã chỉ nói về Người.
Như
vậy, sự khôn ngoan của Thiên Chúa, sự khôn ngoan mang lại sự sống và hạnh phúc
đời đời cho con người, không phải là Luật pháp và các Tiên tri, nhưng là Ðức
Yêsu Kitô; mà cũng không phải là Ðức Yêsu Kitô như xác thịt cho biết, nhưng là
"Chúa" Yêsu Kitô trong ánh sáng đức tin mà mầu nhiệm Tử nạn - Phục
sinh của Người đã ban cho. Nhờ ánh sáng tỏa ra từ mầu nhiệm này, Luật pháp và
Tiên tri mới minh bạch. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa giữ kín ở đó mới bộc lộ
ra. Từ nay đọc lên người ta mới hiểu rõ vì họ đã nhận được Thánh Thần, Ðấng dò
thấu mọi sự, cả những chiều sâu thẳm nơi Thiên Chúa. Và Thánh Thần chỉ được ban
cho người ta sau khi Ðức Yêsu đã tử nạn-phục sinh lên ngự bên hữu Thiên Chúa để
tuôn đổ xuống cho những kẻ có lòng tin.
Thế
mà có những tín hữu cứ muốn luận lý với những người chưa có đức tin về đường lối
khôn ngoan của Thiên Chúa! Họ còn lầm hơn khi dám so sánh đường lối của Thiên
Chúa với đường lối của thế gian. Lẽ ra họ đã phải cầu xin trước cho người ta được
ơn đức tin. Họ phải lựa chọn Chúa trước rồi mới thấy được sự khôn ngoan của Người.
Chính điều này cũng cần phải có để nhận ra ý nghiã của những lời Tin Mừng hôm
nay mà Chúa Yêsu, sự Khôn ngoan của Thiên Chúa, đang nói với chúng ta. Người
đang rao giảng sự khôn ngoan của Thiên Chúa ở trong Hội Thánh. Chúng ta hãy
nghe Người.
C.
Thiên Chúa Nói Sự Khôn Ngoan Của Người Với Chúng Ta
Chắc
chắn không nên tìm trong đoạn này một bố cục chặt chẽ. Vì đây không phải là một
bài luân lý; nhưng chỉ là mớ những lời dạy dỗ, có thể đã được nói trong nhiều
hoàn cảnh khác nhau, mà tác giả sách Tin Mừng đã lấy đặt đứng bên nhau để làm
thành một "bài giảng".
Chúng
ta có thể nhận ra một số câu mở đầu. Ðức Yêsu tuyên bố: "Ðừng tưởng Ta đến
để bãi bỏ Lề Luật hay các Tiên tri; Ta đến không phải để bãi bỏ mà để làm trọn".
Lời nói hết sức quan trọng. Lập tức, Chúa Yêsu đã khẳng định Người là Ðấng phải
đến trong thế gian, tức là Vị Cứu thế mà Cựu Ước loan báo phải trông đợi. Uy
quyền của Người át cả Lề luật và các Tiên tri. Tuy nhiên Người không phủ nhận
và bãi bỏ họ. Người kiện toàn họ. Thế nên không được coi nhẹ một nét nhỏ nào
trong Luật pháp. Câu này không có ý nói lên bất cứ một chút xíu nào trong
khuynh hướng bảo thủ và vụ luật. Nó muốn tăng cường sức mạnh cho câu khẳng định
ở trên: Ta đến không phải để bãi bỏ mà để làm nên trọn. Và cũng chính vì vậy mà
người trong Dân Mới phải công chính hơn các Ký lục và Biệt phái trong Ðạo cũ.
Những người này nổi tiếng là những người giữ Luật, thì những ai theo Ðấng đến
làm cho Luật pháp nên trọn phải công chính hơn.
Chẳng
han Luật xưa bảo: Chớ giết người! Thì nay, Ðấng đến làm trọn Lề luật truyền lệnh
không được tức giận anh em mình. Người đòi hỏi một sự công chính lớn và sâu xa
hơn. Người làm "trọn" luật chớ giết người, khi cấm ngay cả sự tức tối
trong tâm hồn. Hễ bất hòa với ai, người ta phải mau mau hòa giải để có khả năng
thờ phượng, tức là để xứng đáng ở lại trong Dân Mới của Thiên Chúa là Dân có bản
chất tư tế. Ðàng khác người ta luôn phải sợ có tâm hồn bất hòa như thế mà phải
gặp mặt Ðấng Chí Công phán xét khi Người bất thần kêu gọi họ ra khỏi đời này.
Người muốn môn đệ của Người luôn sống trong trạng thái yêu mến, như Thiên Chúa
là Ðấng Mến Yêu.
Một
thí dụ khác, Luật xưa dạy: Chớ ngoại tình! Nay Ðấng kiện toàn Lề luật đến, Người
tuyên bố: phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong
lòng. Và Người truyền: con mắt nào có những cái nhìn như thế, thì tốt hơn nên
móc mà quăng nó đi. Vì thà mất một chi thể còn lợi hơn là có cả toàn thân mà bị
xô vào hỏa ngục. Ý của Người muốn người ta phải tiêu diệt tội lỗi ngay từ trong
lòng và nơi các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội lỗi.
Nhưng
đã nói đến ngoại tình, Người không thể mau lẹ bỏ qua một thắc mắc đang sôi nổi ở
thời bấy giờ và có lẽ ở mọi thời, đặc biệt ở thời đại chúng ta. Luật xưa nói:
ai rẫy vợ thì hãy cho vợ ly thư. Và ở nhiều nơi luật đời hiện nay cũng cho ly dị.
Còn Chúa Yêsu, Ðấng đến kiện toàn Lề luật nghĩ thế nào?
Có
lần Người đã khẳng định: Xưa Môsê nói như vậy là vì sự yếu đuối của con cái
Israel, chứ tự nguyên thủy không như vậy và những gì Thiên Chúa đã kết hiệp,
loài người không được phân rẽ. Ở đây, trong đoạn văn này, lập trường trên vẫn
không thay đổi, vì ai cưới người vợ ly dị là phạm tội ngoại tình. Nhưng cũng vì
con người yếu đuối, và cũng để tôn trọng chứ không phải bãi bỏ Luật xưa đã cho
phép, sách Tin Mừng Matthêô hôm nay viết: mọi kẻ rẫy vợ - trừ phi là nố dâm bôn
- là làm cho vợ ngoại tình. Tác giả cho phép có một nố trừ. Các nhà chú giải mặc
sức tìm hiểu sự thật nố trừ này là gì. Ðiều chắc chắn là ngoài tác giả Matthêô
ra, không một tác giả Tân Ước nào khác cho phép có luật trừ trong việc cấm ly dị.
Sự kiện này cho phép chúng ta nghĩ rằng: trong toàn thể Hội Thánh thời các Tông
đồ, đâu đâu cũng rao giảng giáo lý của Chúa tuyệt đối cấm ly dị. Nhưng ở những
môi trường người Dothái theo đạo, người ta còn bám vào Luật Môsê; người ta nại
đến việc Chúa không đến để bãi bỏ Lề luật; người ta muốn được áp dụng Luật mới
một cách nhẹ nhàng... Có lẽ vì vậy tác giả Matthêô viết sách cho những môi trường
này, đã đề cập tới một nố trừ nhưng vẫn khẳng định tính cách vĩnh viễn của hôn
nhân. Nói theo danh từ của Giáo hội hiện nay, có những trường hợp được ly thân
nhưng không được ly hôn vì ai cưới người vợ ly dị là phạm tội ngoại tình. Tuy
nhiên muốn nói cho hết lẽ, chẳng bao giờ được phép tựa vào một câu để đi ngược
lại với toàn bộ giáo huấn chung của Tân Ước và giáo lý sống động của Hội Thánh.
Và điều này chúng ta cũng phải áp dụng ở đây.
Chúa
Yêsu đang dạy dỗ dân chúng một cách sống động. Người là sự khôn ngoan của Thiên
Chúa đến với loài người. Dân chúng không thấy Người nói như các Luật sĩ và Biệt
phái. Người có giáo lý mới "mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe".
Người kêu gọi lòng tin. Người ta được tự do lựa chọn. Và bắt đầu người ta phải
tin Người. Ðó chính là điều mới lạ. Và cũng là điều tồn tại mãi mãi trong đạo của
Người, đạo của chúng ta.
Ngay
trong giờ phút này và ở đây, chúng ta cử hành Thánh lễ. Ðây là mầu nhiệm đức
tin. Chúng ta tự do lựa chọn thái độ. Mầu nhiệm nằm ở tầm tay chúng ta, theo
nghĩa chúng ta có thể đón nhận với niềm tin hay không. Và tùy đó, chúng ta sẽ
lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa hay không. Chẳng sự khôn ngoan nào của loài
người giúp chúng ta làm được công việc này. Chỉ có Lời của Chúa Yêsu Kitô, chỉ
có uy tín của Người là sự khôn ngoan của Thiên Chúa khiến được chúng ta tin vào
sự biến đổi của bánh rượu. Và khi chúng ta đã lãnh nhận Bí tích với niềm tin
như thế, chúng ta sẽ được gia tăng đức tin, đức cậy và đức mến để thay đổi cuộc
đời hàng ngày của chúng ta, không theo sự khôn ngoan của thế gian nữa, nhưng
theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã được biểu lộ cho chúng ta trong Lời Chúa
và Mình Thánh Chúa mà chúng ta đón nhận trong Thánh lễ này.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật VI Thường
Niên, Năm A
Bài đọc: Sir 15:16-21; 1 Cor
2:6-10; Mt 5:17-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy tìm học và thực
thi đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa.
Nếu
con người biết khiêm nhường học hỏi và quan sát những điều xảy ra trong vũ trụ,
họ sẽ nhận thấy trí khôn của con người rất hạn hẹp và nhiều giới hạn, không thể
nào so với sự khôn ngoan vô biên của Thiên Chúa. Một thái độ như thế sẽ giúp
con người đặt niềm tin nơi Thiên Chúa và làm theo những gì Ngài dạy, và sẽ gặt
hái rất nhiều kết quả tốt lành trong cuộc đời.
Cả
ba bài đọc hôm nay đều nhấn mạnh đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa vượt xa sự
khôn ngoan của con người, và con người phải học hỏi để sống theo đường lối khôn
ngoan của Thiên Chúa. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca đưa ra lý do tại
sao con người phải chọn để sống theo đường lối của Thiên Chúa, vì Ngài nắm giữ
vận mạng của loài người. Trong bài đọc II, thánh Phaolô phân biệt sự khôn ngoan
của Thiên Chúa với sự khôn ngoan của con người. Thiên Chúa ban khôn ngoan của
Ngài cho những ai yêu mến và tìm nó. Trong Phúc Âm, sau khi đã loan báo Hiến
Chương Nước Trời (Mt 5:1-12) và cho hai ví dụ về muối và ánh sáng, Chúa Giêsu
đi thẳng vào trọng tâm của Lề Luật. Ngài vạch rõ những hiểu biết sai lầm về Luật
và lối sống vụ Luật; đồng thời dạy dỗ dân chúng lối sống mang lại hiệu quả theo
Luật của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó.
Sách
Huấn Ca là một trong bảy Sách Khôn Ngoan, chú trọng đến việc dạy dỗ con người
biết sống mối liên hệ với Thiên Chúa và với tha nhân: cha mẹ, vợ chồng, con
cái, bạn hữu, kẻ thù... Sách rất nhiều lần nhấn mạnh đến chân lý nền tảng:
“Kính sợ Thiên Chúa là nguồn mạch mọi khôn ngoan.”
Tại
sao phải học hỏi và tuân theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa? Câu trả lời đơn giản
là vì uy quyền của Thiên Chúa vượt xa con người giới hạn. Tác giả Sách Khôn
Ngoan viết: “Vì trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao, Người mạnh mẽ uy quyền
và trông thấy tất cả. Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và biết rõ
tất cả những gì người ta thực hiện.” Dĩ nhiên, con người có tự do chọn để sống
nghịch ý với Thiên Chúa, nhưng làm như vậy có lợi gì đâu, con người chỉ chuốc lấy
đau khổ và thiệt hại, cả đời này lẫn đời sau. Tác giả cho một ví dụ chọn lựa:
“Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy.
Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó.” Ngay cả sự
tự do của con người cũng là của Thiên Chúa ban, nhưng không phải là để cho con
người muốn chọn sao thì chọn; nhưng phải chọn sao cho hợp với ý của Thiên Chúa,
thì mới mang lại kết quả tốt đẹp và hạnh phúc cho con người.
2/
Bài đọc II:
Chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Sự
khác biệt giữa khôn ngoan của Thiên Chúa và của con người: Thánh Phaolô ý thức
rất rõ những gì ngài rao giảng về Đức Kitô vượt xa giới hạn hiểu biết của con
người, nhất là Đức Kitô chết trên Thập Giá là điều mà con người thường không thể
hiểu được. Ngài nói: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối
với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu
độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa” (1 Cor 1:18). Thánh Phaolô cũng biết
nếu những người liên hệ đến cái chết của Đức Kitô biết Ngài thực sự là Con
Thiên Chúa, họ sẽ không bao giờ dám tham dự vào việc giết Ngài; và như vậy, kế
hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa sẽ không thành công! Chính điều này nói cho con người
biết họ khôn ngoan của họ không thể nào sánh kịp khôn ngoan của Thiên Chúa, họ
đang thi hành kế hoạch của Thiên Chúa mà họ vẫn tưởng đang làm theo sự khôn
ngoan của mình.
Nhưng
tại sao Thiên Chúa lại không mặc khải cho tất cả mọi người được biết? Ngoài lý
do kể trên, Đức Kitô vẫn không ngừng mặc khải cho họ biết Ngài là Con Thiên
Chúa, nhưng họ vẫn bưng tai bịt mắt không chịu nghe Ngài, phần vì họ quá dựa
vào sự khôn ngoan của họ, phần vì họ sợ sẽ mất những lợi nhuận vật chất. Nhưng
đối với những ai khiêm nhường và yêu mến sự thật, Thiên Chúa vẫn cho mọi người ở
mọi nơi và mọi thời có cơ hội để nhận ra và tin vào Đức Kitô, như Phaolô xác nhận:
“Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại
là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người. Còn chúng ta, chúng
ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí.”
3/
Phúc Âm:
Luật trọn lành của Chúa Giêsu
3.1/
Chúa Giêsu giải thích Lề Luật: Trước tiên, chúng ta cần xác định đâu là ý nghĩa của Luật mà
Chúa Giêsu muốn đề cập đến ở đây. Truyền thống Do-thái có ít nhất 4 cách cắt
nghĩa: (1) Thập Giới; (2) 5 cuốn Sách đầu tiên của Kinh Thánh, Ngũ Thư; (3)
Sách Luật và Sách Ngôn Sứ; và (4) không chỉ 3 điều trên, mà còn cả Luật theo
truyền thống của tổ tiên nữa, như luật rửa tay và thanh sạch, như phái
Pharisees hay tranh luận với Chúa Giêsu. Chắc chắn, Chúa Giêsu không muốn nói tới
luật lệ của con người (4), vì chúng bất toàn và hay thay đổi. Ngài cũng không
muốn nói tới cách giải thích Luật theo sự hiểu biết của con người (2) và (3),
vì nhiều khi chúng đi quá xa nguyên tắc căn bản và trở thành gánh nặng cho con
người; tuy nhiên, lời các ngôn sứ về việc Chúa đến chắc chắn Ngài sẽ kiện toàn.
Thập Giới có lẽ là điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ ở đây, vì nó đến trực tiếp từ
Thiên Chúa và không bao giờ thay đổi. Ba áp dụng của Luật Chúa muốn nói tới ở
đây.
(1)
Thi hành Luật chứ không phải chỉ biết Luật: Nhiều người nghĩ có thể trở nên công chính bằng việc
biết Luật hay biết Đức Kitô, Chúa Giêsu nhấn mạnh việc thực thi Lề Luật. Biết
mà không thi hành, có ích lợi gì cho người biết đâu, Satan và bè lũ của chúng
biết còn hơn con người. Chúa cũng nhấn mạnh đến việc dạy dỗ con người làm theo
những gì Luật dạy: “Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn
trong Nước Trời.”
(2)
Không được khinh thường và tức giận với anh em: Nhiều người trong chúng ta chỉ
để ý tới tội giết người, mà ít khi chịu để ý tới tội khinh thường và chửi rủa
anh em. Dĩ nhiên, Chúa không kết tội nóng giận tự nhiên khi tha nhân làm điều
gì cho mình buồn lòng; nhưng không được phản ứng đến độ khinh thường và lăng nhục
tha nhân.
(3)
Sống hòa thuận với tha nhân: Truyền thống Do-thái không xa lạ với lời dạy của Chúa, vì trong
Cựu Ước, tội chỉ có thể được tha khi hội đủ 3 điều: làm hòa, thú tội với Thiên
Chúa, và dâng lễ vật đền tội. Tội không thể được tha cho dù đã thú tội và dâng
lễ vật. Vì thế, “nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người
anh em đang có chuyện bất bình với anh, hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi
làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” Chúa cũng dạy
một điều rất khôn ngoan là hãy biết sống hòa thuận với tha nhân, và tìm cách giải
quyết với nhau khi có vấn đề: chuyện bé đừng xé ra to; chuyện có thể giải quyết
với nhau được đừng đưa nhau đến cửa quan để cả hai đều chịu thiệt hại.
3.2/
Sống theo sự thật: Hễ
"có" thì phải nói "có;" "không" thì phải nói
"không."
Nguyên
tắc căn bản trong cuộc đời là con người phải biết sống theo sự thật, và tuyệt đối
không sống theo sự sai trái; dẫu biết sự thật mất lòng, con người vẫn phải nói,
sống, và làm chứng cho sự thật. Sống theo sự thật không dễ vì nó đòi hy sinh và
ngay cả có thể phải chết để làm chứng cho sự thật. Không ai có thể vỗ ngực tự
nhận mình luôn sống theo sự thật; nhưng điều quan trọng là sau khi đã lỡ sống
theo sự gian trá, con người phải có can đảm tự nhận và thú lỗi: mình đã không sống
theo sự thật Thiên Chúa dạy. Đừng biện hộ với hết lý do này đến lý do kia, để rồi
dần dần giải thích sự gian trá theo lý luận quanh co của mình; nhất là để biến
sự gian trá thành sự thật. Chúa Giêsu đưa ra 4 áp dụng về việc sống theo sự thật.
(1)
Việc ngoại tình: Sự
thật không phải chỉ biểu lộ trong việc làm nhưng còn bắt nguồn trong tư tưởng.
Chúng ta cần phân biệt ở đây giữa thèm muốn tự nhiên với cố ý thèm muốn. Nếu một
người nam nhìn người nữ với sự rung động tự nhiên, rồi gạt bỏ đi ngay, điều đó
không có tội. Điều Chúa Giêsu muốn đề cập đến ở đây là trường hợp cố tình nhìn
để khơi động tình dục. Hiểu như thế, điều phải tránh không chỉ nhìn phụ nữ nhãn
tiền, mà còn bao gồm cả phụ nữ trong phim, ảnh, internet... để kích thích tình
dục nữa; khi làm như thế cũng là đang khao khát con người của họ dẫu họ không
biết.
Điều
Chúa Giêsu dạy: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném
đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu
tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một
phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” không thể hiểu theo nghĩa
đen, dẫu đã có vài người đã làm như vậy. Với sự yếu đuối của con người, nếu cứ
làm như thế, không biết trên thân thể còn gì để móc và cắt! Điều Chúa muốn nêu
bật là sự trầm trọng của tội, chúng ta phải cố gắng hết sức để đừng làm nô lệ
cho tội lỗi, vì nó sẽ giam hãm chúng ta trong hỏa ngục.
(2)
Việc ly dị: Căn
bản là sự trung thành với lời mình đã thề hứa với Thiên Chúa và với nhau. Giao
ước hôn nhân không bao giờ có thể xóa bỏ được vì “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết,
loài người không được phân ly.” Con người có thể vịn vào hàng trăm thứ lý do để
xin ly dị; nhưng đơn giản là vì con người đã không thật lòng với Thiên Chúa và
với nhau, ngay từ ban đầu hay trong cuộc sống lứa đôi. Giáo Hội có cho phép ly
dị cũng chỉ vì những yếu đuối không sống theo sự thật được của người xin; chứ
Giáo Hội chẳng bao giờ xé được hôn nhân mà Thiên Chúa đã liên kết.
(3)
Việc thề hứa: Nguyên
tắc căn bản Chúa Giêsu dạy là sống theo sự thật. Nếu con người luôn sống theo sự
thật, thề hứa là chuyện thừa. Người ta có thể tin lời của một người luôn sống
theo sự thật mà không cần thề hứa gì cả; nhưng nếu một người đã không sống theo
sự thật, có thề hứa bao nhiêu cũng chẳng bảo đảm được lời người ấy hứa. Trong lịch
sử, đã có những bộ tộc cấm tuyệt đối chuyện thề hứa như Essenes và Quakers.
Chúa Giêsu vạch ra những gian manh của con người trong việc thề hứa để khỏi phải
giữ, và Ngài dạy: “đừng thề chi cả.”
(4)
Sống theo sự gian trá là sống theo ác quỉ: Lời của Thiên Chúa là sự thật, và Đức Kitô đã cầu
xin Cha Ngài thánh hóa các môn đệ trong sự thật (Jn 17). Mục đích của việc
thánh hóa này là vì các môn đệ còn phải sống trong thế gian, dưới ảnh hưởng của
ác thần. Lời Chúa và sự thật không thể tách rời nhau, con người sống theo sự
gian trá có thể vì không biết sự thật. Một người luôn học hỏi, suy niệm, và nắm
vững Lời Chúa, khó lòng cho ma quỉ cám dỗ theo đường gian ác.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải luôn biết học hỏi và sống theo đường lối khôn ngoan của Thiên
Chúa. Một thái độ như thế sẽ giúp chúng ta tránh được khổ đau và sống hạnh phúc
trong cuộc đời.
-
Sự khôn ngoan và đường lối của Thiên Chúa nhiều khi hoàn toàn ngược lại sự khôn
ngoan và đường lối con của con người. Chúng ta cần cầu nguyện và xin ơn khôn
ngoan của Thánh Thần trợ giúp khi phải đương đầu với những trường hợp này.
-
Chúng ta đừng chỉ tìm hiểu sơ sài và sống hời hợt bên ngoài; nhưng hãy dành thời
giờ học hỏi, suy niệm, và cầu nguyện để nhận ra những nguyên lý sâu xa bên
trong.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
16/02/14 CHÚA NHẬT TUẦN 6 TN – A
Mt 5,17-37
Mt 5,17-37
LUẬT CỦA TÌNH YÊU
“Anh em đừng tưởng Thầy đến để
bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng
là để kiện toàn.” (Mt 5,17)
Suy niệm: Người
Pharisêu và các kinh sư thường kết án Chúa Giêsu phá bỏ Luật Môsê, đặc biệt
luật giữ ngày sa-bát. Tin Mừng theo thánh Mátthêu được viết cho các cộng đoàn
Kitô hữu gốc Do Thái để chứng minh cho họ biết Chúa Giêsu không đến để “bãi bỏ lề luật,” nhưng để làm trọn lời các ngôn sứ đã tiên báo.
Ngài đã nặng lời gọi các kinh sư và người Pharisêu là những người giả hình, giữ
luật vụ hình thức, coi việc tuân thủ những lề luật chi li như là tiêu chuẩn
đánh giá sự thánh thiện của mình. Và họ tự hào về “thành tích” đó trong khi
lòng họ thì xa Chúa! Chúa Giêsu cho biết việc tuân giữ Lề Luật hệ tại tấm lòng,
rằng cốt lõi của Mười Điều Răn là tình yêu, là mến Chúa và yêu tha nhân. Những ai
giữ Luật Chúa như vậy, không còn giữ luật như những người nô lệ; trái lại, họ
sống như những người con cái tự do của Thiên Chúa.
Mời Bạn: Nhiều
người lầm tưởng Chúa đến bãi bỏ Lề Luật và những người theo Chúa không cần giữ
luật lệ. Không phải thế. Chúa dạy chúng ta muốn vào Nước Trời phải“công chính hơn các kinh sư và
người Pharisêu” (Mt
5,20) nghĩa là chẳng những giữ trọn từ “một chấm, một phết” của Lề Luật (Mt 5,18), và còn giữ với cả tấm
lòng yêu mến Chúa. Bạn đang giữ luật với tinh thần nào?
Sống Lời Chúa: Tham
dự thánh lễ Chúa Nhật không phải một cách miễn cưỡng mà là với lòng mến yêu
Chúa.
Cầu nguyện: “Xin Chúa dẫn con đi từ cõi chết đến cõi sống, từ lầm lạc đến chân
lý.” Xin dùng luật Chúa để uốn nắn đường con đi, nhưng xin ban tình yêu để con
bước đi trong tình yêu Chúa.
THẦY BẢO CHO ANH EM BIẾT
Chúng ta đang bị bao vây trong một thế giới đầy
hình ảnh. Tivi, phim ảnh, sách báo, video, thời trang, quảng cáo... tất cả tìm
cách lôi cuốn cái nhìn của ta...
Suy niệm:
Thiên Chúa là một nhà
giáo đầy kinh nghiệm.
Ngài đòi hỏi con người
phải vươn lên, vươn cao lên mãi,
nhưng Ngài không đòi hỏi
điều vượt quá khả năng của họ.
Khi ban Mười Ðiều Răn cho
dân Ítraen, qua ông Môsê,
Ngài đưa họ ra khỏi tình
trạng sống theo luật rừng.
Luật Môsê là một tiến bộ
lớn trong nền luân lý,
nhưng vẫn chỉ là bước
chuẩn bị cho luật của Ðức Giêsu.
Luật mới này không phá
bỏ, nhưng kiện toàn luật cũ.
Kitô hữu không chỉ xét
mình theo Mười Ðiều Răn,
mà hơn nữa còn xét mình
theo tinh thần Bài giảng Trên núi.
Lời của Chúa Giêsu phải
là thước đo để ta xét mình
Có khi nào bạn tự kiểm
dựa trên một đoạn Tin Mừng không?
Ðoạn Tin Mừng hôm nay mời
ta nhìn lại miệng và mắt,
hai giác quan dễ được
dùng để phạm tội.
Miệng là nơi phát xuất
những lời lăng mạ, dối trá.
Lời nói biểu lộ tâm hồn
con người:
lòng có đầy mới tràn ra
miệng (x. Mt 12,34).
Khi đêm về, nhìn lại
những gì mình đã nói,
ta thường thấy có rất ít
yêu thương và sự thật,
nhưng lại đầy ắp cái tôi
ích kỷ, lọc lừa.
“Ai không vấp ngã về lời
nói, ấy là người hoàn hảo,
có khả năng làm chủ được
toàn thân” (Gc 3,26).
Mắt là cơ quan tiếp thu thế
giới bên ngoài.
Mắt không chỉ là cửa sổ,
mà là cửa chính của tâm hồn.
Các cơn cám dỗ thường qua
cửa đó mà đến với ta.
Mắt thích nhìn cái đẹp.
Eva nhìn trái cấm, Ðavít
thấy người phụ nữ khỏa thân.
Cái nhìn đem lại khoái
lạc
và thổi bùng lên ngọn lửa
thèm muốn,
khiến người ta dám làm
chuyện trái luân thường đạo lý.
Chúng ta đang bị bao vây
trong một thế giới đầy hình ảnh.
Tivi, phim ảnh, sách báo,
video, thời trang, quảng cáo...
tất cả tìm cách lôi cuốn
cái nhìn của ta,
kích thích khoái lạc nơi
con mắt và cả thân xác.
Những điều cao quý và
thiêng liêng
như thân xác, như đời
sống thầm kín vợ chồng
lại bị trở thành tầm
thường, dung tục.
Tình yêu chỉ còn là vội
vã chiếm đoạt thân xác nhau
trong cơn mê say nhất
thời,
chứ không phải là sự trân
trọng hiến dâng chính mình
trong một quyết định chín
chắn và đầy trách nhiệm.
Ðức Giêsu nói đến thứ
ngoại tình do cái nhìn thèm muốn.
Làm sao tôi giữ được đôi
mắt trong suốt của trẻ thơ?
Làm sao để trí tưởng
tượng và trí nhớ không bị vẩn đục?
Làm sao để tôi nhìn người
phụ nữ như chị, em của tôi?
Làm sao để chính người
phụ nữ không tự biến mình
thành đồ chơi để người
khác ngắm nghía?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin
biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin
biến đổi ánh mắt con.
Mỗi
lần con rước Chúa,
xin
biến đổi môi miệng con.
Mỗi
lần con nghe lời Chúa,
xin
biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn
sau
mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong
nụ cười của con,
thấy
sự dịu dàng của Chúa
trong
lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu
có
bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng
đi với Chúa và với tha nhân
trên
những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16
THÁNG HAI
Bảo Trọng Những Hoa
Quả Khôn Ngoan
Tuổi
đời càng chồng chất, sức lực càng suy kiệt, hay đau ốm, vv… người già thường cảm
thấy con người mình mỏng mảnh, và nhất là cảm thấy gánh nặng của cuộc sống. Đó
là những vấn đề của tuổi già – và những vấn đề ấy không thể tìm ra ý nghĩa gì nếu
chúng không được cảm nghiệm và được sống như một thực tại của cuộc nhân sinh.
Chúng ta được mời gọi trân trọng người cao tuổi bởi vì phẩm giá của các ngài
trong tư cách là con người và bởi vì ý nghĩa của chính sự sống: sự sống bao giờ
cũng là một hồng ân.
Thánh
Kinh thường đề cập đến người cao tuổi. Thánh Kinh coi tuổi già như một hồng ân
– và hồng ân này phải được sống hằng ngày trong tấm lòng rộng mở ra với Thiên
Chúa và với tha nhân.
Trên
tất cả, Cựu ước coi người già như thầy dạy sống: “Sự khôn ngoan của các vị bô
lão, tư tưởng và ý kiến của các bậc danh nhân thật đẹp đẽ chừng nào! Giàu kinh
nghiệm là triều thiên cho hàng bô lão; lòng kính sợ Đức Chúa là niềm hãnh diện
của các ngài” (Hc 25, 5 – 6). Tuy nhiên, người cao tuổi còn có một vai trò quan
trọng khác nữa. Các ngài chuyển trao lời Thiên Chúa cho các thế hệ hậu sinh:
“Lạy
Thiên Chúa, tai chúng con đã từng được nghe
truyện
cha ông vẫn thường kể lại
về
công trình Chúa đã làm nên
thời
các cụ thuở xa xưa ấy” (Tv 44, 2).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 16-02
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN
Hc 15, 16-21; 1Cr 2, 6-10;Mt
5, 17-37.
LỜI SUY NIỆM: “Anh em đừng Thầy đến để bãi
bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để
kiện toàn.”
Lề Luật của Thiên Chúa trọn
hảo “Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ
không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Chúa Giêsu đến để kiện toàn
những lề Luật đó như là: về “đức công chính” của người môn đệ, Chúa đòi hỏi phải
trở nên công chính là nhờ Tin vào Thiên Chúa và lãnh nhận ân sủng từ Thiên
Chúa, chứ không phải giữ luật và cậy sức mình. “Đừng giận ghét” không những thế
mà phải loại bỏ ngay sự trả thù ra khỏi trong tư tưởng và thực thi đức bác ái
và tha thứ làm hòa. “Chớ ngoại tình” “Đừng ly dị” Chúa đòi buộc người môn đệ của
Chúa phải chung thủy trọn đời trong đời sống vợ chồng từ trong tư tưởng cũng
như những cử chỉ bên ngoài.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa cho
chúng con biết rõ ý nghĩa và mục đích của Lề Luật để chúng con được sống. Xin
cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn sống Lề Luật của Thiên Chúa với
một tinh thần tích cực và yêu thích.
Mạnh
Phương
16
Tháng Hai
Ngọn Nến Cháy Sáng
Nữ
sĩ người Thụy Ðiển được giải Nobel văn chương là bà Selma Lagerloeff có kể một
câu chuyện như sau: Có một kỵ mã nọ, sau khi đã tham dự một trận thánh chiến
thành công tại Thánh Ðịa, đã làm một lời thề. Anh muốn đốt lên một ngọn nến
ngay từ trên mộ của Chúa Giêsu và mang ánh sáng ấy về quê hương của anhlà thành
phố Fireheze bên Italia.
Quyết
định ấy đa biến anh thành một con người mới hoàn toàn. Từ một quân nhân hung
hãn chuyên cầm gươm giết người, nay người kỵ mã đã trở thành một con người hiền
hòa, sẵn sàng chấp nhận mọi thứ thiệt thòi.
Trên
đường trở về quê hương, cầm ngọn nến cháy sáng trong tay, người kỵ mã gặp không
biết bao nhiêu kẻ cướp bóc, nhưng anh không hề động đến chiếc gươm đang mang
trong người. Anh hứa trao cho họ bất cứ điều gì họ muốn, miễn là để cho anh được
phép giữ lại ngọn nến đang cháy sáng trong tay. Quân cướp lột hết tất cả những
gì anh có, kể cả chiến bào và con ngựa quý của anh. Họ cho anh một con ngựa già
để đi từng bước cầm chừng. Sau khi trải qua không biết bao nhiêu thử thách, giờ
này, người kỵ mã cảm thấy thảnh thơi hơn bao giờ hết. Anh cảm thấy thơ thới vì
đã trút được bỏ những của cải không cần thiết, nhưng anh vui mừng hơn cả vì vẫn
còn giữ được ngọn nến cháy sáng đã được thắp lên từ trên mồ của Chúa. Khi anh về
đến giữa phố, nhiều người nhìn anh như kẻ khờ dại. Họ chế nhạo và tìm đủ cách để
dập tắt ngọn nến trên tay anh. Nhưng người kỵ mã thà chết còn hơn là để cho ngọn
nến tắt ngụm trên tay mình. Và cuối cùng, anh đã mang được ngọn nến cháy sáng về
đến nhà thờ chính tòa của quê hương anh. Anh dúng ánh sáng từ ngọn nến ấy đốt
lên tất cả những ngọn nến trên bàn thờ.
Trước
anh, nhiều người cũng đã cố gắng làm một lời thề như thế. Nhưng dọc đường, vì
nhiều lý do khác nhau, ngọn nến đã tắt ngụm. Ðược hỏi: Ðâu là bía quyết giúp
anh thành công như thế. Người kỵ mã trả lời như sau: "Tôi đặt tất cả chú
tâm vào ngọn nến. Tôi sẵn xàng bỏ hết tất cả mọi sự để bảo vệ ngọn nến ấy".
Cuộc
đời của người tín hữu Kitô chúng ta vẫn thường được định nghĩa như một cuộc
hành trình, một cuộc hành trình trong đó mỗi người chúng ta cầm cháy sáng trong
ngọn nến của Ðức Tin. Bao lâu ngọn nến còn cháy sáng, bấy lâu chúng ta còn tiến
bước. Sóng gió, tăm tối trong cuộc hành trình là chuyện không thể tránh được.
Nhưng nếu chúng ta tiếp tục giữcho ngọn nến cháy sáng, chúng ta vẫn có thể tiến
bước.
Chúa
Giêsu nói với chúng ta: "Chúng con là ánh sáng thế gian". Ước mơ duy
nhất của người kỵ mã trong câu chuyện trên đây là được dùng ngọn nến đốt lên từ
mồ Chúa để thắp sáng lên ngọn đèn trong nhà thờ. Ðó cũng phải là ước mơ của mỗi
người chúng ta. Ánháng được trao ban cho chúng ta là để được truyền sang cho những
ngọn đèn khác. Có biết bao nhiêu ngọn đèn đang chờ đợi một chút ánh sáng từ ngọn
nến của chúng ta để được cháy lên?
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét