09/03/2015
Thứ Hai sau Chúa Nhật
III Mùa Chay
Bài
Ðọc I: 2 V 5, 1-15a
"Có
nhiều người phong cùi trong Israel, nhưng không có một người nào trong bọn họ
được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria".
Trích
sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong
những ngày ấy, Naaman, tướng đạo binh của vua xứ Syria, là người có uy thế đối
với vua và được tôn trọng, vì Chúa đã dùng ông mà cứu dân Syria; ông còn là người
hùng mạnh và giàu có, nhưng lại mắc bịnh phong cùi. Lúc bấy giờ một vài toán
dân Syria bắt một thiếu nữ ở đấtIsrael dẫn về để hầu hạ bà
Naaman. Cô ta nói với bà chủ: "Chớ chi ông chủ tôi đến gặp vị tiên tri ở Samaria,
chắc chắn vị tiên tri ấy sẽ chữa ông khỏi phong cùi". Naaman đến tâu vua rằng:
"Cô nhỏ xứ Israel đã nói thế này thế này". Vua xứ Syria liền
nói: "Khanh hãy đi, trẫm sẽ gởi cho vuaIsrael một bức thơ".
Naaman ra đi, mang theo mười lạng bạc, sáu ngàn nén vàng và mười bộ áo. Ông
trao cho vua Israel bức thơ nội dung như sau: "Khi bức thơ này đến
tay nhà vua, nhà vua biết tôi sai Naaman, tôi tớ tôi, đến với nhà vua, để xin
nhà vua chữa ông khỏi phong cùi".
Sau
khi đọc bức thơ, vua Israel liền xé áo và nói: "Ta có phải là
Chúa, có thể giết chết và cho sống hay sao mà vua ấy gởi người đến xin ta chữa
lành phong cùi? Các ngươi thấy không, vua ấy tìm cớ hại Ta đó". Khi
Êlisêô, người của Thiên Chúa, nghe tin vua Israel đã xé áo mình, nên
sai người đến tâu vua rằng: "Tại sao nhà vua lại xé áo? Ông ấy cứ đến với
tôi thì sẽ biết trongIsrael có một vị tiên tri".
Naaman
lên xe ngựa đi, và dừng lại trước cửa nhà Êlisêô. Tiên tri nói với Naaman rằng:
"Ông hãy đi tắm bảy lần ở sông Giođan, thì da thịt ông sẽ được lành sạch".
Naaman nổi giận bỏ đi nói rằng: "Tôi tưởng ông ấy ra đón tôi và đứng trước
tôi kêu cầu danh Chúa là Thiên Chúa của ông, rồi đặt tay lên chỗ phong cùi của
tôi và chữa tôi lành mạnh. Các con sông Abana và Pharphar ở Ðamas không sạch hơn
các con sông ở Israel để tôi tắm và được lành sạch hay sao?" Ông
trở về lòng đầy tức giận.
Các
đầy tớ của ông đến nói với ông rằng: "Thưa cha, vị tiên tri có yêu cầu cha
làm một việc lớn lao thì cha cũng phải làm. Phương chi bây giờ người bảo cha:
"Hãy đi tắm, thì được sạch". Naaman xuống tắm bảy lần ở sông Gio-đan
như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như da
thịt của đứa trẻ, và ông được sạch.
Sau
đó ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ðến nơi, ông đứng trước
mặt người của Thiên Chúa và nói: "Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào
khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 41, 2. 3, và Tv 42, 3. 4
Ðáp: Hồn con khát
Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời? (x.
Tv 41, 3)
Xướng:
1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi! - Ðáp.
2)
Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt
Chúa Trời? - Ðáp.
3)
Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn
con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4)
Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ,
mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con. -
Ðáp.
Câu
Xướng Trước Phúc Âm: Tv 129, 5 và 7
Con
trông cậy Chúa, con mong đợi lời hứa của Chúa, vì nơi Chúa sẵn có lòng từ bi và
chan chứa ơn cứu độ.
Phúc
Âm: Lc 4, 24-30
"Như
Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi
đâu".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
(Khi
Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng):
"Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế
ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở
Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm
sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ
được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong
cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào
trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria".
Vừa
nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người
ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống
vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Quê
Hương Ngược Ðãi Chúa
Một
trong những cuốn phim do diễn viên tài ba về kịch câm, Marxel Marxor thủ diễn
có kể câu chuyện như sau:
Một
thanh niên đang lim dim đôi mắt tận hưởng những giây phút tắm nắng tuyệt vời
trong một ngày đẹp trời. Nhưng rồi bỗng nhiên niềm vui của anh bị gián đoạn do
tiếng ồn ào của đám trẻ, tiếng chó, tiếng người qua lại và cả tiếng chim hót. Mọi
tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó. Tuy nhiên, đối với chàng
thanh niên, tất cả đã trở thành cực hình.
Ðể
chống lại sự phiền muộn ấy, anh ta xây quanh mình một bức tường ngăn cách âm
thanh. Mỗi tiếng động vụt tới là mỗi lần anh gắng sức xây, cứ thế mà bức tường
lớn dần, cao dần cho đến khi ngưng tất cả mọi tiếng động thì bức tường ấy che mất
ánh nắng mặt trời tuyệt vời kia. Bức tường thành một chiếc mồ giam chặt, nhốt
kín anh vào trong đó.
Anh chị em thân mến!
Dân tộc Do thái cũng đã được tắm gội ánh sáng.
Ðó là niềm tin được trao từ tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn và ích kỷ, họ
đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Không chịu mở lòng đón nhận,
khiến niềm tin của họ trở thành khô cằn mất sức sống, xây lên bức tường để bảo
vệ mình, hóa ra tự hại lấy mình. Chúa Giêsu đã chỉ trích thái độ này qua bài
Tin Mừng của thánh Luca (Lc 4,24-30).
Anh chị em thân mến!
Người Do thái trong hội đường Nazareth đã
tìm cách hãm hại Chúa Giêsu khi Ngài lên tiếng chê trách niềm tin của họ. Có lẽ
ai trong chúng ta cũng bất bình về việc làm của những người này. Nhưng kỳ thực
trong cuộc sống, lắm lúc chúng ta đã sao chép lại nguyên bản việc làm ấy: tự
hào là người Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin, nhưng rồi với một mớ lễ nghi
hình thức, niềm tin trong chúng ta chỉ là ngọn đèn leo lét chực tắt trước gió.
Chỉ là thân cây mất hết nhựa sống chờ ngày gẫy đổ. Ðây là một thứ niềm tin mà Ðức
cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng"
đã nhắc nhở:
"Nhiều người nói: "Tôi có đức
tin, tôi còn đức tin". Có lẽ đức tin là đức tin của giấy khai sinh, không
phải là đức tin của đời sống. Con đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin hình
thức và lý thuyết. Nhưng con phải sống một đức tin chân thật và trung thành. Tự
mãn với chính mình mà không chịu mở lòng đón nhận, khiến người Do thái đã mất
Chúa Giêsu, nền tảng của niềm tin, Ðấng mà họ đang ngóng chờ".
Cũng
thế, Kitô hữu nếu chỉ đóng khung trong những nghi thức, tuân giữ luật lệ, thì sớm
muộn gì họ cũng xa rời đức tin là nguồn mạch sự sống. Vì sống là gì, nếu không
là một sự thay đổi luôn luôn. Con người sẽ chết khi một hệ tuần hoàn không lưu
chuyển, hay hệ thần kinh không vận động. Ðối với đức tin cũng vậy, luôn luôn
đòi hỏi một sự trao đổi với Thiên Chúa và với anh em.
Nếu
đối với người Kitô hữu, tin trước hết là được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu
thương vô cùng. Chúa không phải là Ðấng bắt con phải kính mến, nhưng Chúa là Ðấng
mà con phải để cho Ngài yêu thương con vô cùng. Nắm được đức tin, con phân biệt
đâu là đường hy vọng của tâm hồn tông đồ, đâu là lối chết của thế gian. Tin là
chấp nhận Chúa Giêsu vô điều kiện và quyết tâm sống chết với Ngài.
Quyết
tâm sống chết với Ðức Kitô cần có một thao thức tìm kiếm. Quyết tâm sống chết với
Ðức Kitô đòi buộc phải trao đổi, cảm thông với anh em, vì Ngài đang hiện diện
trong những người anh em ấy.
Lạy
Chúa, trong Mùa Chay thánh này, xin cho con được biết trở về. Trở về, trước hết
chính ngay căn bản niềm tin của con. Một đức tin không có cùng trong những hiểu
biết lý thuyết hoặc những nguyên tắc nghi lễ, nhưng biết mở rộng tâm hồn để đón
nhận, để rồi con sẽ hiểu đâu là ý nghĩa đích thực của đời sống đức tin. Amen.
Veritas Asia
Thứ Hai Tuần III MC
Bài đọc: II Kgs 5:1-15a;
Lk 4:24-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Không một ngôn sứ
nào được chấp nhận tại quê hương mình.
Con
người thường dễ nản chí tức giận, sau khi đã cố gắng hết sức để yêu thương lo lắng
cho người thân yêu, mà họ vẫn vô tâm và làm cho mình phải đau khổ hơn nữa. Các
Bài Đọc hôm nay nói lên những đối xử vô ơn tệ bạc của con người với Thiên Chúa.
Trong
Bài Đọc I, Sách Các Vua II tường thuật sự kiện tiên tri Elisha chữa khỏi bệnh
cùi cho Naaman, tướng Syria. Mặc dù là một người Dân-ngọai và kẻ thù của Israel,
nhưng ông đã thú nhận “không có một Thiên Chúa nào khác trừ Thiên Chúa của Israel.”
Trong Phúc Âm, mặc dù Chúa Giêsu đã dùng lịch sử để vạch ra sự vô ơn và hậu quả
của sự cứng lòng, người Do-Thái vẫn ngoan cố không chịu sửa đổi, còn mang Chúa
lên đỉnh núi và xô Ngài xuống vực thẳm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Tiên tri Elisha chữa Naaman khỏi bệnh cùi.
1.1/ Hai con người Israel, hai niềm tin:
(1) Người nữ tỳ của vợ ông Naaman: Cô không
ghét chủ vì đã bắt mình làm nô lệ; trái lại, cô còn muốn sự tốt lành cho chủ, kẻ
thù của Israel. Cô tuyệt đối tin tưởng và hy vọng nơi Thiên Chúa sẽ chữa lành
qua tiên-tri Elisha. Đây là một hành động nguy hiểm; vì nếu Naaman không khỏi,
cô sẽ mất mạng vì đã đánh lừa ông.
(2) Vua Israel: luôn ở trong tình trạng
nghi ngờ và sợ sệt người khác muốn làm hại mình. Khi vua Israel đọc xong thư của
vua Aram thì xé áo mình ra và nói: "Ta đâu có phải là vị thần cầm quyền
sinh tử, mà ông ấy lại sai người này đến nhờ ta chữa hắn khỏi bệnh phung hủi?
Các ngươi phải biết, phải thấy rằng ông ấy muốn sinh sự với ta." Là vua
trong nước, mà vua chẳng biết, và chắc cũng chẳng quan tâm có tiên-tri Elisha,
người của Thiên Chúa có quyền năng chữa bệnh, đang ở trong nước mình. Chính
tiên-tri Elisah, khi nghe biết là vua Israel đã xé áo mình ra, thì sai người đến
nói với vua: "Sao vua lại xé áo mình ra? Người ấy cứ đến với tôi, thì sẽ
biết là có một ngôn sứ ở Israel."
1.2/ Niềm tin của Naaman được củng cố bởi các
đầy tớ của ông.
(1) Phải khiêm nhường: Kiêu ngạo vì muốn giữ
thể diện hay vì tự ái dân tộc là những lý do làm con người không nhận ra và
không lãnh nhận được hồng ân Thiên Chúa. Ông Naaman tức giận vì tiên-tri Elisha
không thân hành ra tiếp ông, nhưng qua sứ giả. Ông cần người tiên tri làm ơn,
chứ tiên tri đâu có cầu ơn ông đâu mà phải thân hành ra tiếp. Điều vô lý nữa là
ông Naaman đã có sẵn trong đầu những gì tiên tri phải làm để chữa ông, và tức
giận khi tiên-tri không làm như thế. Đã bao nhiêu lần chúng ta cũng có sẵn những
ý tưởng trong đầu và muốn Thiên Chúa cũng như tha nhân phải thi hành như vậy để
giúp ta! Sau cùng, ông cũng hãnh diện hão về các con sông trong xứ sở của mình:
“Nước các sông Avana và Pharpar ở Damascus chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở
Israel sao? Ta lại không thể tắm ở các sông ấy để được sạch hay sao?"
(2) Phải bình tĩnh để nhận ra điều đơn giản
(common sense) của cuộc sống: Có những điều quá thông thường mà khi con người
nóng giận, họ sẽ không nhìn ra. Khi thấy chủ mình tức tối bỏ về, các tôi tớ của
ông đến gần và nói: "Cha ơi, giả như ngôn sứ bảo cha làm một điều gì khó,
cha có thể có lý do không làm! Đàng này ngôn sứ chỉ nói: Ông hãy đi tắm, thì sẽ
được sạch!" Nhận ra sự nóng giận vô lý của mình, ông xuống dìm mình bảy lần
trong sông Jordan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như
da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.
(3) Naaman tuyên bố niềm tin vào Thiên
Chúa: Cùng với đoàn tuỳ tùng, ông trở lại gặp người của Thiên Chúa. Lần này Ông
vào, đứng trước mặt tiên-tri và nói: "Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất,
không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel.”
Điều trớ trêu là một tướng ngọai bang, kẻ
thù của Do-thái lại có đức tin hơn một ông vua của Do-thái. Ông tin vào một nữ
tỳ và lặn lội lên đường đi tìm đến người của Thiên Chúa là tiên-tri Elisha. Ông
được chữa lành và tuyên xưng niềm tin của ông vào Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm:
Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
2.1/ Chúa dạy dân bài học lịch sử: Trình thuật hôm nay tiếp tục tường thuật cuộc trở về Nazareth, quê hương của
của Chúa Giêsu. Sau khi đọc Sách tiên-tri Isaiah, khán giả đồng hương ngồi xuống,
và Chúa bắt đầu rao giảng. Thay vì là một cuộc vinh quy bái tổ, họ bắt đầu
khinh thường Chúa. Ngài mời họ nhìn lại lịch sử để đừng tái diễn những điều
không nên làm. Người nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ
nào được chấp nhận tại quê hương mình.” Chúa Giêsu dẫn chứng lời Ngài nói bằng
hai ví dụ:
(1) Tiên-tri Elijah cho hũ bột của bà góa tại
Zarepta, Sidon, không cạn: "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời
ông Elijah, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội,
thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà
nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Zarepta miền Sidon.”
(2) Tiên-tri Elisha chữa Naaman, tướng
Syria, khỏi bệnh cùi: “Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Elisah, thiếu gì người phong
hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman,
người xứ Syria thôi."
2.2/ Lịch sử tái diễn: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra
khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô
Người xuống vực. Nhưng
Người băng qua giữa họ mà đi.”
-
Không giống Naaman, họ không kiềm chế được tính kiêu ngạo, nóng giận. Họ nghĩ
là Chúa Giêsu xúc phạm tới danh dự dân tộc của họ. Thực sự, Chúa Giêsu chỉ muốn
giúp họ nhìn ra sự thật; nhưng họ từ chối không làm.
-
Không giống Naaman, họ không nhìn ra những đơn giản của cuộc sống. Lịch sử dạy
con người những bài học quí giá: Hãy nhìn gương của những người đi trước; nếu họ
làm những quyết định khôn ngoan sinh lợi ích, hãy bắt chước; nếu họ làm những
quyết định điên rồ, đừng bắt chước họ làm như vậy.
Điều
trớ trêu là cũng một Bà gốc Phoenician, có con gái bị quỉ ám ở Sidon, kiên nhẫn
tin tưởng vào Chúa Giêsu đến độ câu trả lời của Bà làm Chúa Giêsu phải ngạc
nhiên và chữa lành con gái Bà: “Vâng, nhưng chó con cũng được ăn những thứ từ
trên bàn của chủ rơi xuống!” Trong khi những người đồng hương với Chúa, đã
không tin tưởng, còn tức giận xô Chúa xuống vực thẳm! Sự thật phũ phàng, khó
tin, nhưng vẫn đang xảy ra!
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Khi nào chúng ta cảm thấy nản chí, muốn bỏ cuộc trong việc yêu thương và giúp dỡ
người khác; hãy nhớ Lời Chúa nói: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê
hương mình.”
-
Nếu Chúa đã làm ơn và bị đối xử như thế, chúng ta là môn đệ Ngài cũng phải đồng
chịu số phận. Nhớ rằng chúng ta chưa chịu vô ơn đến độ treo thân trên Thập Giá.
-
Điều này giúp mở mắt chúng ta để nhận ra những hồng ân Thiên Chúa và những sự
giúp đỡ của tha nhân không ngừng đổ trên ta; để đừng bao giờ đối xử vô ơn tệ bạc
với người thi ơn như vậy.
Lm.Anthony Đinh Minh Tiên, OP
09/03/15 THỨ HAI TUẦN 3 MC
Th. Phan-xi-ca Rô-ma-na, nữ tu
Lc 4,24-30
Th. Phan-xi-ca Rô-ma-na, nữ tu
Lc 4,24-30
Suy niệm: Lời ông Si-mê-on năm nào “cháu còn là dấu hiệu bị người
đời chống báng”(Lc 2,34) nay bắt đầu ứng nghiệm. Oái ăm thay người đời trước tiên
lại là người đồng hương! Con người có thể giải phóng cả trái đất này nhưng giải
tỏa những thành kiến ra khỏi đầu óc hẹp hòi, thiển cận của mình thì chẳng dễ
chút nào. Người đồng hương Chúa Giê-su tưởng rằng biết Ngài quá rõ, nhưng lại không hiểu Ngài chút nào. Cho nên, Chúa vẫn bị họ đóng
khung mãi là “con bác thợ mộc” nghèo mỗi khi trở về làng cũ. Không có phép lạ
nào được thực hiện tại quê hương là minh chứng thái độ không hài lòng của Chúa
Giê-su đối với người làng. Đối với họ, “bụt nhà chẳng thiêng,” Chúa có làm phép
lạ cũng vô ích thôi!
Mời Bạn: Khi
yêu mến một người, bạn dễ tha thứ, “chín bỏ làm mười;” nhưng nếu không thích
thì mọi việc sẽ trở nên cớ cho bạn giải thích tiêu cực về hành vi, lời nói của
người ấy. Xem ra đó là một thứ bất công chỉ mình bạn mới giải gỡ được mà thôi.
Chia sẻ: Hiện
tại bạn có thành kiến với người anh chị em nào thuộc cộng đoàn bạn? Vì sao? Vì
bạn hay vì người đó luôn biết làm điều tốt lành?
Sống Lời Chúa: Tôi
tập có cái nhìn khách quan về một người mình không ưa thích. Tôi cũng tập không
ghen tức khi thấy có những người tốt hơn, trổi trang hơn mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa không hài lòng với thái độ thành kiến hẹp hòi của
người làng Na-da-rét. Xin dạy con biết sống quảng đại, vui với người vui, không
bao giờ ghen tị trước những việc lành của bà con lối xóm quanh con. Amen.
Băng qua giữa họ mà đi
Giêsu Nazareth là tên được ghi trên thập tự,
Nazareth sẽ mãi mãi đi với tên Ngài để phân biệt ngài với những Giêsu khác...
Nhưng sứ mạng của Ngài trải rộng hơn Nazareth nhiều.
Suy niệm:
Trong Mùa Chay Giáo Hội cho
chúng ta nghe
về kết cục khá bất ngờ và
đau đớn của Đức Giêsu
khi Ngài trở về với hội
đường của làng Nazareth thân quen.
Nơi đây Ngài gặp lại những
người đồng hương.
Họ ngỡ ngàng trước những lời
Ngài giảng.
Họ muốn Ngài làm những điều
Ngài đã làm ở Caphácnaum (Lc 4, 23).
Nhưng Đức Giêsu đã đáp lại
bằng câu tục ngữ:
“Không một ngôn sứ nào được
chấp nhận nơi quê nhà của mình” (c. 24).
Đức Giêsu tự nhận mình là
một ngôn sứ.
Như những ngôn sứ khác trong
lịch sử Israel,
Ngài cũng không được đón
nhận và tin tưởng bởi những người cùng quê.
Họ nghĩ mình đã quá biết
Ngài, biết gia tộc, biết nghề nghiệp,
biết quá khứ từ ấu thơ đến
lúc trưởng thành.
Chính cái biết ấy, đúng
nhưng không đủ,
lại trở thành một chướng
ngại cho việc họ nhận ra Ngài thật sự là ai.
“Ông này không phải là
con ông Giuse sao?” (Lc 4, 22).
Đúng Ngài là con ông Giuse,
một người thợ mộc.
Đúng ngài là ông thợ mộc độc
thân người làng Nazareth.
Giêsu Nazareth là tên được
ghi trên thập tự,
Nazareth sẽ mãi mãi đi với
tên Ngài để phân biệt ngài với những Giêsu khác.
Đức Giêsu chẳng bao giờ coi
thường Nazareth, quê nhà của mình.
Ngài quen biết những khuôn
mặt trong hội đường này và yêu mến họ.
Nhưng sứ mạng của Ngài trải
rộng hơn Nazareth nhiều.
Ngài cho thấy mình không bị
trói buộc bởi mối dây làng xã,
cũng không bị giữ chân bởi
những người đồng bào cùng tôn giáo.
Để biện minh cho thái độ
rộng mở của mình,
Đức Giêsu đã nhắc đến hành
động của hai vị ngôn sứ thời Cựu Ước.
Êlia, vị ngôn sứ đầy quyền
năng, được Thiên Chúa sai đến với một bà góa.
Bà này là một người dân
ngoại sống ở Siđôn vùng dân ngoại.
Êlisa, vị ngôn sứ học trò
của Êlia, đã chữa bệnh phong cho Naaman.
Ông này là người dân ngoại,
chỉ huy đạo quân của Syria.
Như thế các vị ngôn sứ nổi
tiếng đã không bị bó hẹp trong dân Do thái.
Họ đã mở ra với dân ngoại.
Đức Giêsu cũng chẳng bị giới
hạn bởi bất cứ biên cương nào.
Ngài chẳng dành cho quê nhà
Nazareth một ưu tiên nào.
Phải chăng vì thế mà Ngài
làm họ phẫn nộ đến độ muốn xô Ngài xuống vực?
Nỗi đe dọa lại đến từ chính
những người đồng hương.
Làm sao chúng ta nhận ra và
chấp nhận những ngôn sứ bề ngoài rất bình thường
đang sống trong cộng đoàn
chúng ta hôm nay?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không
tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ
thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên
thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa
là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con
người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh
mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn
nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê
bỏ,
để chúng con tập nhận ra
Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường
giữa lòng cuộc sống.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
9
THÁNG BA
Trở
Về Với Vòng Tay Từ Ái Của Cha
Thánh
Phao-lô nói: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã giao hòa thế gian với chính Ngài,
Ngài không chấp những lỗi lầm của chúng ta” (2Cr 5,19).
Cuộc
giao hòa xảy ra giữa Người Con Đi Hoang và cha mình đã được hoàn tất nhờ công
cuộc của Đức Kitô. Thiên Chúa của giao ước vĩnh cửu tự thể hiện chính Ngài nơi
Đức Kitô như là Vị Thiên Chúa của giao hòa. Chân lý này có tầm thật nền tảng
trong Kitô giáo. Con người được mời gọi giao hòa với Thiên Chúa Cha trong Đức
Kitô.
Trong
Thư 2 Cô-rinh-tô, Thánh Phao-lô cho biết Thiên Chúa không chỉ “giao hòa chúng
ta với chính Ngài trong Đức Kitô” mà còn thêm rằng “Ngài trao cho chúng tôi
công bố lời hòa giải” (2Cr 5,18). Rồi Thánh Phao-lô tiếp: “Vì thế, chúng tôi là
sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy.
Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa”
(2Cr 5,20).
Sứ
vụ hòa giải – một hoa trái của cuộc giao hòa giữa Thiên Chúa với con người
trong Đức Kitô – là một phần căn bản thuộc sứ mạng cứu độ của Giáo Hội. Sứ mạng
này trao cho Giáo Hội quyền hòa giải con người với Thiên Chúa xuyên qua việc
tha thứ các tội lỗi của họ.
Nhưng,
hơn thế nữa, như Tông Huấn Reconciliatio et paenitentia (ch.11,
số 7) cho thấy, “Thánh Phao-lô thậm chí cho phép chúng ta mở rộng cái nhìn của
mình về công cuộc của Đức Kitô đến những chiều kích vũ trụ khi ngài viết rằng
nơi Đức Kitô Thiên Chúa đã giao hòa chính Ngài với tất cả mọi loài, trên trời
cũng như dưới đất” (Cl 1,20).
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Thứ
Hai 9-3
Lời Chúa Trong Gia
Đình
Thánh Phanxica Rôma, nữ tu; 2V 5, 1-15a; Tin Mừng theo Thánh Lc
4, 24-30.
LỜI SUY NIỆM:
“Thật
vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm
sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà góa ở trong nước Israen; thế
mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà
góa thành Xarếpta miền Xiđon...” Nghe vậy mọi người trong hội đường đầy phẩn nộ.
(Lc 4, 25...-25)
Chúa Giêsu gợi lại sự quan tâm của Thiên Chúa
dành cho dân ngoại, như thể Ngài đang bảo với mọi người phải biết tất cả dân
ngoại cũng được sự ưu đãi của Thiên Chúa, chứ không riêng gì dân Israen mà
thôi; làm cho những người đồng hương đang nghe lấy làm bất mãn, vì họ đang quan
niệm, dân ngoại không thể được đứng chung ngang hàng với họ, dân ngoại sinh ra
chỉ là để làm chất đốt trong hỏa ngục. Trong đời sống Ki-tô hữu của chúng ta
cũng phải ý thức không chỉ có chúng ta mới được cứu rỗi, ngoài chúng ta biết
bao nhiêu người anh em và dân tộc khác cũng được hưởng ơn cứu độ, cái rất cần
là chúng ta phải cọng tác bằng đời sống đức tin của chúng ta để mọi người chung
quanh chúng ta thấy được chúng ta đang sống trong an bình của ơn cứu độ.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
09-03:
Thánh
PHANCICA RÔMANA
Nữ
tu (1384 - 1440)
Phanxica
thuộc vào một gia đình quí tộc ở Bussi de Leoni. Nhưng Ngài đã sinh ra và sống ở
Roma. Từ lúc 6 tuổi Ngài đã thực hành sám hối, muốn vào tu lúc 11 tuổi. Cha
Ngài thấy đây chỉ là tưởng tượng của con nít và năm sau đã gả Ngài cho lãnh
Chúa trẻ trung Lorenzo di Ponziani. Người vợ trẻ sẽ dẫn đắt chồng mình theo đường
trọn lành.
Phanxica
một thiếu nữ tươi đẹp. Sống giữa xã hội hào nhoáng Ngài tỏ ra rất hòa nhã dịu
dàng. Ngài giữ kín những khổ hạnh của mình. Có ai biết rằng: áo nhặm dưới y phục
lộng lẫy của Ngài đã làm Ngài mang thương tích đâu. Ngài dậy sớm để giờ cầu
nguyện khỏi bị ngăn trở, Varozza, người em dâu, cùng chia sẻ lý tưởng bác ái với
Ngài. Hai người cùng hồi tâm trong một cái hang ở cuối vườn. Họ phục vụ các bệnh
nhân tại nhà thương và giúp đỡ những người cùng khốn. Bà mẹ chồng nặng tinh thần
thế tục thấy thế nên giận dữ.
Nhưng
con bà, người chồng trẻ đã trả lời: - Sao lại trách họ vì những thói quen đạo đức
ấy ? Vả lại thói quen ấy có ngăn trở gì tới việc bổn phận của họ đâu ?
Thực
vậy, Phanxica luôn sẵn sàng bỏ mọi sự để các bổn phận của một quản gia khỏi bị
suy suyển gì. Một mẫu chuyện cho thấy Thiên Chúa chúc lành cho Ngài như thế
nào. Phanxica đang cầu nguyện. Người ta tới kêu. Ngài mau mắn bỏ sách đó và trở
lại sau khi phục vụ xong. Lần thứ nhất, lần thứ hai... bốn lần liên tiếp như vậy,
Ngài đều bình thản bỏ dở việc cầu nguyện. Lần thứ năm Ngài trở lại và thấy sách
kinh có dòng chữ vàng. Người ta không hề giã từ Chúa khi phục vụ tha nhân và hiến
mình phục vụ cũng là cầu nguyện.
Cha giải tội và nhà chép sử thánh Phanxica cho biết tình trạng được ơn thần bí của thánh nữ. Thiên thần của Ngài chiếu tỏa một ánh sáng để chỉ cho Ngài biết Thiên Chúa thỏa lòng đối với Ngài. Cũng thế, dù khi lỗi nhẹ, thiên thần liền đánh vào Ngài và thánh nữ tạ ơn Thiên Chúa đã giữ cho mình khỏi rơi vào mưu chước quỉ ma. Với thiên thần, Ngài nên mạnh mẽ. Một lần có sức mạnh quỉ ma đẩy Ngài xuống sông Tibre, thiên thần cứu Ngài lên bờ.
Cha giải tội và nhà chép sử thánh Phanxica cho biết tình trạng được ơn thần bí của thánh nữ. Thiên thần của Ngài chiếu tỏa một ánh sáng để chỉ cho Ngài biết Thiên Chúa thỏa lòng đối với Ngài. Cũng thế, dù khi lỗi nhẹ, thiên thần liền đánh vào Ngài và thánh nữ tạ ơn Thiên Chúa đã giữ cho mình khỏi rơi vào mưu chước quỉ ma. Với thiên thần, Ngài nên mạnh mẽ. Một lần có sức mạnh quỉ ma đẩy Ngài xuống sông Tibre, thiên thần cứu Ngài lên bờ.
Sau
khi mẹ chồng qua đời, người thiếu phụ nắm quyền quản trị nhà họ Ponziani. Ngài
coi gia nhân như anh chị em được gọi để chia sẻ nước Thiên Chúa với Ngài, nếu họ
ngã bệnh Ngài tận tâm săn sóc họ. Vào thời đói kém, khi đã cho hết những gì thuộc
quyền mình, Ngài ăn xin để giúp đỡ người thiếu thốn, ngày kia, Ngài gọi Varozza
lên kho lẫm thu lúa mì còn sót lại trong rơm. Lorenzo theo họ lên coi, đã thấy
đống lúa vàng thay vì rơm rạ, một phép lạ xảy ra tương tự tại một thùng rượu
không. Đầy thán phục, Lorenzo đã để cho người vợ thánh thiện được tự do xếp đặt
cuộc sống mình. Thế là Phanxica bán mọi thứ sang trọng, và chỉ mặc y phục khiêm
tốn, lại còn hãm mình nghiêm ngặt hơn.
Khi
chiến đấu cho đức Thánh Cha Lorenzo bị trọng thương và được mang về nhà khi
đang hấp hối. Thánh nữ đã thành công trong việc làm cho ông sống lại. Faluzzô,
em Ngài, bị bắt tù, người ta cho Ngài biết phải nộp con trưởng Gioan tẩy giả của
Ngài làm con tin, nếu không Paluzzô sẽ bị giết chết. Phanxica hoảng hốt đem con
đi giấu. Nhưng Don Antoniô là cha giải tội chặn đường lại nói:- Con làm gì thế
? Hãy đưa đứa con cho người đòi nó.
Phanxica
vâng lời để cứu em chồng, rồi vào nhà thờ quì khóc trước tượng Đức Trinh nữ.
Còn đang cầu nguyện thì viên sĩ quan địch mang đứa bé trả lại, vì ngựa ông
không chịu đi.
Tiếp
đến là những biến cố thảm lhốc. Roma bị xâm chiếm và bị cướp phá. Lorenzzô phải
trốn đi để lại trách nhiệm cho vợ mình, Phanxica ở lại, với hai con Evangêlista
và Anê. Cơn dịch xẩy ra, Evangêlista ngã bệnh, lúc chết cậu nói với mẹ : - Mẹ đừng
khóc, con sẽ được hạnh phúc vì này thiên thần đến tìm con.
Một
đêm kia Ngài cầu nguyện và thấy người con hiện ra báo tin mình đang ở giữa các
thiên thần và cho biết mình sẽ đến tìm đứa em gái, cho nó chia sẻ hạnh phúc. Một
niềm vui siêu nhiên hòa lẫn với các đớn đau loài người. Ngài ngã bệnh và các thị
kíến về hỏa ngục làm Ngài thêm khổ cực. An bình trở lại Roma. Lorenzô trở về chứng
kiến những tang tóc và cướp phá. Phanxica đau đớn trong lòng, nhưng vẫn tìm lời
trấn an đầy tha thứ. Ngài hòa giải thù địch với người chồng chỉ còn biết sống để
chia sẻ bước tiến thiêng liêng của vợ mình.
Phanxica
cũng lôi kéo các phụ nữ Rôma vào việc giúp đỡ cho những tình cảnh khốn khổ do
chiến tranh để lại. Ngài tụ họp vào một nhà những bà cùng một lý tưởng bác ái
và khổ hạnh. Đây là thời đầu của dòng những người tận hiến cho Đức Maria. Gọi
như thế vì khi tự hiến họ dùng từ ngữ: "Con hiến mình" thay vì tuyên
đọc lời khấn. Trong số những cuộc trở lại Phanxica tạo được, có cuộc trở lại của
vợ của Gioan tẩy giả, con Ngài.
Sau
bốn năm hoà hiệp, Phanxica mất chồng. Ngài tới quì trước cửa tu viện mình đã
thiết lập. Đi chân không. đeo giây vào cổ, Ngài xin nhập dòng.
Gioan
tẩy giả ngã bệnh, Phanxica bỏ dòng về thăm, Ngài đã bị lên cơn sốt và đã qua đời
chính tại nhà mình. Các nữ tu vây quanh Ngài để nghe những lời khuyên cao cả: -
Hãy trung tín đến chết, Satan sẽ tấn công các chị như đã tấn công tôi. Nhưng
không thử thách nào quá độc dữ nếu các chị trung thành với Chúa Giêsu.
Nói
lời cuối cùng xong, cửa trời mở ra, thiên thần của Ngài ra dấu kêu gọi Ngài theo.
Thánh Phanxica được chọn làm thánh bảo trợ của các phụ nữ đã lập gia đình và trở
nên góa bụa.
(Daminhvn.net)
09
Tháng Ba
"Hãy Làm Một
Cái Gì Ðẹp Cho Chúa"
Mẹ
Têrêxa Calcutta thường hay nói: "Hãy làm một cái gì tốt đẹp cho
Chúa". Sau tên cực trọng của Chúa Giêsu, hai chữ thường nằm trên đầu môi
chót lưỡi của Mẹ là "tốt đẹp và kỳ diệu". Hai tiếng ấy là một tóm gọn
của bài ca ngợi khen của Ðức Maria mà Mẹ Têrêxa đã lấy làm tâm tình của mình. Tốt
đẹp và kỳ diệu thay Tình Yêu Quan Phòng của Chúa được thể hiện qua những hy
sinh và phục vụ của Mẹ dành cho những người cùng khổ ở Ấn Dộ và trên khắp thế
giới...
Cách
đây hơn 15 năm, Malcolm Muggerridge, một ký giả và bình luận gia nổi tiếng của
đài BBC, đã cùng với một nhóm chuyên viên của đài đến Ấn Ðộ để làm một cuộc phỏng
vấn về Mẹ Têrêxa, về các hoạt động của Mẹ. Sau năm ngày làm việc, đến lúc cắt
xén và tháo ráp để dựng thành cuốn phim, Mẹ Têrêxa đã thốt lên: "Hãy làm một
cái gì tốt đẹp cho Chúa". Câu nói của Mẹ đã được ký giả Muggerridge lấy
làm tựa đề của cuốn phim thời sự về Mẹ và các nữ tu của Mẹ. Cuốn sách ghi lại
cuộc phỏng vấn cũng mang cùng một tựa đề. Sau khi cuốc phim được trình chiếu
trên đài BBC, thế giới bỗng chú ý đến người nữ tu đã từ mấy chục năm qua âm thầm
chăm sóc những người cùng khổ nhất trong các khu ổ chuột ở Calcutta. Tốt đẹp
và kỳ diệu thay! Khuôn mặt đau khổ của nhân loại được phơi bày, nhưng Tình Yêu
của Thiên Chúa cũng được thể hiện qua những âm thầm hy sinh phục vụ của Mẹ
Têrêxa và các nữ tu của Mẹ.
Ngày
nay, khi đi qua một số thành phố lớn trên thế giới, thỉnh thoảng người ta đọc
được bảng hiệu: "Hãy gìn giữ cho thành phố được sạch" hoặc "Hãy
làm đẹp thành phố". Những khẩu hiệu ấy nhắc nhở cho kiều dân và khách qua
đường về nghĩa vụ tôn trọng trật tự, cũng như giữ cho thành phố được sạch sẽ và
đẹp đẽ.
Mỗi
người Kitô cũng là một thành phố của Thiên Chúa. Họ luôn được mời gọi để giữ thơm
và làm sạch cho thành phố ấy. Thay vì vứt bừa bãi ra bên ngoài những rác rưởi của
những hành vi bất chánh, họ luôn được mời gọi để bày tỏ một bộ mặt tốt đẹp và kỳ
diệu để qua đó thiên hạ sẽ nhìn vào mà ngợi khen Cha trên trời...
"Hãy
làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa": đó phải là câu tâm niệm mà người
Kitô thốt lên khi vừa thức giấc đón chào một ngày mới.
"Hãy
làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng cách dâng lên Ngài hy sinh
trong những công việc nhỏ bé hằng ngày.
"Hãy
làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng những cử chỉ quảng đại, hy
sinh phục vụ đối với những người cùng khổ nhất trong xã hội.
"Hãy
làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng cách sống tử tế và không ngừng
tha thứ cho những người xúc phạm đến mình.
"Hãy
làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" bằng chứng tích của một cuộc sống đầy
lạc quan và vui tươi ngay cả khi chỉ gặp toàn đau khổ, thử thách...
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét